Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 27 tháng 11 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Chiều 26/11, đại diện Chi cục Kiểm Lâm Đồng Nai cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phê duyệt chấp thuận nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương để thực hiện dự án khẩn cấp bảo tồn đàn voi rừng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt số tiền 45 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương để đầu tư các hạng mục thiết lập chương trình giám sát diễn biến hoạt động của đàn voi trên địa bàn Đồng Nai; cải thiện sinh cảnh sống tự nhiên; xây dựng hàng rào diện tử cố định, di động và tuyến đường theo hàng rào nhằm phòng, tránh xung đột giữa voi và người.
Ngoài ra, nguồn vốn ngân sách tỉnh Đồng Nai là 29 tỷ đồng để đầu tư các hạng mục còn lại trong dự án khẩn cấp bảo tồn voi. Như vậy, tổng nguồn vốn của dự án khẩn cấp bảo tồn đàn voi rừng ở Đồng Nai là 74 tỷ đồng.
Dự án bảo tồn voi sẽ được triển khai từ tháng 12/2014 trên địa bàn các huyện Vĩnh Cửu, Tân Phú, Định Quán - những địa phương còn diện tích rừng tự nhiên lớn và có đàn voi thường xuất hiện.
Đại diện Chi cục Kiểm lâm tỉnh cũng cho biết, thống kê từ 2009 đến nay, đã có chín cá thể voi bị chết và một người thiệt mạng vì bị voi tấn công. Hiện số lượng đàn voi trên địa bàn tỉnh chỉ còn 11 con, do đó việc dự án được thực hiện hứa hẹn sẽ góp phần bảo tồn và phát triển đàn voi rừng, đồng thời ngăn chặn xung đột giữa voi và người. (VietnamPlus 26/11) đầu trang(
26-11, bà Nguyễn Thị Phương Dung - phó giám đốc Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV - thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật VN) - cho biết đã gửi văn bản đến hai bộ trưởng Bộ Công an và Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND tỉnh và Công an tỉnh đề nghị điều tra, xử lý đường dây mua bán rùa biển tại TP Nha Trang.
Bà Dung cho hay vừa qua ENV đã hợp tác cùng lực lượng trinh sát Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49) Bộ Công an điều tra, phát hiện cơ sở sản xuất đồ mỹ nghệ tại xã Phước Đồng (TP Nha Trang) lưu giữ trái phép hơn 4 tấn rùa biển (ước tính 1.000 con) nhằm phục vụ mục đích chế tác và buôn bán.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, các cơ quan chức năng mới chỉ ghi nhận đối tượng Hoàng Tuấn Hải là chủ cơ sở sản xuất đồ mỹ nghệ nói trên. Trong khi đó, theo điều tra của ENV, người thật sự cầm đầu đường dây buôn lậu, chế tác và tiêu thụ trái phép rùa biển quý hiếm lớn nhất nước này vẫn chưa được đề cập tới.
Đại tá Đào Văn Toản - trưởng Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Công an tỉnh Khánh Hòa (PC49) - cho biết: “Công an đã bàn giao tang vật cho Thanh tra Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Khánh Hòa để trưng cầu giám định xem đây là những động vật gì, mức độ nguy cấp, quý, hiếm đến đâu. Xử lý vi phạm hành chính hay xử lý hình sự đối với vụ việc này cần phải chờ kết quả giám định”.
Trong cuộc trao đổi với PV sáng 26-11, ông Lê Văn Dũng - chánh thanh tra Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Khánh Hòa cho biết: “Chúng tôi đã có văn bản trưng cầu giám định gửi Viện Hải dương học. Với khối lượng gần 4,4 tấn rùa biển, yêu cầu là phải giám định từng con một để xác định đúng chủng loại, mức độ nguy cấp, quý hiếm nên không thể có kết quả một sớm một chiều mà chắc phải kéo dài hàng tháng.
Sau khi có kết quả giám định sẽ thành lập hội đồng xem xét xử lý, nếu thấy có yếu tố hình sự thì Thanh tra Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra thụ lý”. (Tuổi Trẻ 27/11) đầu trang(
Được thành lập với mục đích bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng cùng hệ động thực vật phong phú sinh sống dưới tàn rừng, hiện nay cả nước có 30 Vườn quốc gia nằm rải rác khắp bắc trung nam.
Tuy nhiên, cũng như hầu hết những khu rừng khác, ngay cả rừng thuộc Vườn quốc gia cũng đang bị tàn phá, xâm hại nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Tổng cục lâm nghiệp, tại 30 khu Vườn quốc gia được quy hoạch và bảo vệ thì đều xảy ra tình trạng xâm phạm như chặt phá gỗ rừng, săn bắt động vật hoang dã, cháy rừng hay thậm chí là canh tác trong phạm vi rừng. Có thể nói, những vi phạm trên không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới khu vực vườn quốc gia mà còn ảnh hưởng nhiều đến hệ sinh thái môi trường cũng như những loài động thực vật sinh sống trong đó.
Theo một những người dân sinh sống ở trong khu vực Vườn quốc gia Cát Tiên, vùng thượng nguồn của sông Đồng Nai thì đây là khu vực vô cùng rộng lớn, được quy hoạch để bảo tồn thiên nhiên và tính đa dạng sinh học cho vùng Đông Nam bộ rộng lớn.
Hơn nữa, hệ sinh thái và tính bền vững trong phát triển của vườn quốc gia Cát Tiên cũng ảnh hưởng trực tiếp tới khu vực sông Đồng Nai dưới hạ lưu. Chính vì ý nghĩa quan trọng đó mà khu vực vườn Cát Tiên được bảo vệ khá nghiêm ngặt. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tình trạng chặt phá rừng và săn bắt động vật hoang dã diễn khá phổ biến. Hậu quả của tình trạng này là rất nhiều loài động vật quý hiếm ở Cát Tiên đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và nhiều trong số đó đã mãi mãi không còn bao giờ xuất hiện nữa.
Điển hình như loài tê giác Java, một trong những loài động vật to lớn cực kỳ quý hiếm trên thế giới cũng đã bị tuyệt chủng ở Việt Nam mà chỉ chừng hơn 30 năm trước, số lượng loài động vật này ở Cát Tiên còn đếm được hàng chục cá thể. Đơn giản hơn nữa chính là loài bò tót, một trong những động vật quý hiếm hiện nay vẫn còn nhiều ở Cát Tiên nhưng theo những chuyên gia môi trường, số lượng của chúng cũng đang giảm rất nhanh, do chết hoặc tự ý di cư đi những vùng rừng núi lân cận.
Nguyên nhân chính là việc môi trường sống của chúng đã thay đổi và những cá thể bò tót này buộc phải dịch chuyển đi nơi khác để thích nghi. Ngoài ra, hàng trăm loài động vật và chim cá các loại ở Cát Tiên cũng đã ít xuất hiện đi. Như khu vực Bàu Sấu, một trong những nơi được người dân địa phương cho là có hàng trăm con cá sấu nước ngọt quý hiếm nhưng hiện nay, số lượng của chúng cũng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
Vậy nhưng, không chỉ những loài động vật hoang dã ở vườn quốc gia Cát Tiên bị săn bắt, bị tuyệt chủng mà tình trạng này đang xảy ra ở hầu hết các vườn quốc gia khác như vườn quốc gia Núi Chúa (Ninh Thuận), Tràm Chim (Đồng Tháp) hay Mũi Cà Mau (Cà Mau)…
Theo đó, với những quy hoạch vụ thể, những vườn quốc tại những địa phương trên không chỉ mang đầy đủ ý nghĩa sinh thái của hệ động thực vật vùng đất đó mà nó chính là nơi để những loài động thực vật đặc trưng nhất ở vùng đất đó sinh sống, cư ngụ.
Chính vì vậy, việc săn bắt, khai thác quá mức ở những khu vực trong vườn quốc gia sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái của cả một khu vực rộng lớn xung quanh. Ví dụ như vườn quốc gia Núi Chúa thì có bảo tồn nhiều loài sinh vật trên cạn lẫn biển, như san hô chẳng hạn. Vườn quốc gia Tràm Chim là nơi cự ngụ, sinh sôi của nhiều loài chim quý hiếm hay vườn quốc gia Mũi Cà Mau là nơi bảo tồn, phát triển những loài động thực vật sinh sống trong vùng bán ngập, nhiễm phèn…
Hơn nữa, không chỉ khai thác, săn bắt động vật hoang dã, nhiều loài gỗ quý hiếm ở khu vực vườn quốc gia cũng bị chặt phá, xâm hại nghiêm trọng. Điển hình như khu vườn quốc gia Bình Châu-Phước Bửu (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu). Được biết, đây là khu vườn quốc gia rộng lớn nằm ở phía bắc của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, giáp ranh với vùng Hàm Tân (Bình Thuận), có nhiều loài gỗ quý hiếm như tràm, trắc, căm-xe… nên luôn được bọn lâm tặc nhòm ngó.
Ngoài ra, không như nhiều vườn quốc gia khác nằm ở những địa thế hiểm trở, giao thông khó khăn khiến bọn lâm tặc không thể thực hiện những ý đồ khai thác, vận chuyển gỗ của mình thì ở Bình Châu-Phước Bửu, giao thông quanh vực vườn quốc gia lại rất thuận tiện do có nhiều khu dân cư và cả những tuyến đường quốc lộ đi qua.
Cộng thêm với địa bàn rộng lớn, lực lượng kiểm lâm mỏng khiến nhiều cây gỗ quý ở rừng thường xuyên bị chặt phá, khai thác mất. Có thể nói, việc mất đi những loài gỗ quý ở đây không chỉ ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học trong vùng mà còn làm mỏng đi tấm lá chắn phòng hộ bởi nhiệm vụ của vườn quốc gia Bình Châu-Phước Bửu còn là rừng phòng hộ, giúp hàng ngàn hộ dân trong vùng ven biển này chống trả với sự biến đổi ngày càng khắc nghiệt của khí hậu nơi đây.
Có thể nhận thấy ngay rằng, việc chung tay gìn giữ những giá trị của vườn quốc gia chính là việc làm cấp bách, cần thiết để bảo vệ hệ sinh thái rừng cũng như môi trường sống của chính chúng ta. Thế nhưng, do địa hình của hầu hết các vườn quốc gia là vô cùng rộng lớn lại giáp ranh với nhiều địa bàn.
Như vườn quốc gia Cát Tiên giáp với cả 3 tỉnh Bình Phước, Lâm Đông, và Đồng Nai nên công tác quản lý, ngăn chặn những vụ tiêu cực cần sự chung tay của nhiều ngành thuộc nhiều địa phương khiến công việc chưa được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Ngoài ra, nguyên nhân nữa chính là việc ở hầu hết các khu vực vườn quốc gia luôn có những hộ dân người địa phương sinh sống, săn bắt trong khu vực lân cận, giáp ranh với vườn quốc gia. Vì thế, kẻ gian đã lợi dụng những hộ dân này để thực hiện những ý đồ xấu và làm tình hình diễn biến phức tạp hơn.
Theo nhiều hộ dân ở khu vực Vườn quốc gia Chư Yang Sin (Đắc Lắc) thì nơi đây là vùng đất tập trung rất nhiều loại gỗ quý hiếm, có giá trị cao mà điển hình như loài dổi, pơ-mu, giáng hương…
Ngoài ra, Vườn quốc gia Chư Yang Sin còn được coi là vùng đất đa dạng và giàu có nhất ở vùng Tây Nguyên rộng lớn. Vậy nhưng thời gian vừa qua, hàng trăm hộ dân sinh sống ven vườn quốc gia, ở những khu rừng đệm của khu vực này đã tìm cách xâm nhập trái phép vào vườn quốc gia nhằm khai thác, nhiều nhất là gỗ và những loại tài nguyên rừng khác.
Điển hình trong tình trạng này là hết sức ồ ạt và tự phát, không có bất cứ sự bảo tồn cũng như gìn giữ nào khiến rừng trong khu vực vườn quốc gia tan hoang, xơ xác. Theo nhiều người dân địa phương, giá trị của nhiều loại gỗ ở Chư Yang Sin lên đến cả tỷ đồng khiến cho hàng trăm lâm tặc bất kể nguy hiểm, tìm mọi cách chặt phá và khai thác khiến lực lượng kiểm lâm cũng gần như bất lực bởi lực lượng ít mà địa bàn lại quá rộng lớn.
Có thể nói, khác với những khu rừng bình thường khác, vườn quốc gia là nơi quy hoạch, bao gồm chủ yếu là rừng cùng một số hệ sinh thái khác là nơi được bảo vệ, gìn giữ nhưng hiện nay, đa phần ở đó cũng bị tàn phá, xâm hại nghiêm trọng. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở một vài nơi mà gần như hầu hết các khu vực Vườn quốc gia khiến tình hình trở lên hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn tới môi trường sống của hàng trăm loài động thực vật mà hầu hết trong đó đều là những loài quý hiếm khiến dư luận khá bức xúc.
Vì vậy, bên cạnh việc ban hành những chế tài răn đe đủ mạnh, những khu vực vườn quốc gia này cần tăng cường công tác bảo vệ tuần tra cũng như tuyên truyền tới người dân những lợi ích lâu dài, bền vững của rừng để mọi người cùng chung tay bảo vệ, gìn giữ.
Có thể nói, chỉ khi có sự đồng thuận của những người dân sinh sống ven khu vực vườn quốc gia về công tác bảo vệ, gìn giữ, bảo tồn và phát triển thì những cánh rừng cùng hệ động thực vật khác trong vườn quốc gia mới có cơ hội phát triển bền vững và lâu dài được. Và, đó cũng chính là ý nghĩa tốt đẹp mà các khu vườn quốc gia đang tích cực hướng tới để chúng ta có một môi trường sống bền vững hơn trong tương lai sắp tới. (Đời Sống & Pháp Luật 26/11) đầu trang(
Ủy ban nhân dân huyện Văn Bàn phối hợp với Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lào Cai chỉ đạo Hạt Kiểm lâm huyện Văn Bàn xây dựng Quy chế Phối hợp công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng giữa Hạt Kiểm lâm huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai với Hạt Kiểm lâm huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu; Mù Cang Chải, Văn Yên tỉnh Yên Bái trong Quy chế yêu cầu định kỳ 1 năm các Hạt Kiểm lâm tổ chức họp giao ban 01 lần theo chế độ luân phiên vào đầu mùa khô hanh.
Năm 2014 Ủy Ban nhân dân huyện Văn Bàn tổ chức hội nghị giao ban 01 năm thực hiện Quy chế phối hợp công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy nhằm mục đích: Đánh giá kết quả thực hiện Quy chế phối hợp, những thuận lợi, khó khăn, đề xuất các biện pháp triển khai thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy trong thời gian tới.
Tăng cường mối quan hệ hữu nghị hợp tác trong công tác quản lý, bảo vệ rừng vùng giáp ranh giữa chính quyền địa phương và các Hạt Kiểm lâm huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai; Than Uyên tỉnh Lai Châu; Văn Yên, Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái.
Tăng cường Bảo vệ diện tích rừng hiện có, không để xảy ra cháy rừng, thiệt hại do chặt phá rừng, săn bắt động vật rừng trái phép... Đặc biệt là khu vực giáp ranh giữa huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai với huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu; Mù Cang Chải, Văn Yên tỉnh Yên Bái.
Thời gian dự kiến vào ngày 19/12 tổ chức tại Hội trường Hạt Kiểm lâm huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. UBND huyện đã giao cho Hạt Kiểm lâm huyện Văn Bàn chuẩn bị tài liệu, nội dung và các điều kiện để tổ chức hội nghị. (Báo Lào Cai 24/11) đầu trang(
Với Chiến dịch bảo tồn loài Voọc chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), một loài linh trưởng đẹp nhất trên thế giới, nằm trong Sách đỏ có nguy cơ diệt chủng cao  tại bán đảo Sơn Trà (TP Đà Nẵng), Lê Thị Trang, cô gái Đà Nẵng với tuổi đời còn rất trẻ (28 tuổi)  đã lọt vào TOP 10 nhà bảo tồn trẻ được vinh danh tại giải thưởng quốc tế Future For Nature Award 2015.
Vượt qua những ứng cử viên "nặng ký" của thế giới trong các hoạt động bảo tồn hổ bengal, sư tử... tại các khu vực khó khăn nhất của thế giới, ở các quốc gia  còn phân biệt về sắc tộc, giới tính, Lê Thị Trang đã lọt vào TOP 10 của giải thưởng Future For Nature Award 2015, một giải thưởng uy tín quốc tế dành cho các nhà bảo tồn trẻ của thế giới đã có những hoạt động xuất sắc trong công tác bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã.
Chia sẻ về cảm xúc hạnh phúc này, Trang khiêm tốn: "Em là người may mắn". May mắn lớn nhất theo Trang đó chính là Đà Nẵng có Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà với giá trị to lớn về đa dạng sinh học. Có khu bảo tồn giá trị như thế để thực hiện công việc bảo tồn là một điều đáng hãnh diện và vô cùng quý giá, theo Trang.
Dự án đăng ký cho giải thưởng lần này của Trang được cho là đầy tính thực thi, hướng vào 4 mục tiêu lớn trong hành động bảo tồn loài Chà vá chân nâu tại Bán đảo Sơn Trà, đó là: nghiên cứu lại toàn bộ số liệu về loài Voọc chà vá chân nâu; từ kết quả nghiên cứu đó sẽ đưa thông tin đến những nhà bảo tồn để vận động chính sách, giúp chính quyền thành phố có những cân nhắc và tính toán hợp lý trong quy hoạch, đảm bảo không phá vỡ hệ sinh thái; đẩy mạnh truyền thông giáo dục đến với người dân; hướng đến năm 2020, loài Voọc chà vá chân nâu sẽ trở thành biểu tượng đầy thân thiện của TP Đà Nẵng.
28 tuổi và gần 10 năm dấn thân, tìm tòi, học hỏi và cống hiến cho hoạt động bảo tồn thiên nhiên là chặng đường dài đáng ngưỡng mộ của nhà bảo tồn trẻ tuổi. Khi còn là sinh viên khoa Môi trường - Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Trang đã tự đứng ra thành lập một câu lạc bộ về môi trường và là một tình nguyện viên tích cực trong việc điều tra hoạt động săn bắn động vật hoang dã.
Sau khi tốt nghiệp, Trang làm việc trong nhóm dự án Mac Arthur khu vực miền Trung - Tây Nguyên của Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV), phụ trách khu vực từ Quảng Trị đến Gia Lai, nghiên cứu các hoạt động săn bắt buôn bán động vật hoang dã, và kết hợp với cơ quan chức năng tổ chức các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng.
Từ tháng 4 năm 2013, Trang về với GreenViet (Trung tâm bảo tồn đa dạng sinh học nước Việt xanh) với mong muốn góp công sức và kinh nghiệm để phát triển các chiến lược truyền thông bảo tồn Đa dạng sinh học  trong khu vực, mở đầu với Chiến dịch bảo tồn loài Voọc chà vá chân nâu tại bán đảo Sơn Trà.
Những ngày đầu thành lập GreenViet, khi chưa có bất kỳ dự án nào tài trợ, làm bảo tồn "không công" là điều mà nhà bảo tồn trẻ đầy nhiệt huyết như Trang dám đương đầu.
2 năm qua, hàng loạt các chương trình truyền thông và giáo dục hiệu quả đã được Trang cùng nhóm GreenViet thực hiện như: Chương trình "Hiệp sĩ rừng Sơn Trà" triển khai thí điểm tại các trường học thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà như: Trường tiểu học Trần Quốc Toản, Trường tiểu học Nguyễn Tri Phương; Trường THCS Lý Tự Trọng, Trường THCS Nguyễn Chí Thanh, với những bài học trực quan và sinh động nhằm giáo dục ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ động vật hoang dã cho học sinh; Chương trình "Khám phá mùa hè" được tổ chức tại Công viên 29/3 Đà Nẵng là sân chơi, tìm hiểu về động vật dành cho các cháu thiếu niên dưới 14 tuổi.
Từ sân chơi này, các cháu đã học cách không sợ hãi, không ném đá vào thú, học cách yêu thương và bảo vệ động vật hoang dã. Các chương trình truyền thông khác còn được thực hiện rộng rãi ở các tụ điểm du lịch như khách sạn, nhà hàng, cà-phê của TP Đà Nẵng bằng các thông điệp kêu gọi du khách nói không với thực phẩm từ động vật hoang dã, bảo vệ hệ sinh thái bằng những hành động thiết thực nhất.
Thời gian cuối tuần của nhà bảo tồn trẻ dường như cũng trở nên khá bận bịu với những chuyến đi rừng.  Chương trình "Tôi yêu Sơn Trà" được Trang và nhóm GreenViet tổ chức vào mỗi chủ nhật hằng tuần với các hoạt động như lên Sơn Trà ngắm Voọc, dọn rác thải... đã thu hút sự tham gia đông đảo của các bạn trẻ Đà thành trong suốt gần 2 năm qua.
Trang nói, qua những chuyến đi dã ngoại này, thông điệp mà nhóm muốn truyền đến các bạn trẻ không chỉ dừng lại ở chuyện vui chơi mà giúp các bạn nhận ra Bán đảo Sơn Trà có giá trị như thế nào về đa dạng sinh học, Sơn Trà chỉ đẹp khi những giống loài động vật hoang dã được bảo vệ, hệ sinh thái được giữ gìn.
Một ngày cuối tuần dạo chơi Sơn Trà, có thể tình cờ bạn sẽ bắt gặp những nhóm sinh viên phượt bằng xe máy nhưng chẳng bao giờ gây ra những tiếng động ồn ào như bóp còi, rồ máy. Đó chính là nhóm phượt "Tôi yêu Sơn Trà" với sự tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc về bảo vệ môi trường sống của động vật hoang dã. Người đi cuối cùng của con đường ấy để đảm bảo rằng các sinh viên tham gia nhóm được an toàn sẽ là Trang.
Và ở nơi cuối con đường ấy, nhận ra nhà bảo tồn trẻ - Lê Thị Trang - đầy tình yêu, trách nhiệm dành cho Sơn Trà xinh đẹp, ấp ủ ước mơ về một tương lai không xa loài Voọc chà vá chân nâu sẽ trở thành biểu tượng của Đà Nẵng. (Công An TP Đà Nẵng 27/11) đầu trang(
Quần thể thủy tùng Trấp K’sơr (thuộc xã Ea Hồ, huyện Krông Năng) là một trong hai quần thể thủy tùng của cả nước, loài cây quý hiếm này luôn đối diện với sự xâm hại của con người...  Nhưng với nỗ lực không mệt mỏi của những người giữ rừng loài cây này vẫn được bảo vệ, phát triển.
Trạm quản lý, bảo vệ rừng Trấp K’sơr (thuộc Ban quản lý Khu bảo tồn loài-sinh cảnh thông nước) được thành lập từ năm 2012, với biên chế 6 người có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ 21 cây thủy tùng trên địa bàn. Để giữ an toàn cho số cây ít ỏi còn sót lại này, các cán bộ giữ rừng đã phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều trước những áp lực.
Anh Nguyễn Văn Khương trạm trưởng chia sẻ: Bảo vệ loài cây đang nằm trong diện sắp tuyệt chủng này có đặc thù riêng, phải tuyệt đối không để bị con người xâm hại dù chỉ với cành, ngọn, đó cũng chính là cái khó cho cán bộ giữ rừng ở đây, không như những đơn vị quản lý rừng hàng ngàn héc- ta dù có bị cưa đi vài cây gỗ thì cũng ít người biết đến.
Ngoài ra, những năm gần đây, gỗ thủy tùng bị săn tìm ráo riết bởi những tin đồn thổi về công dụng ghê gớm của loài gỗ này như trị ung thư, đuổi muỗi, trừ tà… Anh Khương kể: Có người bạn từng gặp anh gợi ý: “Mày làm trong đó có cành thủy tùng nào khô kiếm cho tao một miếng về chưng trong nhà cho muỗi nó khỏi vào”. Anh nổi đóa: “Ai nói với mày thế?”. Anh bạn tỉnh queo trả lời: “Tao nghe đồn vậy”. Anh phản pháo lại: “Tụi tao ở trong này, nhiều khi mắc võng ngủ ngay dưới gốc thủy tùng còn bị muỗi nó xơi, đừng có tào lao”.
Đó là với người làm công tác quản lý bảo vệ am hiểu loài cây thủy tùng như anh, còn đối với những người khác, họ vẫn tin gỗ thủy tùng có những tác dụng ghê gớm, và rồ dại săn tìm chúng. Họ tìm đủ mọi cách để có nó, nhà nhà đi săn tìm thủy tùng, họ đào xới ruộng đồng, ngụp lặn dưới lòng hồ ở những khu vực trước đây có thủy tùng sinh sống để tìm kiếm từ những thân cây, gốc rễ, cành ngọn bị chôn vùi. Dân buôn gỗ cũng sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm để thu mua.
Không những thế, những cây còn sống trong quần thể thủy tùng ở Trấp Ksơr cũng bị lâm tặc nhắm đến. Điều này đã tạo nên áp lực ghê gớm cho những người giữ rừng ở đây. Anh Khương tâm sự: “Hằng ngày anh em phải liên tục tuần tra xung quanh khu vực có cây thủy tùng sinh sống, tối thì phải mắc võng ngủ ngoài rừng. Từ khi lập trạm đến nay, chưa anh em nào ở đây có một cái tết trọn vẹn với gia đình mà phải thay nhau ở lại rừng túc trực”.
Đi thăm khu vực có cây thủy tùng, cán bộ bảo vệ rừng Trịnh Duy Hải hỏi: “Đố anh biết hai loại “đặc sản” ở khu rừng này là gì?”. PV trả lời ngay: “Chắc chắn là thủy tùng, còn loại nữa thì chịu”. Hải xua tay phản đối: “ Sai bét, đó là đỉa và muỗi, đỉa ở đây nhiều như trấu vãi, con nào con nấy to như ngón chân cái, anh em lội rừng dù đã được trang bị ủng dài và áo mưa, nhưng chúng vẫn chui vào cắn được. Còn muỗi thì khỏi phải nói, tối mắc võng ngủ ở rừng và giăng màn kín mít nhưng âm thanh đàn muỗi phát ra vẫn như sáo thổi”.
Hải kể thêm, ở trạm này có một câu chuyện liên quan đến đỉa hay đáo để, vào năm 2013, trong lúc tuần tra, Lê Văn Huy bị đỉa cắn phải, do lội nước lâu ngày nên bị nhiễm trùng phải lên viện mổ, trong thời gian nằm điều trị chờ phục hồi, anh lân la tán tỉnh được cô y tá, nay là vợ của anh. “Mấy anh em chưa vợ trong đơn vị từ đó toàn trêu nhau xem đỉa như “linh vật” của tình yêu, ai muốn lấy vợ thì cứ cho đỉa cắn rồi lên viện nằm khắc có”, Hải đùa vui.
Khu vực mà thủy tùng tập trung sinh sống là vùng sình nước ngập quanh năm, cỏ dại cây cối mọc um tùm nên việc tuần tra bảo vệ không thể dùng thuyền mà phải trực tiếp lội nước. Mùa mưa có chỗ nước ngập ngang ngực, lạnh thấu xương. Để bảo vệ tốt thủy tùng, vừa tiết kiệm được công sức, những cán bộ quản lý bảo vệ rừng đã “sáng chế” ra cách giăng bẫy để biết có người xâm nhập vào rừng hay không.
Trên những lối mòn người dân hay qua lại, các anh vắt những dây rừng hay cột những sợi chỉ ngang qua, nếu có người đi vào thì đương nhiên vướng vào làm đứt sợi chỉ hoặc dây rừng, chỉ cần kiểm tra thấy sợi chỉ, dây rừng bị đứt là có dấu hiệu người vào rừng  cấm…
Những cây thủy tùng ở đây với tuổi đời từ 40 - 600 năm vẫn vươn lên xanh tốt như một lời khẳng định rằng, “báu vật” của rừng vẫn đang được nâng niu, gìn giữ. (Báo Đắc Lắc 25/11) đầu trang(
Sáng 26-11, ông Phạm Trường Thọ, phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi cho biết, trong hai tháng 10, 11, thống kê của ngành y tế, toàn tỉnh có 135 trường hợp bị rắn lục đuôi đỏ cắn.
Rất may là tất cả trường hợp bị rắn cắn đều được cấp cứu kịp thời nên không có ca tử vong.
Trả lời về thông tin có người mang rắn lục đuôi đỏ đi thả trong các khu dân cư, ông Thọ nói tin đồn này chỉ là tin đồn thất thiệt, gây hoang mang trong dân, hoàn toàn không có người mang rắn lục đuôi đỏ đi thả như thông tin lan truyền.
Hiện tỉnh chỉ đạo cho các sở, ngành và địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, phòng chống rắn lục đuôi đỏ trong dân, tổ chức phát quang bụi rậm và hướng dẫn các biện pháp sơ cấp cứu khi bị rắn lục đuôi đỏ cắn cho người dân nắm bắt để chủ động ứng phó. (Tuổi Trẻ 27/11) đầu trang(
Ủy ban nhân dân huyện Sa Thầy tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô 2013 – 2014, triển khai nhiệm vụ trong mùa khô 2014 – 2015; ông Nguyễn Ngọc Sâm – Phó Chủ tịch UBND huyện, Trưởng BCH về các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng chủ trì hội nghị.
Tham dự Hội nghị có đại diện Chi cục kiểm lâm, Hạt kiểm lâm huyện, Vườn quốc gia Chư Mom Ray, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Sa Thầy, Trưởng ban BCH các xã, thị trấn và các thành viên của BCH.
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Sâm đánh giá: Mùa khô năm 2013 – 2014, các lực lượng chức năng, các địa phương đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng, nên không để xảy ra cháy rừng trên địa bàn. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền còn hạn chế; tình trạng phát, đối rừng làm nương rẫy vẫn còn xảy ra; công tác phối hợp giữa các ngành với địa phương chưa chặt chẽ.
Để thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô năm tới 2014 – 2015, yêu cầu Hạt kiểm lâm huyện phối hợp với các chủ rừng triển khai thực hiện tốt phương án phòng cháy, chữa cháy rừng đã được phê duyệt, trong đó tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng cháy, chữa cháy rừng cho nhân dân; thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ”; Các chủ rừng phải thường xuyên tuần tra, kiểm tra, không để người dân mang các vật liệu dễ cháy nổ vào rừng; Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng.
Hội nghị đã trao giấy khen của Chủ tịch UBND huyện cho 02 tập thể, 07 cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. (Sathay.kontum.gov.vn 24/11) đầu trang(
Hạt Kiểm lâm huyện Hòa An vừa phối hợp với xã Bình Dương (Hoà An) tổ chức diễn tập phòng chống, chữa cháy rừng tại khu đồi Nà Khưa, xóm Nà Hoan, xã Bình Dương.
Cuộc diễn tập được chia thành 3 giai đoạn: Thông báo tình hình thời tiết, khí hậu, thủy văn; chuyển cấp báo động, chuyển địa phương vào tình trạng khẩn cấp, sẵn sàng đối phó với tình huống cháy rừng; thực hành xử lý tình huống, chữa cháy rừng.
Huyện Hoà An có trên 80% diện tích đất lâm nghiệp có rừng. Trong những năm gần đây, việc bảo vệ chăm sóc rừng được thực hiện khá tốt, tuy nhiên vào mùa khô hanh vẫn có hiện tượng cháy rừng xảy ra. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn huyện xảy ra 7 vụ cháy rừng, thiệt hại gần 8 ha rừng.
Qua diễn tập giúp người dân, chính quyền địa phương nâng cao ý thức, chủ động phòng chống, chữa cháy rừng hiệu quả.
Cuộc diễn tập được đánh giá đạt loại khá. Nội dung thực hành được các đơn vị hiệp đồng chặt chẽ, đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và phương tiện. (Báo Cao Bằng 26/11) đầu trang(
Nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn, từ năm 2007 đến nay, UBND huyện Ðăk Glong (Ðăk Nông) đã tổ chức giao khoán hơn 4.500ha rừng tự nhiên và đất rừng do địa phương quản lý cho các hộ gia đình đồng bào DTTS, cộng đồng thôn, bon, buôn quản lý, bảo vệ, trong đó có 25 hộ, 61 nhóm hộ, 6 cộng đồng thôn, bon, buôn trên địa bàn của 7 xã.
Việc giao khoán rừng này phát huy hiệu quả, không chỉ góp phần giữ được rừng mà còn giúp người dân giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên rừng. (Nông Thôn Ngày Nay 27/11) đầu trang(
Ngoài nhiệm vụ pháp chế kiểm thu, Hạt Kiểm lâm Tiên Phong (Chi cục Kiểm lâm tỉnh) có nhiệm vụ phát triển, quản lý, bảo vệ 194 ha rừng, thuộc các huyện Tiên Du, Yên Phong và thị xã Từ Sơn.
Những năm qua, mặc dù trải qua nhiều gian nan, thử thách, Hạt luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần bảo vệ, phát triển bền vững diện tích rừng.
Theo ông Nguyễn Khắc Trung, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Tiên Phong, mặc dù rừng và diện tích đất lâm nghiệp do Hạt quản lý không nhiều nhưng phân bố rải rác, xen kẽ ở các khu dân cư, gần các khu công nghiệp mới, có nhiều điểm di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng với nhiều lễ hội lớn, thường ngày số người ra vào rừng vui chơi, vãn cảnh, nghỉ ngơi rất đông nên công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp không ít khó khăn.
Bên cạnh đó, nhu cầu về vật liệu xây dựng để tôn tạo mặt bằng khu dân cư, khu công nghiệp, đường giao thông... ngày càng tăng cao khiến cho công tác quản lý, bảo vệ đất lâm nghiệp và diện tích rừng ngày càng gay go, phức tạp.
Xác định rõ trọng trách của đơn vị và đặc thù địa bàn nên hàng năm Hạt Kiểm lâm Tiên Phong luôn tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh và chính quyền các địa phương, chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng, một mặt làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân, mặt khác tăng cường và đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, kiểm soát địa bàn, xử lý kiên quyết các hành vi vi phạm Luật quản lý, bảo vệ rừng.
Đối với công tác phát triển rừng, Hạt thường xuyên nắm bắt diễn biến rừng và đất lâm nghiệp kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi xâm hại rừng và đất lâm nghiệp. Tiến hành kiểm tra, rà soát những diện tích rừng có nguy cơ cháy cao, các biển báo bảo vệ rừng, bảng tin và các bể chứa nước để bổ sung và sửa chữa kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng cháy chữa cháy rừng.
Để việc quản lý bảo vệ rừng đạt hiệu quả thiết thực tại, Hạt phối hợp với các địa phương có diện tích đất lâm nghiệp thành lập 15 tổ đội xung kích phòng cháy chữa cháy rừng cấp thôn, tuyển chọn 10 quần chúng tiêu biểu, đủ điều kiện đề nghị Chi cục Kiểm lâm tỉnh ký hợp đồng cộng tác viên kiểm lâm...
Nhờ làm tốt công tác quản lý bảo vệ nên nhiều năm qua trên địa bàn Hạt quản lý không để xảy ra các vụ cháy rừng lớn và tình trạng khai thác đất lâm nghiệp trái phép, bảo vệ diện tích rừng phát triển tốt. Tìm hiểu tại xã Việt Đoàn, một trong những địa phương có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn của huyện Tiên Du được biết, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song hơn 20 ha rừng luôn được quản lý, bảo vệ chặt chẽ.
Ông Ngô Văn Thắm, cộng tác viên kiểm lâm xã Việt Đoàn cho biết, nhờ được Hạt Kiểm lâm Tiên Phong thường xuyên tập huấn, tuyên truyền nên người dân ngày càng nâng cao nhận thức về lợi ích của rừng với đời sống. Cùng với đó, Hạt thường xuyên phối hợp với UBND xã, chỉ đạo các cộng tác viên kiểm lâm của xã phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm thường xuyên tuần tra, kiểm soát nắm bắt diễn biến rừng, tình trạng chặt phá rừng, tình hình sâu hại, tự ý di chuyển, xây dựng mộ phần trên đất lâm nghiệp... để xử lý, ngăn chặn kịp thời. Nhờ vậy hạn chế các tác động xấu của người dân đối với rừng, đất lâm nghiệp và khai thác hiệu quả diện tích rừng với đời sống người dân.
Cũng theo ông Nguyễn Khắc Trung, hiện nay đang bước vào giai đoạn mùa khô nên công tác quản lý, bảo vệ rừng càng được Hạt Kiểm lâm Tiên Phong và chính quyền các địa phương có đất lâm nghiệp xác định là nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, để bảo vệ an toàn diện tích rừng, các cấp, ngành cùng người dân sống ven rừng cần tiếp tục nâng cao ý thức trong quản lý, bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng.
Cùng với đó, tỉnh cần có các chế tài xử lý nghiêm, đủ sức dăn đe đối với các hoạt động xâm lấn, mua bán đất rừng, đồng thời có chính sách hỗ trợ hơn nữa cho lực lượng cộng tác viên kiểm lâm, các tổ đội xung kích phòng cháy chữa cháy rừng. (Báo Bắc Ninh 26/11) đầu trang(
26-11, huyện Cẩm Khê tổ chức diễn tập PCCCR, bảo vệ rừng năm 2014.
Đến dự và chỉ đạo diễn tập có các ông: Bùi Minh Châu - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Vi Trọng Lễ - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Hoàng Công Thủy-TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng BCĐ thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh; Đại tá Nguyễn Hồng Thái- Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh.
Cuộc diễn tập PCCCR được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn vận hành cơ chế(tổ chức chuẩn bị PCCCR, bảo vệ rừng) và giai đoạn thực binh chữa cháy rừng. Tình huống giả định là trong quá trình làm rừng, chủ rừng đã không tuân thủ theo quy định xử lý thực bì bằng phương pháp đốt đã làm cháy rừng tại đồi Do Dự, khu 10, xã Tiên Lương. Người dân phát hiện ra cháy rừng đã thông báo cho trưởng khu hành chính và quần chúng nhân dân dùng các dụng cụ thủ công sẵn có để tham gia chữa cháy.
Đám cháy ngày càng lớn và lan rộng, lực lượng khu hành chính không đủ điều kiện dập tắt đám cháy cần sự vào cuộc hỗ trợ của cấp trên. Do đám cháy quá lớn, lực lượng của xã, huyện không khống chế được, Phó Chủ tịch UBND huyện đã báo cáo Trưởng BCĐ thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh xin tăng cường lực lượng, phương tiện chữa cháy chuyên nghiệp của Chi cục Kiểm lâm và Công an tỉnh.  Lực lượng, phương tiện của tỉnh được tăng cường đã nhanh chóng đến tham gia chữa cháy.
Tham gia giai đoạn thực binh chữa cháy rừng có gần 500 người, bao gồm: lực lượng của Hạt Kiểm lâm huyện; lực lượng dân quân cơ động, dự bị động viên và xung kích của  xã; cùng với sự hỗ trợ chi viện của lực lượng Kiểm lâm tỉnh, Công an tỉnh; Ban Chỉ huy quân sự, Công an huyện và các lực lượng khác trên địa bàn. Sau một thời gian triển khai khẩn trương, nhanh chóng và quyết liệt với sự tham gia tích cực của các lực lượng và nhân dân, đám cháy đã được dập tắt.
Kết thúc buổi diễn tập, Ban chỉ đạo tổng kết, rút kinh nghiệm. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Công Thủy biểu dương những cố gắng, nỗ lực của các thành viên Ban Chỉ đạo cũng như các lực lượng tham gia diễn tập có sự phối hợp hiệp đồng chính xác, chặt chẽ, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người và phương tiện, góp phần để cuộc diễn tập thành công tốt đẹp, đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Tuy nhiên đồng chí cũng nêu lên một số điểm còn hạn chế trong diễn tập và yêu cầu thời gian tới, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về PCCCR cho cán bộ, nhân dân. Từng ngành, cơ quan, đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm  để nâng cao hơn nữa khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy hiệp đồng trong nhiệm vụ PCCCR, bảo vệ rừng.
Các ban, ngành từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục nghiên cứu, rà soát, bổ sung kế hoạch, phương án PCCCR cho phù hợp. BCĐ thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng các cấp củng cố, kiện toàn và duy trì hoạt động hiệu quả. Cấp ủy, chính quyền huyện Cẩm Khê tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nhân dịp này các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc được khen thưởng. (Báo Phú Thọ 26/11) đầu trang(
Tiếp PV tại trụ sở Hạt Kiểm lâm Sông Mã, Hạt trưởng Đào Văn Tưởng, cho biết: Hạt có nhiệm vụ quản lý trên 74.500 ha rừng tại 19 xã, thị trấn, nhưng chỉ có 14 cán bộ kiểm lâm địa bàn.
Những tháng cao điểm gần như không có ngày nghỉ. Nghề nào cũng có nỗi gian truân vất vả. Cán bộ kiểm lâm phải có sự kiên trì, dũng cảm, sáng tạo và sức khỏe. Đội ngũ cán bộ ở đây được luân chuyển từ các hạt trên địa bàn tỉnh về, anh em coi rừng là nhà rồi.
Anh Vũ Văn Hải, được luân chuyển từ Hạt kiểm lâm Sốp Cộp về Hạt năm 2009, tâm sự: Hơn chục năm gắn bó với nghề,  tôi hiểu rất rõ, muốn bảo vệ rừng tốt nhất, phải biết dựa vào dân. Cán bộ kiểm lâm luôn phải đối mặt với những thủ đoạn tinh vi của lâm tặc. Nhiều lần phục kích lâm tặc, anh em phải thay nhau ngụy trang bám rừng cả tháng trời, còn chuyện bị rải đinh, ném đá thì vẫn thường diễn ra...
Có rất nhiều kỷ niệm mà anh Hải khó quên, như vào năm 2012, nhận được tin báo của quần chúng tại bản Tin Tốc (Mường Sai) có cất giấu lâm sản, kiểm lâm huyện đã phối hợp với UBND xã, đội công an kinh tế của huyện vây bắt đối tượng, tịch thu lâm sản. Đoàn nhanh chóng đến nơi cất giấu gỗ, đường xa, trời mưa, sau 2 ngày, xe chở gỗ mới ra đến trung tâm xã. Đợt đó, các anh đã thu nhặt được khoảng 5 kg đinh do bọn lâm tặc rải để ngăn cản cán bộ kiểm lâm...
Hay câu chuyện về cán bộ kiểm lâm Thào A Thanh, dũng cảm chặn 5 xe gỗ đợi đồng đội đến ứng cứu trong lần vây bắt lâm tặc chở gỗ từ Nậm Mằn. Lần đó, nhận được tin báo có đoàn xe máy chở gỗ từ Nậm Mằn xuống. Phục kích từ 9h tối, đến gần 3h sáng, đối tượng mới xuất hiện. Tổ công tác do phải chia quân làm nhiều điểm để chặn đầu, đối tượng nên mỗi chốt chặn chỉ có 1 cán bộ kiểm lâm. Khi 5 xe máy chở gỗ đi đến, anh Thanh một mình chặn lại, cứ giữ được xe này, rồi quay sang chặn xe kia để chờ ứng cứu của đồng đội. Lần đó, các anh bắt giữ được 8 xe máy, thu giữ 0.9 m3 gỗ.
Câu chuyện của chàng trai trẻ Hà Quốc Khánh lại khác. Vào nghề chưa đầy 2 năm, Khánh đã được Hạt giao nhiệm vụ bám nắm cơ sở tại địa bàn 2 xã Nậm Ty, Yên Hưng. Theo anh Khánh: để bảo vệ diện tích rừng, chỉ dựa vào nỗ lực, cố gắng của bản thân là chưa đủ, mà phải biết tranh thủ vào sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền và người dân địa phương. Hai năm bám cơ sở, chưa để xảy ra vụ phá rừng nghiêm trọng nào, trên địa bàn; việc bảo vệ rừng được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực chủ động trong công tác bảo vệ rừng.
Chuyện giữ rừng ở Sông Mã còn rất nhiều, công việc thường ngày của mỗi cán bộ, chiến sỹ kiểm lâm đã tác động đến ý thức của bà con trong việc trồng và bảo vệ rừng. Mỗi địa phương có cách làm khác nhau, như bản Hải Sơn, xã Chiềng Khoong, người dân đã đưa việc giữ rừng, bảo vệ rừng vào hương ước của bản. Hàng năm, bà con trong bản đều tổ chức ký cam kết làm nương đúng quy định không chặt phá rừng... nên 10 năm trở lại đây, bản không để xảy ra vụ cháy rừng, phá rừng nào.
Những câu chuyện không hề được nhắc trong báo cáo, trong những bảng thành tích, nhưng với các cán bộ kiểm lâm vì yêu nghề, vì mục tiêu giữ lại màu xanh của rừng, luôn vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. (Báo Sơn La 26/11) đầu trang(
Theo đánh giá của Chi cục Kiểm lâm tỉnh, 10 tháng năm 2014 lực lượng kiểm lâm, bảo vệ rừng chuyên trách và các lực lượng tại cơ sở đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, bám rừng kiên quyết thực hiện nhiệm vụ được giao. Tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét vào các trọng điểm có nguy cơ phá rừng.
Nhờ vậy, công tác bảo vệ rừng ở một số địa phương có chuyển biến tích cực, đã góp phần kéo giảm số vụ vi phạm Luật Bảo vệ phát triển rừng 12,3% so với cùng kỳ. Trong đó, đa số các hành vi đều giảm, đáng lưu ý là các hành vi về phá rừng, khai thác lâm sản trái phép giảm trên 15% về số vụ và mức độ thiệt hại. Số vụ phát hiện vắng chủ tại rừng qua kiểm tra truy quét giảm 8,3%. Số lâm sản qua xử lý tịch thu giảm 26,95%, số tiền thu nộp ngân sách qua xử phạt và bán tang vật tịch thu giảm 7,41% nhưng số phương tiện các loại tịch thu tăng 22%.
Qua đó, cho thấy mức độ vi phạm về lâm sản nhỏ, giá trị thấp và chủ yếu là do các phương tiện xe máy vận chuyển. Các huyện có số vi phạm Luật Bảo vệ phát triển rừng giảm so cùng kỳ tập trung ở các huyện giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng gồm Tánh Linh, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong, Đức Linh, Tuy phong và thị xã La Gi.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng 10 tháng qua vẫn còn những hạn chế, khó khăn. Trong đó, nổi lên tình hình phá rừng, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép còn diễn biến phức tạp, ngoài những địa bàn cũ còn thêm những địa bàn mới khai thác lâm sản trái phép khu vực Hàm Cần, Hàm Thạnh (Hàm Thuận Nam).
Tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp mới và tái lấn chiếm chưa được ngăn chặn triệt để. Công tác xử lý và thu hồi đất lấn chiếm tại Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Núi Ông (Tánh Linh) vẫn còn chậm so với yêu cầu.
Theo báo cáo của các Hạt Kiểm lâm, từ đầu năm đến nay các đơn vị chủ rừng đã phát hiện, lập hồ sơ vi phạm về hành vi lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép 77 vụ/83,399 ha (trong đó, lấn chiếm mới 22,053 ha; tái lấn chiếm 61,347 ha). Tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp chủ yếu xảy ra trên địa bàn các huyện như Hàm Thuận Nam 41 vụ, Hàm Thuận Bắc 27 vụ, Bắc Bình 5 vụ, Phan Thiết 2 vụ, Đức Linh 2 vụ. Nhờ chủ động kiểm tra phát hiện, ngăn chặn, phá bỏ cây trồng, xử lý kiên quyết các trường hợp vi phạm theo Luật Đất đai và Chỉ thị số 17/CT-UBND tỉnh, hiện các đơn vị đã tổ chức nhổ bỏ 79,253 ha cây trồng các loại…
Thời gian còn lại năm 2014 rất ít, đây là thời điểm dễ xảy ra những vụ việc phức tạp vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Tại cuộc họp mới đây về công tác quản lý bảo vệ rừng, Chủ tịch UBND tỉnh Lê Tiến Phương lưu ý: “Các địa phương, đơn vị chủ rừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền gắn với tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ rừng ở khu vực giáp ranh, khu vực mới nổi lên. Trong đó, tập trung xử lý nghiêm các trường hợp mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép, quản lý chặt chẽ các cơ sở chế biến gỗ, xử lý, thu hồi đất lâm nghiệp bị lấn chiếm”.
10 tháng năm 2014, lực lượng quản lý bảo vệ rừng trên toàn tỉnh đã phát hiện, lập hồ sơ vi phạm Luật Bảo vệ phát triển rừng 706 vụ, giảm 99 vụ (12,3%) so cùng kỳ. Số lâm sản, phương tiện tịch thu gồm 772,36 m3 gỗ các loại (gỗ tròn 410,47m3, gỗ xẻ 361,89m3); 333 phương tiện các loại (xe máy 244 chiếc, 4 chiếc xe bò và 85 phương tiện khác). Tổng các khoản thu, nộp ngân sách hơn 4,8 tỷ đồng. (Báo Bình Thuận 26/11) đầu trang(
Hiện nay, huyện Phú Lương có trên 3.200ha rừng phòng hộ, tập trung ở 6 xã: Yên Ninh, Yên Lạc, Phú Đô, Động Đạt, Ôn Lương và Hợp Thành.
Trong năm, UBND huyện đã ban hành 3 công văn, 2 quyết định liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng phòng hộ; tổ chức 7 buổi tuyên truyền về công tác bảo vệ rừng cho người dân ở một số xã; phối hợp với Đài Truyền thanh – Truyền hình tăng cường các chuyên mục liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ, phòng, chống cháy rừng.
Để tăng cường công tác quản lý, bảo về rừng phòng hộ, các địa phương xác định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp; Hạt Kiểm lâm thường xuyên rà soát, kiểm tra, nắm bắt tình hình thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng… (Hội Nông Dân VN 26/11) đầu trang(
Đang cuối mùa mưa, nhưng hàng ngày, lực lượng kiểm lâm Bù Đốp vẫn có mặt trong rừng để phát cỏ, sửa chữa đường tuyến, thu dọn cành cây khô… Những việc làm tưởng như đơn giản này đã và đang tác động tích cực đến việc bảo vệ rừng, giúp đơn vị làm tốt phòng chống cháy rừng (PCCR).
Hạt đang quản lý và bảo vệ 7.200 ha rừng tự nhiên. Do làm tốt quản lý, bảo vệ và PCCR nên từ đầu năm đến nay, rừng không bị thiệt hại, chỉ xảy ra một số vụ nhỏ lẻ như chặt trộm lồ ô, khai thác quả ươi... Dự báo thời gian tới, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp nên ngay từ tháng 9-2014, Hạt Kiểm Lâm Bù Đốp đã tổ chức lực lượng xử lý thực bì các dự án trồng rừng; dọn đường tuyến, tạo thuận lợi cho việc di chuyển; kiểm tra trang thiết bị phòng chống cháy để chủ động xử lý khi có biến cố xảy ra…
“Trước đây, mỗi khi xảy ra cháy rừng, chúng tôi phải di chuyển hàng chục km mới đến nơi có nguồn nước. Do vậy, Hạt đã khoanh vùng những vị trí quan trọng dễ xảy ra cháy, nhất là khu vực rừng khộp, đưa máy múc nhỏ vào đào các hố chứa từ 20-30m3 nước. Những hố này được lót bạt ni-lon, bên trên gác cây, phủ bạt và trồng cỏ lạc dại để hạn chế nước thẩm thấu hay bay hơi. Khi có cháy, chúng tôi chỉ cần đưa loại máy bơm nhỏ vào dập lửa, vừa cơ động vừa thuận tiện di chuyển. Hạt còn nuôi dưỡng hệ thực vật thứ cấp dưới tán khộp nhằm giữ ẩm vào mùa khô để hạn chế cháy rừng”, ông Nguyễn Văn Ách Hạt trưởng chia sẻ.
Anh Lê Văn Khỏe, nhân viên Hạt kiểm lâm Bù Đốp cho biết: Hơn 4 năm gắn bó với rừng, được bảo vệ, chăm sóc và thấy rừng phát triển là niềm vui lớn đối với tôi. Không ai muốn xảy ra cháy rừng, nhưng muốn giữ cho những cánh rừng luôn xanh, phải chủ động phòng chống thật tốt. Rừng bán ngập ở những khu đất thoải. Nếu cày chống cháy, đất dễ bị nước rửa trôi, cây rừng chậm phát triển do thiếu dinh dưỡng. Thời điểm này cắt cỏ là phù hợp nhất vì ẩm độ cao, lại có nước, cây cỏ dễ hoai mục, tạo nguồn dinh dưỡng cho cây và hạn chế nguồn gây cháy sau này.
Ông Nguyễn Văn Ách cho biết thêm: Để chuẩn bị tốt PCCR, Hạt đã phối hợp Nông lâm trường Bù Đốp, Ban bảo vệ rừng xã Phước Thiện, Đội kiểm lâm cơ động - phòng chống cháy rừng số 2, Chi cục Kiểm lâm tiến hành các biện pháp đồng bộ. Đồng thời, nhắc nhở chủ rừng, chủ dự án thực hiện nghiêm các biện pháp PCCR trên lâm phần được giao. Hạt còn trang bị xe đạp thồ có gắn máy phun nước cho Đồn biên phòng Đắk Quýt để hỗ trợ đơn vị khi có cháy xảy ra. Khu vực quản lý của đồn chủ yếu là rừng tự nhiên, thường bị kẻ gian phá hoại.
Để đảm bảo PCCR, đội ngũ cán bộ của đơn vị còn tận dụng các thiết bị sẵn có, tịch thu do vi phạm. Đặc biệt, thiết kế máy móc phục vụ việc chữa cháy. Người tiên phong trong công tác này là Hạt phó Hoàng Ngọc Phong.
Ông Nguyễn Văn Ách nói: Anh Phong đã chế tạo thành công công cụ chữa cháy đảm bảo cơ động, dễ di chuyển trên địa hình phức tạp như xe đạp thồ, máy phun nước nhờ lực đẩy của canô lướt sóng, máy cày cắt cỏ... Những sáng kiến kỹ thuật này khi đưa vào sử dụng đều phát huy hiệu quả tích cực và hạn chế tối đa sức người. Hạt còn tổ chức cho lực lượng thường xuyên luyện tập bơi lội để giữ gìn sức khỏe; diễn tập phòng cháy trên thực địa giúp lực lượng làm quen với địa hình và phương tiện...
Bên cạnh lực lượng thường trực, Hạt còn kêu gọi lao động phổ thông, bốc xếp và các hộ dân sinh sống trên lòng hồ ở khu vực giáp ranh thuộc xã Phước Minh (Bù Gia Mập) cùng tham gia bảo vệ rừng. Giữ mối quan hệ gắn kết với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các già làng, trưởng thôn để họ động viên, giáo dục và vận động con em không phá rừng mà tham gia bảo vệ rừng.
Do vậy, những đối tượng như: Điểu Nhôm, Điểu Thị Hồng ở thôn Bù Tam, xã Phước Minh (Bù Gia Mập); Điểu Du, Điểu Phước, Điểu Thạch ở ấp Phước Tiến, xã Hưng Phước (Bù Đốp)... trước đây hay phá rừng, nay đã tích cực tham gia bảo vệ rừng và PCCR. (Báo Bình Phước 27/11) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
TS Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT đã có cuộc trò chuyện với PV NNVN về nâng cao giá trị và phát triển lâm nghiệp bền vững....
TS Hà Công Tuấn cho biết: Những năm qua ngành lâm nghiệp tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện tập trung ở những mặt sau: Một là, diện tích rừng tăng nhanh, ổn định; công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng có nhiều tiến bộ, tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật giảm dần.
5 năm qua, bình quân trồng được 226.000 ha/năm, trong đó rừng phòng hộ và đặc dụng 31.000 ha/năm, trồng rừng SX 196.000 ha/năm. Khoanh nuôi tái sinh 461.000 ha/năm, trong đó khoảng 50.000 ha thành rừng/năm. Áp dụng một số giống mới, bước đầu áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh rừng trồng, giúp tăng sinh khối tăng trưởng rừng trồng.
Vi phạm pháp luật giảm cả về số vụ và mức độ thiệt hại; công tác phòng chống cháy rừng theo phương châm bốn tại chỗ được tăng cường; giảm 80% diện tích rừng bị phá trái pháp luật so với 5 năm trước.
Hai là, giữ sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng nhanh, lâm sản hàng hóa ngày càng thích ứng với biến đổi của thị trường thế giới; đời sống người làm nghề rừng được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng giá trị SX lâm nghiệp tăng nhanh những năm gần đây (năm 2011 đạt 3,4%, năm 2012 đạt 4,6%, năm 2013 đạt 5,9%).
Sản lượng gỗ tăng gấp hơn 2 lần trong vòng 5 năm qua, đạt 15 triệu m3 vào năm 2013. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đến nay sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã xuất vào trên 100 nước và vùng lãnh thổ với kim ngạch XK tăng hơn 2 lần trong 5 năm, từ 2,8 tỷ USD năm 2009 lên 5,7 tỷ USD năm 2013. Thu nhập đời sống của người dân từng bước được tăng lên, tạo cơ sở vững chắc để người dân gắn bó với rừng.
Ba là, chủ trương xã hội hóa nghề rừng được cụ thể hóa đầy đủ hơn; quản lý nhà nước có tiến bộ chủ yếu bằng công cụ pháp luật, chính sách; nhận thức của xã hội về ngành kinh tế lâm nghiệp nhất quán hơn. Việc giao đất, giao rừng SX cho hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp, các thành phần kinh tế được coi là giải pháp mang tính đột phá; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến, kinh doanh lâm sản.
Cơ chế, chính sách về lâm nghiệp tiếp tục được hoàn thiện, nổi bật là các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ... đã có tác động lớn, làm chuyển biến căn bản, có tính định hướng trong chiến lược phát triển của ngành lâm nghiệp.
Đặc biệt chính sách chi trả dịch vụ môi trường đang trở thành nguồn tài chính quan trọng của ngành lâm nghiệp, tạo nguồn thu cho các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng hàng năm gần 4 triệu ha. Bốn là, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp tiếp tục phát triển cả chiều rộng và chiều sâu theo chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa.
Chắc chắn, trong trung hạn, nhu cầu đồ gỗ thế giới vẫn tăng, tạo cơ hội cho lâm sản duy trì tốc độ tăng trưởng. Trong nước, tình hình kinh tế sẽ có nhiều chuyển biến tích cực. Sản lượng gỗ rừng trồng tiếp tục tăng nhanh, chất lượng được cải thiện hơn, thị trường đồ gỗ nội địa phục hồi, xu hướng tiêu dùng chuyển dịch từ sử dụng gỗ tự nhiên sang gỗ công nghiệp....
Mục tiêu chung đặt ra cho ngành lâm nghiệp là đảm bảo phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh; giá trị SX tăng bình quân hàng năm 5,5 - 6,5%; thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng, góp phần tạo việc làm, XĐGN, cải thiện sinh kế; bảo vệ môi trường sinh thái rừng, thích ứng với biển đổi khí hậu; gắn chặt chẽ giữa phát triển lâm nghiệp với bảo đảm ANQP và chủ quyền.
Để đạt được mục tiêu đó, có rất nhiều việc phải làm. Ngành lâm nghiệp cần tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội đối với tái cơ cấu lâm nghiệp để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn xã hội để giải quyết tốt những vấn đề chủ yếu sau:
1. Về hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách: sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ phát triển rừng phù hợp với Hiến pháp năm 2013, một số Luật có liên quan mới được Quốc hội thông qua, như: Luật Đất đai năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học...; các chủ trương chính sách mới của Đảng, nhà nước và yêu cầu thực tiễn; thích ứng cao hơn với những biến đổi của thị trường quốc tế.
Thể chế hóa để triển khai việc sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả hệ thống tổ chức SX lâm nghiệp, trọng tâm là đối với các công ty lâm nghiệp theo Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và xây dựng cơ chế, chính sách mới thúc đẩy tái cơ cấu ngành, thúc đẩy ứng dụng giống chất lượng cao; hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn; quản lý rừng bền vững phù hợp với thông lệ quốc tế; khôi phục, phát triển rừng ven biển, rừng phòng hộ đầu nguồn thích ứng với biến đổi khí hậu; tín dụng ưu đãi cho các DN chế biến sâu; hỗ trợ phát triển thị trường; liên kết, hợp tác chuỗi với mô hình "cánh rừng lớn", "liên kết bốn nhà"; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lâm nghiệp.
2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, đảm bảo các định hướng Chiến lược phát triển Lâm nghiệp đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hoàn thành rà soát, đánh giá lại quy hoạch tổng thể rừng cấp quốc gia và cấp vùng, xác định rõ lâm phận ổn định. Thống nhất giữa quy hoạch rừng trên bản đồ và thực địa, giữa ngành NN-PTNT với Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
UBND cấp tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh giao, cho thuê rừng cho tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân, đảm bảo tất cả diện tích rừng có chủ quản lý cụ thể và thực hiện phương thức đồng quản lý rừng. Tạo điều kiện tích tụ đất lâm nghiệp. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang mục đích khác.
3. Triển khai mạnh mẽ hơn các giải pháp xã hội hóa đầu tư trong lâm nghiệp. Tiếp tục mở rộng nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, phát triển thị trường tín chỉ cacbon để tạo nguồn lực cho bảo vệ và phát triển rừng. Huy động nguồn vốn ODA và FDI từ chính phủ, phi chính phủ và các tổ chức quốc tế lồng ghép với các nguồn vốn trong nước.
Thực hiện có trách nhiệm các cam kết kinh tế quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa hợp lý, phát triển thị trường XK lâm sản phù hợp với luật pháp quốc tế. Đẩy mạnh công tác tiếp thị thương mại, đàm phán các hiệp định kỹ thuật, mở rộng thị trường quốc tế.
4. Tập trung nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ tái cơ cấu ngành, giảm những nghiên cứu tách rời nhu cầu thực tiễn, thực hiện bằng phương thức đặt hàng là chủ yếu. Ưu tiên các nghiên cứu cải thiện giống cây trồng và thâm canh rừng, công nghệ chế biến sau dăm gỗ và sản phẩm phụ trợ thay thế hàng NK.
5. Khẩn trương sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp từ Trung ương đến địa phương gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả.
Ngoài những thành tựu đã đạt được, ngành Lâm nghiệp chắc vẫn còn một số tồn tại.
Thứ nhất, tình trạng phá rừng, khai thác rừng tự nhiên, sử dụng đất lâm nghiệp trái phép còn diễn ra phức tạp ở một số địa phương; năng suất, chất lượng, giá trị rừng SX thấp. Độ che phủ rừng tăng, nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên tiếp tục bị suy giảm (80% diện tích rừng tự nhiên là rừng nghèo), giá trị thu nhập trên 1 ha rừng trồng mới đạt khoảng 7-8 triệu đồng/ha/năm, đa số người dân làm nghề rừng còn nghèo. Năng suất rừng trồng thấp so với nhiều nước trong khu vực; chủ yếu là rừng gỗ nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và XK.
Thứ hai, giá trị gia tăng thấp; tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Trình độ tay nghề lao động lâm nghiệp thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trồng rừng vẫn chủ yếu là quảng canh. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ còn nhiều bất cập; công nghiệp phụ trợ, vật tư phục vụ cho SX lâm nghiệp gần như bị bỏ ngỏ, phụ thuộc vào NK. Công nghệ sinh học và công tác tạo giống chưa được ứng dụng trên quy mô rộng…
Thứ ba, quản trị DN, công nghệ chế biến; chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp. Các lâm trường quốc doanh trước đây, sau khi chuyển thành công ty lâm nghiệp vẫn chưa được tự chủ kinh doanh, không được vay vốn SX hoặc không có cơ chế tạo nguồn thu ổn định và gắn trách nhiệm vật chất của chủ rừng với kết quả bảo vệ rừng, chưa phân định rõ SX kinh doanh với việc thực hiện nhiệm vụ công ích; quản lý trên 2 triệu ha đất, nhưng sử dụng kém hiệu quả, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, vi phạm pháp luật về đất đai diễn biến phức tạp.... (Nông Nghiệp Việt Nam 27/11) đầu trang(
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm con người và thiên nhiên phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý Tài nguyên (CORENAM) cùng Trung tâm Phát triển Nông thôn miền Trung (CRD) về “Hiện trạng chồng lấn quyền sử dụng đất tại các khu rừng đặc dụng Việt Nam”, chồng lấn quyền sử dụng đất tại các khu rừng đặc dụng Việt Nam là hiện tượng tương đối phổ biến.
Cụ thể, gần 30% trong tổng số 128 các khu bảo tồn/vườn quốc gia (KBT/VQG) hiện đang phải đối mặt với tình trạng này. Trong số đó, phần lớn là các khu rừng đặc dụng được thành lập trong giai đoạn 1995-2005, do quá trình quy hoạch và thành lập các khu vực này đã bao trùm cả phần đất lâm nghiệp mà các hộ gia đình đã sử dụng lâu năm và/hoặc đã được Nhà nước cấp quyền sử dụng lâu dài theo Nghị định 02/1994/CP.
Nghiên cứu cũng ghi nhận những khó khăn và thách thức của các địa phương trong việc giải quyết triệt để bất cập này là do thiếu hướng dẫn pháp lý và nguồn lực. Trong khi đó, tình trạng này trở thành rào cản cho Ban quản lý các VQG/KBT thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên; đồng thời cũng gây khó khăn cho cộng đồng địa phương trong cơ hội tiếp cận, sử dụng tài nguyên đất rừng và rừng một cách hợp pháp; làm suy yếu mối quan hệ giữa các bên liên quan đến quản lý bảo vệ rừng địa phương.
Nghiên cứu cũng chỉ ra các bài học và khuyến nghị cho quy hoạch rừng đặc dụng, áp dụng cơ chế đồng quản lý rừng và vận dụng hiệu quả các chính sách về chi trả dịch vụ môi trường rừng, khai thác gỗ hợp pháp,..
Được biết, nghiên cứu này thực hiện từ tháng 3-11/2014. Tám điểm nghiên cứu đã được lựa chọn để đánh giá, bao gồm: Vườn Quốc Gia (VQG) Bái Tử Long (Quảng Ninh), VQG Cát Tiên, VQG Bạch Mã và KBTTN Phong Điền (Thừa Thiên Huế), KBTTN Ngọc Sơn-Ngổ Luông và Phu Canh (Hòa Bình), KBTTN Kim Hỷ (Bắc Cạn) và KBT Sao La Quảng Nam (Quảng Nam). (Bộ Tài Nguyên & Môi Trường 25/11) đầu trang(
Khi báo đăng bài “Cán bộ Nhà nước chiếm đất rừng của Nhà nước để… bán” phản ánh việc ông Mai Đình Thái (Trưởng Ban quản lý Công trình công cộng) và ông Đinh Tấn Anh (Chủ tịch UBND phường Bình Tân, thị xã La Gi) chiếm dụng đất rừng Núi Nhọn do Nhà nước quản lý rồi mang bán cho người khác.
Tìm hiểu thực hư, PV đã tiếp tục điều tra và từ những chứng cớ xác thực, có thể nói thông tin về "phi vụ đen” do ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh thực hiện là hoàn toàn chính xác.
Với hàng loạt vấn đề tiêu cực xảy ra tại Ban Quản lý Công trình công cộng thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận mà công nhân Ngô Thụy Anh đã tố cáo, PV quyết tâm tìm hiểu và làm rõ thêm vụ hai ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh chiếm dụng trái phép 100ha đất rừng của Nhà nước tại khu vực Núi Nhọn, thuộc xã Tân Bình, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Theo đó, lấy danh nghĩa là “khai hoang trồng rừng", nhưng thực tế, cây chỉ được trồng trên 1ha đất trong suốt thời gian 6 năm (từ 2008-2014).
Theo UBND thị xã La Gi, thực hiện chỉ đạo của Thị ủy thị xã La Gi, UBND thị xã La Gi đã tiến hành xác minh vụ việc ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh - hai cán bộ công chức Nhà nước tại địa phương này - cùng 3 người dân lập hợp đồng khai hoang trồng rừng trái phép, chiếm dụng đất rừng tại khu vực Núi Nhọn (100ha) từ năm 2008, sau đó mang bán cho người dân khác lấy tiền.
Ngày 14.3, Đoàn kiểm tra xác minh gồm Thanh tra thị xã, Phòng tài nguyên và Môi trường, Phòng Kinh tế, Hạt Kiểm lâm, UBND xã Tân Bình, Cty TNHH MTV Lâm nghiệp Hàm Tân (đơn vị chủ quản của Nhà nước quản lý về khu đất) và ông Mai Văn Tịnh, Võ Xuân Lộc (2 trong 5 người lập hợp đồng khai hoang trồng rừng) đã tiến hành kiểm tra hiện trạng và đo đạc thửa đất theo sự chỉ dẫn của ông Tịnh và Lộc.
Sau khi đo đạc thực tế, đến ngày 24.4, tại trụ sở Thanh tra thị xã La Gi, cả 5 người là ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh và 3 người dân cùng tham gia khai hoang trồng rừng trên diện tích 100ha ở khu vực Núi Nhọn đã thống nhất với biên bản mà Đoàn kiểm tra xác minh thực địa vào ngày 14.3 là: Toàn bộ khu đất khoanh bao đo đạc là đồi núi, diện tích chỉ ranh đo đạc được là 70,2ha, trong đó chồng lên diện tích đất 17,7ha mà Cty TNHH MTV Hàm Tân đã giao khoán cho 8 hộ dân hiện đã trồng keo lá tràm.
Phần diện tích đất của ông Vinh ở tỉnh Đồng Nai đã trồng keo lá tràm vào mùa mưa năm 2013 có diện tích 9,1ha. Còn lại diện tích 43,4ha, ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh, Trần Văn Lý, Mai Văn Tịnh và Võ Xuân Lộc cho rằng đã khai phá và trồng rừng, chủ yếu là cây chồi, lùm bụi, cỏ tranh.
Vậy thực tế, ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh và 3 người dân đã trồng được những cây rừng gì? Đoàn kiểm tra thực địa cho biết: “Trên diện tích khoảng 1ha có trồng một số cây điều, mít, chuối, bạch đàn”, còn lại chủ yếu là cây chồi, lùm bụi, cỏ tranh.
Đoàn kiểm tra còn xác định: “Phần diện tích đất này (do 5 người khai hoang trồng rừng) đều nằm trong diện tích đất được UBND tỉnh Bình Thuận giao đất lâm nghiệp cho Cty TNHH MTV Hàm Tân quản lý và đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số X-439670 ngày 24.6.2003 tại tiểu khu 359A có diện tích 707,60ha là rừng phòng hộ”.
Như vậy, rõ ràng rằng, đất đã được UBND tỉnh Bình Thuận giao cho Cty của Nhà nước quản lý, đặc biệt đây lại là đất thuộc rừng phòng hộ từ năm 2003, vậy mà vào năm 2008, hai cán bộ công chức Nhà nước là ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh cùng 3 người dân khác vẫn lập hợp đồng “khai hoang trồng rừng” ngay trên diện tích đất của Nhà nước.
Chưa hết, khi đó hai vị cán bộ này đang giữ chức vụ quan trọng tại địa phương, cụ thể, ông Mai Đình Thái là Bí thư chi bộ, Phó trưởng ban quản lý Công trình công cộng thị xã La Gi, còn ông Đinh Tấn Anh là Bí thư phường Bình Tân, thị xã La Gi. Hai vị này thừa biết đó là đất của Nhà nước vậy mà vẫn lập hợp đồng “khai hoang trồng rừng” cùng 3 người dân khác, rồi đến năm 2012 lại mang bán cho người dân là bà Bùi Thị Lâm để lấy tiền.
Hành vi này của ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh đã được Chủ tịch UBND thị xã La Gi Phùng Thị Thọ nêu trong báo cáo gửi Thị ủy thị xã La Gi rất cụ thể và chính xác: “Bản hợp đồng khai hoang và trồng rừng tại khu vực Núi Nhọn, xã Tân Bình, thị xã La Gi lập ngày 15.12.2008 và sổ thu chi - do bà Phạm Thị Lạc (là vợ ông Đinh Tấn Anh) cung cấp - đã thể hiện việc ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh, Mai Văn Tịnh, Trần Văn Lý và Võ Xuân Lộc thỏa thuận cùng nhau khai hoang và trồng rừng trên diện tích 43,4ha. Như vậy, cho thấy 5 ông, trong đó có ông Mai Đình Thái - Trưởng ban Quản lý Công trình công cộng thị xã và ông Đinh Tấn Anh - Chủ tịch UBND phường Bình Tân đã có hành vi tham gia cùng với người dân chiếm đất”.
UBND thị xã La Gi cũng giải thích, hành vi “chiếm đất” của ông Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh rất cụ thể và rõ ràng như sau: “Chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không trả lại đất, vi phạm tại Điều 9 “Lấn chiếm đất” của Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 11.11.2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và được UBND tỉnh Bình Thuận quy hoạch 3 loại rừng giao đất, cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số X-439670 ngày 24.6.2003 cho Cty TNHH MTV Lâm nghiệp Hàm Tân quản lý đất lâm nghiệp”.
Đối với việc sau khi chiếm đất trái phép của Nhà nước, hai cán bộ công chức Nhà nước thị xã La Gi là ông Mai Đình Thái cùng Đinh Tấn Anh đã sang nhượng trái phép cho người dân là bà Bùi Thị Lâm (bà Lâm có đơn tố cáo về vụ việc này và LĐ&ĐS cũng đã phản ánh), thì UBND thị xã La Gi xác định: Theo hợp đồng sang nhượng đất trồng rừng ngày 23.11.2012, bên sang nhượng gồm ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh, Lộc và Tịnh (không có ông Lý) và bên nhận sang nhượng là bà Bùi Thị Lâm có nội dung đồng ý sang nhượng đất để trồng rừng tại khu vực Núi Nhọn, xã Tân Bình, thị xã La Gi, tổng diện tích là 22ha, với giá 13 triệu đồng/ha, với tổng giá trị là 247 triệu đồng. Thanh toán chia làm 2 đợt, đợt 1 đặt cọc 100 triệu đồng, sau thời gian khoảng 90 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, bên sang nhượng sẽ hoàn tất thủ tục ra sổ cho bên nhận sang nhượng, bên nhận sang nhượng giao đủ số tiền còn lại…”.
Tuy nhiên, trong hợp đồng sang nhượng này, không có chữ ký của hai cán bộ Mai Đình Thái và Đinh Tấn Anh, bởi vì theo lý giải và lời hứa của ông Thái và Tấn Anh, thì do họ là cán bộ Nhà nước nên không đứng tên bán đất được, nhưng hứa sẽ lo làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lâm.
Tuy không ký tên trong bản hợp đồng sang nhượng 22ha đất, nhưng kết quả xác minh của cơ quan chức năng cho thấy: “Sau khi nhận tiền cọc bán đất của bà Bùi Thị Lâm vào ngày 23.11.2012, ông Tịnh, ông Lộc đã đem số tiền đặt cọc về giao cho bà Phạm Thị Lạc (vợ của ông Đinh Tấn Anh) 90 triệu đồng, do phải chi tiền đo đạc 10 triệu đồng, sau đó ông Tịnh, ông Lộc mỗi người ứng lại 10 triệu đồng, trả tiền phát đường khi đưa bà Lâm xem đất là 1,5 triệu đồng, còn lại 68,5 triệu đồng bà Lạc giữ. Qua làm việc với ông Thái, Anh, Tịnh, Lộc, Lý và bà Lâm vào ngày 24.4, thì các ông đều đồng ý có sự thống nhất bán đất cho bà Lâm”.
Chủ tịch UBND thị xã La Gi-Phùng Thị Thọ nhận xét: “Việc bán đất của ông Mai Đình Thái, Đinh Tấn Anh... đã vi phạm Điều 13 về tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện, của Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 11.11.2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai... Từ cơ sở trên, cho thấy ông Đinh Tấn Anh - Chủ tịch UBND phường Bình Tân và ông Mai Đình Thái -Trưởng Ban quản lý Công trình công cộng thị xã có tham gia cùng với người dân chiếm đất, bán đất trái phép tại khu vực Núi Nhọn”.
Theo kết quả xác minh, Chủ tịch UBND thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận đã kiến nghị rằng, ông Đinh Tấn Anh - Chủ tịch UBND phường Bình Tân và ông Mai Đình Thái - Trưởng Ban quản lý Công trình công cộng thị xã là cán bộ thuộc Ban Thường vụ Thị ủy quản lý, do đó, UBND thị xã xin ý kiến Ban Thường vụ Thị ủy chỉ đạo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm đối với ông Đinh Tấn Anh và Mai Đình Thái trong việc tham gia cùng người dân chiếm đất, bán đất trái phép. (Lao Động 26/11) đầu trang(
UBND tỉnh vừa chấp thuận chủ trương cho Công ty TNHH chế biến gỗ Thành Danh triển khai các thủ tục đầu tư xây dựng Nhà máy chế biến lâm sản xuất khẩu và tiêu thụ nội địa tại Cụm công nghiệp Bình Dương, thị trấn Bình Dương, huyện Phù Mỹ.
Dự án được triển khai trên diện tích 22.916 m2, vốn đầu tư 10,36 tỉ đồng, công suất 1.920m3/năm. Mục tiêu của dự án là sản xuất các mặt hàng từ gỗ nhập khẩu, gỗ trồng rừng và gỗ tự nhiên được nhà nước cấp phép, gia công xuất khẩu cho khách hàng nước ngoài.
Dự kiến nhà máy sẽ được triển khai xây dựng trong 6 tháng. (Báo Bình Định 26/11) đầu trang(
Với phương châm “lấy rừng nuôi rừng” và hỗ trợ người trồng, bảo vệ rừng, duy trì hệ sinh thái, ngày 24/10/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ rừng.
Theo đó, các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ rừng như: Thủy điện, nước sạch, khoáng sản, du lịch... phải chi trả dịch vụ môi trường rừng (CTDVMTR). Sau hơn 3 năm triển khai, cả nước thu được hơn 3329 tỷ đồng để chi trả cho chủ rừng.
Trung bình, mỗi hộ nhận khoán, bảo vệ rừng trên cả nước nhận được 1,8 triệu đồng/năm. Số tiền này chưa phải là nhiều, nhưng đã góp phần nâng cao đời sống của người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS vùng sâu, vùng xa và tăng diện tích rừng từ 2,8 triệu ha đến gần 3,4 triệu ha rừng/năm.
Qua hơn 3 năm thực hiện cho thấy, CTDVMTR là chính sách kịp thời, phù hợp, mang tính ổn định, bền vững phục vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng và là động lực thúc đẩy người dân gắn bó với rừng. Nhờ thực hiện tốt chính sách CTDVMTR mà độ che phủ rừng ở các tỉnh đã tăng lên đáng kể. Điển hình là Lai Châu. Nếu như năm 2011, độ che phủ rừng của tỉnh này ở mức 41,6% thì đến năm 2013 đã tăng lên 43,82%. Độ che phủ rừng tăng cũng đồng nghĩa với việc đời sống của bà con không ngừng được tăng lên.
Năm 2013, các hộ nhận khoán rừng ở Mường Tè (Lai Châu) có mức thu nhập bình quân hơn 16 triệu đồng/năm. Ước tính năm 2014, các hộ tại đây sẽ nhận được khoảng 21 triệu đồng/hộ/năm. Đáng phấn khởi hơn, là năm 2012, UBND xã Mường Mô (huyện Nậm Nhùn) đã có văn bản gửi phòng Lao động thương binh và Xã hội huyện không nhận trợ cấp gạo cứu đói vì đã có tiền bảo về rừng mua lương thực.
Tại Yên Bái, theo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh, tính đến tháng 5/2014, Quỹ này đã chi trả 51 tỷ đồng cho chủ rừng, với diện tích trên 200 nghìn ha. Mù Cang Chải có gần 70 nghìn ha rừng nằm trong khu vực thượng lưu sông Hồng và sông Đà. Nguồn thu dịch vụ môi trường rừng từ các nhà máy thủy điện, nước sạch, du lịch... trên địa bàn nơi đây rất tiềm năng. Trong 2 năm 2012-2013, Mù Cang Chải có hơn 9.500 chủ rừng nhận được trên 40 tỷ đồng tiền dịch vụ cung ứng dịch vụ rừng.
Từ số tiền CTDVMTR, nhiều hộ là người DTTS ở Mù Cang Chải đã xóa được nhà tạm, dựng thêm chuồng trại phát triển chăn nuôi và thoát nghèo. Xã ĐBKK Chế Tạo, huyện Mù Cang Chải là một trong những điển hình như thế.
Cả xã có 326 hộ, với hơn 2000 nhân khẩu. Toàn xã có hơn 17 nghìn ha rừng nên nhận được 7 tỷ đồng từ CTDVMTR năm 2013. Trung bình mỗi hộ có rừng ở đây nhận được hơn 3 triệu đồng/năm, riêng gia đình anh Sùng Pua Sào, thôn Chế Tạo nhận được hơn 30 triệu đồng. Với nguồn tiền này, gia đình anh Sào đã mua được trâu, bò , phục vụ cày kéo và phát triển chăn nuôi, có tiền cho con ăn học, mua sắm được nhiều vật dụng cần thiết trong gia đình: ti vi, xe máy...
Nhờ có chính sách CTDVMTR, tại nhiều địa phương người dân đã gắn bó với rừng. Với khoản thu từ CTVMTR, bà con nhận khoanh nuôi, chăm sóc rừng đã coi rừng như chính nương rẫy của mình. Nhờ đó, hạn chế các vụ cháy rừng xảy ra.
Cụ thể, năm 2013 số vụ thiệt hại do cháy rừng ờ Lai Châu đã giảm 15 vụ so với năm 2011. Hay như tại Yên Bái, Mù Cang Chải là huyện thường xuyên xảy ra cháy rừng. Trước đây, có năm cháy tới 35 vụ, diện tích rừng cháy trên 700ha. Tuy nhiên, trong vòng 2 năm trở lại đây, số vụ cháy rừng đã giảm đáng kể.
Khi được hỏi về chính sách CTVMTR, ông Giàng A Lù, Trưởng bản Nậm Đoong, xã Pú Đao (Nậm Nhùn) cho biết: Từ khi có nguồn thu từ chính sách CTDVMTR cao hơn với thu nhập hằng năm của bà con từ nương rẫy (hằng năm thu nhập từ nương rẫy khoảng 5-10 triệu đồng/năm/hộ). Đều đặn hằng tháng, các tổ đội xung kích của bản (mỗi tổ có từ 10-12 người) đi tuần tra rừng, phát dọn cỏ dại, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những hành vi gây hại đến rừng. Nhờ đó mà diện tích rừng được bảo vệ nghiêm ngặt.
Theo ông Lù, làm nương rẫy, ngoài việc mất công sức phát dọn thực bì..., bà con còn tốn rất nhiều tiền bạc để mua giống, phân bón... mà năng suất lại phụ thuộc vào thời tiết. Với rừng thì khác, bởi rừng có sẵn trong tự nhiên, bà con chỉ việc phát dọn cỏ, tuần tra theo từng tháng mà có thu nhập cao hơn nương rẫy. Bà con phấn khởi lắm, không còn ai phá rừng làm nương rẫy nữa!
Hiện nay, cùng với việc nâng cao đời sống cho bà con, chính sách CTDVMTR còn giúp các công ty lâm nghiệp sản xuất bền vững; đóng góp vào công cuộc bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu ở nước ta... Kết quả tích cực từ chính sách CTDVMTR thực hiện hơn 3 năm qua đã khẳng định, đây là chủ trương đúng đắn, góp phần xóa hội hóa nghề rừng, đem lại lợi ích cho cộng đồng, vì thế được người dân đồng tình, ủng hộ.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, nhiều địa phương vẫn còn gặp phải một số khó khăn như: Đơn giá chi trả trên phạm vi một huyện chưa đồng đều do sự chênh lệch giữa các lưu vực lớn, gây nên sự thắc mắc, kiến nghị của người dân; một số công ty thủy điện còn chây ì nợ tiền CTDVMTR; địa phương còn chậm trễ trong việc rà soát, xác định chủ rừng, dẫn tới tình trạng chậm giải ngân, tạo nên sự chán nản ở một số chủ rừng ...
Để chính sách này thiết thực hơn nữa, rất cần sự quan tâm của Nhà nước trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong việc trồng, bảo vệ rừng và có chế tài xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực CTDVMTR... từ các doanh nghiệp hưởng lợi từ rừng...  (Dân Tộc & Phát Triển 26/11, tr4) đầu trang(
Toàn tỉnh Đắc Lắc hiện có 222 nghìn ha rừng, số hộ gia đình tham gia quản lý, bảo vệ rừng và hưởng lợi từ DVMTR năm 2014 là 5.438 hộ.
Đến nay, Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh đã chi trả DVMTR cho các chủ rừng, với tổng số tiền 20,7 tỷ đồng và đã ký hợp đồng ủy thác với 21 nhà máy thủy điện với tổng số tiền trên 41,7 tỷ đồng. (Dân Tộc & Phát Triển 26/11, tr4) đầu trang(
Sau 3 năm thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ, trên địa bàn huyện Mù Cang Chải đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức bảo vệ và phát triển rừng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân vùng có rừng tại địa phương.
Mù Cang Chải có tổng diện tích đất tự nhiên trên 119.773ha, trong đó diện tích đất có rừng trên 72.686ha (rừng tự nhiên trên 53 nghìn ha, rừng trồng gần 19.500ha), tỷ lệ che phủ rừng đạt 60,27%.
Toàn bộ diện tích rừng nằm trên lưu vực sông Đà cung cấp dịch vụ cho nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Nậm Chiến 1,2, Huội Quảng và các thủy điện trong tỉnh như: Mường Kim, Hồ Bốn, Khao Mang Thượng, Khao Mang… nên công tác bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn huyện có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp nguồn nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái vùng đầu nguồn, điều tiết nguồn nước cho các công trình thủy điện...
Qua thực hiện chính sách chi trả DVMTR, nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và nhân dân về công tác bảo vệ, phát triển rừng đã được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ che phủ rừng tiếp tục tăng lên, các vụ vi phạm liên quan đến rừng được hạn chế. Đây là những kết quả bước đầu rất tích cực, là tiền đề cho người trồng rừng, bảo vệ rừng yên tâm, có thu nhập ổn định từ rừng, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập từ rừng cho người dân địa phương.
Đến nay, trên địa bàn toàn huyện đã có trên 122.195 lượt ha rừng được chi trả từ nguồn DVMTR với 17.713 lượt hộ gia đình được hưởng lợi từ nhận khoán bảo vệ rừng ổn định lâu dài, tổng kinh phí chi trả 42,5 tỷ đồng. Số tiền này đã góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào vùng cao.
Ông Lê Văn Hùng - Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ của huyện cho biết: “Việc giao khoán rừng để chi trả DVMTR trên địa bàn huyện có ý nghĩa quan trọng đối với chủ trương quản lý rừng bền vững, làm cho rừng thật sự có chủ và người dân được hưởng lợi khi quản lý bảo vệ rừng. Qua đó, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các đối tượng được hưởng lợi từ rừng, hiệu quả quản lý, sử dụng và bảo vệ rừng cũng được nâng lên”.
Là một trong những xã có diện tích rừng lớn với gần 3.000ha, trong đó rừng tự nhiên gần 1.400ha, rừng trồng phòng hộ trên 1.600ha, diện tích rừng được phân đều ở 6 thôn bản, qua hai năm thực hiện chính sách chi trả DVMTR, xã Dế Xu Phình đã nhận được tổng số tiền 2.365.920.000 đồng.
Anh Hảng A Chua - Trưởng bản Háng Cuốn Rùa, xã Dế Xu Phình cho biết: “Bản mình có 223ha rừng trồng phòng hộ được giao khoán bảo vệ cho 31 hộ với 219 nhân khẩu. Hai năm qua, bản mình nhận được gần 167 triệu đồng tiền bảo vệ. Có tiền này bà con mình phấn khởi lắm. Số tiền đã phần nào giúp bà con mình bớt khó khăn. Có tiền, bà con cũng ý thức hơn trong công tác bảo vệ rừng. Bản mình thường xuyên tuần tra bảo vệ diện tích rừng, nhất là vào mùa khô hanh để rừng phát triển, bà con sẽ có cuộc sống ấm no”.
Có thể nói, chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn huyện vùng cao Mù Cang Chải đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, là tiền đề cho người dân có rừng tiếp tục phát triển các nguồn lợi từ rừng, qua đó góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào đời sống, các cấp, các ngành cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và chế tài xử lý đối với những đơn vị sử dụng dịch vụ không thực hiện chi trả tiền DVMTR để bảo đảm quyền lợi cho người dân làm nghề rừng; cần sớm xác định ranh giới, diện tích rừng cho từng chủ rừng trong lưu vực cung ứng DVMTR; tăng cường công tác giám sát, đánh giá thực hiện chính sách chi trả DVMTR giữa các nhóm hộ, cộng đồng dân cư, hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng lâu dài với các bên liên quan để bảo đảm công khai, công bằng và minh bạch trong việc thực hiện chi trả; đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền chính sách và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sử dụng DVMTR có hiệu quả… (Báo Yên Bái 26/11) đầu trang(
Tại kỳ họp thứ 12 HĐND tỉnh Điện Biên khóa XIII vừa qua, đã thông qua danh mục công trình, dự án cần thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ để thực hiện công trình, dự án công cộng trên địa bàn tỉnh năm 2014 và 2015.
Trong đó siết chặt việc chuyển đổi mục đích sử dụng đối với đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Năm 2014 toàn tỉnh có 68 dự án cần thu hồi đất với diện tích hơn 3.000ha. Trong đó có 21 dự án sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ với diện tích 242ha.
Còn năm 2015, có tới 616 công trình, dự án cần thu hồi gần 1.600ha đất. Trong đó, 160 dự án với diện tích 683ha có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ. Các công trình, dự án phải thu hồi đất hoặc có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ đều thuộc các dự án sắp xếp dân cư, xây dựng đường giao thông, trụ sở cơ quan, đơn vị, trường học, công trình thủy lợi…
Thực tế, trong số các công trình, dự án trên địa bàn tỉnh năm 2014 cho thấy, diện tích đất thu hồi thuộc đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ hầu hết thuộc thẩm quyền phê duyệt của HĐND cấp tỉnh.
Vì thế, để đảm bảo giữ nguyên diện tích đất trồng lúa và giữ cho được diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì việc cân nhắc, tính toán cụ thể diện tích cần thu hồi, chuyển đổi là hết sức cần thiết.
Tỉnh Điện Biên chỉ lựa chọn và chấp thuận các công trình, dự án thật cần thiết và đảm bảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Trung ương, địa phương. Đồng thời thể hiện sự quyết tâm của chính quyền Điện Biên trong việc kiên quyết giữ nguyên trạng diện tích đất lúa, đất rừng. (Bộ Tài Nguyên Môi Trường 25/11) đầu trang(
25/11, tin từ Chi cục Kiểm lâm Lâm Đồng cho biết, đã có văn bản gửi các đơn vị Kiểm lâm trực thuộc yêu cầu trang bị áo phao bơi cho cán bộ kiểm lâm (CBKL) làm công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn.
Trong những năm qua, mặc dù các Hạt Kiểm lâm trên địa bàn tỉnh đã được trang bị, tự mua sắm các trang thiết bị phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng, nhưng một số đơn vị vẫn chưa trang bị áo phao bơi cho CBKL.
Điều này đã dẫn đến xảy ra một số trường hợp chết người đáng tiếc như ở huyện Bảo Lâm và Đam Rông, chỉ vì CBKL, các đơn vị chủ rừng đi làm nhiệm vụ qua vùng sông nước, hồ đập mà không được trang bị áo phao bơi. (Báo Lâm Đồng 25/11) đầu trang(
Sự hình thành các tổ chức Lâm nghiệp ở Hà Tĩnh bắt đầu trên cơ sở tiếp quản các đồn Thuỷ lâm cũ để tổ chức và thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn nhân dân bảo vệ rừng, khai thác rừng phục vụ cho công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Đến năm 1955 sau cuộc kháng chiến chống Pháp thành công, nhu cầu tái thiết đất nước đòi hỏi nguồn lâm sản lớn Công trường tà vẹt Ngã đôi Hương Sơn được thành lập và sau đó ít năm thì lâm trường khai thác Chúc A Hương Khê ra đời.
Cuối năm 1957 Ty lâm nghiệp Hà Tĩnh được thành lập, trên cơ sở chia tách Ty Nông lâm thành Ty lâm nghiệp và Ty Nông nghiệp. Nhiệm vụ của Ty  lâm nghiệp giai đoạn này chủ yếu làm công tác sự nghiệp, còn nhiệm vu khai thác rừng tự nhiên thì giao cho 2 đơn vị Chúc A và Hương Sơn trực tiếp làm việc với Tổng cục Lâm nghiệp.
Đến năm 1960 hình thành các lâm trường trồng rừng, ngoài 2 lâm trường khai thác trực thuộc Trung ương, thời kỳ này còn thành lập thêm 4 lâm trường khai thác gỗ: Trại trụ Hương Khê, Chen chén Cẩm Xuyên, Kỳ thượng Kỳ Anh, Vũ Quang hương Khê trực thuộc Ty lâm nghiệp. Nhìn chung mạng lưới lâm nghiệp thời kỳ này đã tương đối hoàn chỉnh.
Đến tháng 9 năm 1972 ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ rừng, ngày 21/5/1973 Chính phủ đã có Nghị định 101/CP quy định hệ thống tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của lực lượng Kiểm lâm, trong đó ở Trung ương Cục quản lý rừng chuyển thành Cục Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Chi cục Kiểm lâm đặt dưới sự quản lý lãnh đạo của Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố, ở huyện Hạt kiểm lâm do Uỷ ban hành chính huyện lãnh đạo, trên cơ sở đó lực lượng Kiểm Lâm Hà Tĩnh cũng được ra đời Chi cục và các Hạt kiểm lâm được thành lập từ tiền thân là phòng quản lý bảo vệ rừng của Ty lâm nghiệp và các huyện, để làm nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng.
Đến năm 1976 hai tỉnh Nghệ An và Hà Tỉnh sát nhập thành Nghệ Tĩnh và Ty Lâm nghiệp Hà Tĩnh, Ty lâm nghiệp Nghệ An cũng sát nhập thành Ty lâm nghiệp Nghệ Tĩnh. Đến năm 1980 thực hiện Nghị định 368/HĐBT lực lượng kiểm lâm chuyển về chuyên ngành quản lý là Ty lâm nghiệp.
Đến năm 1991 Nghệ tỉnh được chia tách, Sở Lâm nghiệp thành lập lại theo chủ trương tái lập lại hai tỉnh Hà Tỉnh và Nghệ an. Đến năm 1996 ba sở  Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thuỷ lợi  được nhập lại thành Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày nay.
Đến nay, mạng lưới lâm nghiệp khá hoàn chỉnh, về quản lý nhà nước có 2 Chi cục thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp và Kiểm Lâm; hệ thống chủ rừng đến năm 2013 có 20 tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng với diện tích 274.988 ha, trong đó có 6 Ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dung và 1 vườn quốc gia thuộc Sở; 11.712 hộ gia đình, cá nhân quản lý 32.194 ha và Uỷ ban nhân dân các xã quản lý 57.619ha.
Sau 55 năm chặng đường xây dựng và phát triển Ngành Lâm nghiệp Hà Tĩnh đã đạt được kết quả quan trọng, góp phần xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng tỉnh nhà.
Đến nay, về cơ bản Ngành lâm nghiệp hoàn thành các Quy hoạch, Đề án như: Quy hoạch 3 loại rừng, Quy hoạch rừng đặc dụng giai đoạn 2014-2020, Quy hoạch phát triển rừng sản xuất phục vụ nhà máy chế biến giai đoạn 2014-2020, Quy hoạch mạng lưới chế biến lâm sản giai đoạn 2011-2020, Đề án quản lý bảo vệ rừng bền vững, tái cơ cấu lĩnh vực lâm nghiệp giai đoạn 2014-2020… để quản lý, điều hành, chỉ đạo tổ chức sản xuất về bảo vệ, phát triển rừng của tỉnh trong những năm qua.
Bên cạnh đó, thông qua các chương trình, dự án như PAM, 327, Việt - Đức, Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (1999-2010), Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (2011-2020), dự án JICA2...để đẩy mạnh công tác trồng rừng, bảo vệ rừng góp phần nâng cao diện tích trồng hàng năm tại các địa phương, đơn vị. Đến cuối năm 2013 cả tỉnh có 336.311 ha rừng, chiếm 92% diện tích đất lâm nghiệp (364.654ha), trong đó rừng trồng 115.402 ha (rừng trồng đã thành rừng 80.788 ha, rừng trồng chưa thành rừng 25.446 ha), rừng tự nhiên 220.909 ha, độ che phủ đạt 51,8 %.
Sau 55 năm hình thành và phát triển, Lâm nghiệp Hà Tĩnh đã chuyển hướng từ lâm nghiệp truyền thống sang phát triển lâm nghiệp xã hội. Chuyển mục tiêu kinh tế, khai thác lợi dụng rừng sang mục tiêu phòng hộ môi trường sinh thái kết hợp với kinh tế.
Đã hình thành được các vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung, áp dụng công nghệ mới về giống, đưa các loại giống hom vào sản xuất; từng bước phát triển chế biến tinh sâu, giảm dần chế biến thô; đồng thời thực hiện quản lý rừng bền vững, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Bên cạnh mạng lại giá trị to lớn về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu, ngành lâm nghiệp đã góp phần không nhỏ trong việc xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho hơn 70.000 hộ dân, đồng thời góp phần xây dựng nông thôn mới của tỉnh nhà. (Sở NNPTNT Hà Tĩnh 25/11) đầu trang(
Đồng Sơn (huyện Hoành Bồ) là xã vùng cao, có tổng diện tích đất tự nhiên rất lớn, lên tới 12.702,26ha, nhưng chiếm tới 94,5% là đất rừng, đất trồng lúa chỉ chiếm con số nhỏ nhoi là 0,76%.
Trước đây, rừng Đồng Sơn vốn rất nhiều cây ba kích mọc tự nhiên. Thế nhưng hiện nay, phần lớn đất rừng được giao cho các hộ dân trồng keo, người dân đốt thực bì trước khi trồng rừng khiến lượng cây ba kích được tái sinh rất ít.
Mặt khác, do tình trạng người dân khai thác ba kích tự nhiên quá mức, họ lại không ý thức lấp lại gốc sau khi đã thu hoạch củ để cây tiếp tục sinh trưởng, càng khiến cây ba kích hiếm dần đi trong tự nhiên. Trong những năm gần đây, hiệu quả của việc chữa bệnh của cây ba kích đã được rất nhiều người quan tâm, với các chức năng như bổ thận, tráng dương, cường gân cốt, khử phong thấp…
Do vậy, việc khôi phục lại nguồn lợi ba kích bằng cách trồng lại được rất nhiều người hưởng ứng, vì cây phù hợp điều kiện sinh học, sinh thái với vùng núi cao Đồng Sơn, lại tạo việc làm tại chỗ cho các lao động địa phương và đem lại nguồn thu nhập không nhỏ cho người trồng.
Nhưng hiện tại ở Đồng Sơn, người dân trồng ba kích vẫn mang tính tự phát, manh mún chưa tập trung. Việc mua bán ba kích vẫn do người tiêu dùng biết và tự tìm đến, hoặc thương lái đến xã thu mua với giá rẻ, một phần nhỏ được đưa đến địa phương khác tiêu thụ.
Vậy là, mặc dù cây ba kích có giá trị kinh tế rất cao, nhu cầu của người tiêu dùng lớn, nhưng hiệu quả kinh tế không đáng kể. Hiện tại, các sản phẩm nông, lâm của Đồng Sơn tiêu thụ thông qua các cửa hàng nhỏ lẻ tự phát của người dân, trên địa bàn không có chợ, đường giao thông không thuận lợi gây khó khăn cho người dân trong việc trao đổi mua bán hàng hoá.
Từ cuối năm 2013, phương án “Vùng quy hoạch trồng cây dược liệu ba kích tập trung xã Đồng Sơn - huyện Hoành Bồ giai đoạn 2013-2020” của huyện Hoành Bồ, đã được tiến hành tại thôn Tân Ốc 2, xã Đồng Sơn trên diện tích 20ha. Hiện nay, đã có 17 hộ dân tham gia trồng trên diện tích 10ha và được Nhà nước hỗ trợ 70% tiền giống, phân bón.
Có mặt tại thôn Tân Ốc 2, khu vực trồng cây ba kích, sau hơn 1 năm được trồng cây phát triển tốt, thân mập vươn dài khoảng 2m, tỷ lệ cây sống đạt trên 90%. Cây được trồng trong khu rừng có các cây bản địa như dẻ, sến, táu…, mục đích để tạo môi trường tự nhiên thích hợp giúp cho củ ba kích phát triển đạt chất lượng giống như trong tự nhiên.
Ông Đặng Hữu Linh, Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Sơn, đồng thời là hộ trồng ba kích cho biết: Chúng tôi thực hiện theo hướng nhiều hộ trồng tập trung, nhằm khắc phục tình trạng manh mún, phân tán trong sản xuất, tạo điều kiện áp dụng công nghệ mới, các kỹ thuật tiến bộ mới, để có khối lượng hàng lớn, giá trị kinh tế cao. Chúng tôi đã nghiên cứu vùng đất đưa vào quy hoạch xa khu dân cư, xa khu công nghiệp, không có tác nhân ngoại cảnh khác gây ảnh hưởng như chăn thả gia súc, đổ chất thải khu dân cư, dưới chân đường điện cao thế gây ảnh hưởng đến khu vực trồng cây. Đất khu vực trồng ba kích là đất feralit đỏ, vàng có lượng mùn ở mức trung bình, tơi xốp và hơi chua phù hợp với loài cây này.
Hiện nay, giá ba kích tươi trên thị trường trung bình là 120.000 đồng/kg, ba kích trồng ở Hoành Bồ rất được người mua tin dùng. Vùng trồng cây ba kích ở Đồng Sơn là bước đi trước tạo sự ổn định cho vùng trồng cây kinh tế trên địa bàn xã. Bởi giai đoạn từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, xu hướng đô thị hoá và công nghiệp hoá của huyện sẽ diễn ra nhanh và mạnh, diện tích đất trồng cây của huyện có nguy cơ bị thu hẹp lại, do đó rất cần thiết để phát huy lợi thế các vùng đa chuyên canh tập trung với quy mô thích hợp phát triển mạnh các dịch vụ hỗ trợ.
Ông Đặng Hữu Linh cho biết thêm: “Từ diện tích ban đầu này, chúng tôi tiếp tục phát triển thêm 10ha nữa vào các năm sau để đạt con số 20ha như trong kế hoạch. Ba kích trồng khoảng 5 năm mới cho thu hoạch, nên chúng tôi tiến hành trồng gối vụ để luôn có sản phẩm giới thiệu với khách hàng gần xa. Từ đó cũng tránh việc thu hoạch ồ ạt, sản phẩm lúc thì tràn lan, lúc thì không có, người nông dân dễ lâm vào tình thế “được mùa thì mất giá, được giá lại mất mùa”.
Hiện nay, ba kích trồng tại Đồng Sơn chưa được thu hoạch, nhưng nhìn vào sự phát triển của cây ba kích trồng trên vùng đất tự nhiên nơi đây có thể thấy một hướng đi hiệu quả, tạo sự phát triển đa dạng cây trồng trên địa bàn và thu nhập ổn định cho người nông dân.
Mặt khác, trồng ba kích cũng tạo hiệu quả về môi trường, vì cây được trồng xen kẽ trong rừng tự nhiên. Người dân không đốt rừng sau khi thu hoạch xong giống như trồng keo, sẽ tạo ra sự phát triển sinh trưởng của nhiều loại cây thuốc khác nữa, góp phần làm phong phú thêm rừng thuốc nam của Hoành Bồ. (Báo Quảng Ninh 25/11) đầu trang(
Đến nay, huyện Thạch Thành trồng được 595 ha rừng, tăng 49% so với kế hoạch; trong đó, trồng theo Dự án WB3 là 541 ha, dự án Jica là 54 ha. Ngoài ra, huyện tiếp tục chỉ đạo chăm sóc 2.020 ha rừng đã trồng các năm trước.
Theo đó, huyện đã giao kế hoạch trồng rừng cụ thể đến từng xã; chỉ đạo các phòng, ban có liên quan phối hợp với các xã hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cây trồng cho bà con nông dân; huy động nhân dân đào hố trồng cây theo quy hoạch, bảo đảm hoàn thành diện tích theo kế hoạch được giao.
Ngoài ra, huyện còn tập trung rà soát quỹ đất, xây dựng kế hoạch trồng rừng năm 2015, trong đó trọng tâm là trồng cây mắc ca. (Hộ Nông Dân VN 26/11) đầu trang(
Trạm Khuyến nông Hoài Ân phối hợp xã Ân Tường Tây đã triển khai mô hình thí điểm trồng, phát triển cây mây dưới tán rừng từ tháng 9.2014 trên diện tích 0,5 ha tại hộ ông Trần Văn Minh, thôn Phú Hữu 1. Sau gần 2 tháng triển khai, nhờ áp dụng đúng quy trình kỹ thuật, chăm sóc thường xuyên nên toàn bộ 1.650 cây mây trồng thí điểm sinh trưởng và phát triển tốt.
Ông Phạm Văn Đệ, Phó Chủ tịch UBND xã Ân Tường Tây, cho biết: Mô hình mở ra nhiều triển vọng phát triển kinh tế tại địa phương, góp phần chuyển đổi cơ cấu trên đất trồng cây lâm nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông hộ trong thời gian bảo vệ, chăm sóc và thu hoạch rừng.
Đồng thời, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện và ngoài địa phương. Trong thời gian tới, xã sẽ tiếp tục hướng dẫn, khuyến khích bà con trồng rừng đầu tư và nhân rộng mô hình. (Báo Bình Định 26/11) đầu trang(
Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ, phong trào trồng cây, trồng rừng và bảo vệ rừng của cả nước trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và đã thu được những kết quả rất to lớn.
Đóng góp cùng phong trào của cả nước, Bắc Ninh đã tổ chức tốt phong trào trồng cây theo lời Bác Hồ từ những năm 1960, là địa phương có thành tích tốt về phong trào trồng cây gây rừng và đã vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, trồng cây đa tại xã Tam Sơn (thị xã Từ Sơn) vào dịp tết Đinh Mùi (9-2-1967).
Từ đó đến nay, phong trào trồng cây của Bắc Ninh không ngừng phát triển, nhất là từ khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập (1997). Hàng năm cứ vào dịp Tết đến xuân về “Tết trồng cây” được phát động, tổ chức rộng khắp ở tất cả các địa phương, cơ quan, doanh nghiệp trong tỉnh và đã trở thành một phong tục đẹp góp phần làm phong phú thêm truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Từ năm 1997 đến nay, các cấp chính quyền và cơ quan chuyên môn của tỉnh đã tổ chức, vận động nhân dân trồng được trên 20 triệu cây phân tán các loại góp phần tạo cảnh quan xanh, đẹp và tạo ra lượng sản phẩm phong phú, có giá trị phục vụ nhu cầu đời sống dân sinh. Cùng với đẩy mạnh phong trào trồng cây phân tán, công tác trồng rừng phủ xanh đồi núi trọc đã được lãnh đạo tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện đạt kết quả tốt.
Với sự quan tâm đầu tư vốn của Trung ương, của ngân sách tỉnh (qua các chương trình dự án: 327, 661, chương trình mục tiêu quốc gia) Chi cục Kiểm lâm đã tích cực triển khai thực hiện, đến nay toàn bộ diện tích đồi núi trọc của tỉnh quy hoạch cho xây dựng rừng phòng hộ, cảnh quan môi trường (645ha) đã được trồng rừng phủ xanh, đáp ứng tốt chức năng phòng hộ chống xói mòn và cải thiện cảnh quan môi trường.
Thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh giai đoạn 2011-2020, đến nay đã có gần 500 ha rừng phòng hộ được trồng cải tạo bước 2 (trồng xen thông vào rừng keo) tạo nên mô hình rừng phát triển ổn định lâu dài. Thực hiện đề án “Xây dựng rừng theo mô hình phát triển bền vững gắn với các di tích lịch sử văn hoá của tỉnh, giai đoạn 2011-2015” trong 3 năm (2012 đến 2014) có gần 30 ha rừng phòng hộ được trồng cải tạo nâng cấp theo mô hình đưa vào trồng các cây bản địa (lim, lát, muồng, trám, sấu, de, giổi…) có giá trị cao về kinh tế và cảnh quan, tạo ra mô hình rừng đa dạng loài cây, nhiều tầng tán và phát triển bền vững.
Công tác quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) những năm qua luôn được coi trọng, rừng được chăm sóc, bảo vệ và sinh trưởng phát triển tốt. Hàng năm Chi cục Kiểm lâm tham mưu xây dựng và triển khai thực hiện tốt phương án PCCCR các cấp (tỉnh, huyện, xã). Các vụ cháy rừng xảy ra đều được phát hiện và tổ chức lực lượng chữa cháy kịp thời nên hạn chế tối thiểu thiệt hại do cháy rừng gây ra. Thời gian tới Chi cục Kiểm lâm triển khai thực hiện tốt dự án “Nâng cao năng lực PCCCR tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2014-2016” mới được phê duyệt.
Diện tích rừng của Bắc Ninh không lớn nhưng có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong phòng chống xói mòn, làm đẹp cảnh quan môi trường và góp phần ứng phó những bất lợi do biến đổi khí hậu gây ra. Tuy nhiên, rừng phòng hộ của tỉnh hiện tại chất lượng chưa cao, chưa bền vững. Để từng bước nâng cấp chất lượng rừng, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao Chi cục Kiểm lâm Bắc Ninh đã đăng ký xây dựng đề án cải tạo nâng cấp rừng phòng hộ của tỉnh theo mô hình phát triển rừng bền vững giai đoạn 2015-2020 trình UBND tỉnh phê duyệt trong năm 2015.
Qua thực tế nhiều năm trồng thử nghiệm có kết quả cây tràm Úc chắn sóng dọc các tuyến đê, Chi cục Kiểm lâm đã đề xuất và đã được UBND tỉnh nhất trí chủ trương cho xây dựng đề án trồng dải rừng phòng hộ chắn sóng dọc các tuyến đê của tỉnh. Khi đề án được thực hiện, ngoài tác dụng phòng hộ, sẽ tạo ra cảnh quan xanh, đẹp cho các tuyến đê, nâng cao độ che phủ của rừng trên địa bàn và tăng đáng kể chỉ số về diện tích cây xanh trên đầu người.
Thiết thực kỷ niệm 55 năm ngày Lâm nghiệp Việt Nam, tiếp tục phát triển phong trào trồng cây, trồng rừng và để rừng Bắc Ninh mãi thêm xanh. Rất cần sự quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa của tỉnh, sự hưởng ứng tham gia nhiệt tình của chính quyền các cấp và toàn thể nhân dân trong tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cấp chính quyền, với sự đồng lòng chung tay góp sức của toàn thể nhân dân nhất định sự nghiệp trồng cây, trồng rừng của tỉnh sẽ đạt được nhiều thành quả tốt đẹp, đóng góp xứng đáng vào tiến trình xây dựng Bắc Ninh phát triển, giàu đẹp văn minh. (Báo Bắc Ninh 27/11) đầu trang(
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung bộ với tiềm năng và lợi thế về rừng rất lớn (chiếm 60% diện tích tự nhiên). Tài nguyên thiên nhiên phong phú, tính đa dạng sinh học cao với nhiều loại động, thực vật quý, hiếm.
Với 18 đơn vị nhà nước và hàng chục ngàn hộ, doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực: Quản lý, bảo vệ, sản xuất, khai thác, chế biến, sử dụng rừng, Hà Tĩnh đã khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế để biến rừng thành “vàng”.
Những năm qua, ngành lâm nghiệp đã có những đổi mới từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Từ chỗ khai thác rừng tự nhiên là chính, nay chuyển sang khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng; coi trọng mục tiêu phòng hộ môi trường sinh thái kết hợp với kinh tế.
Chính vì vậy, những năm gần đây, diện tích rừng ngày càng tăng nhanh, bình quân mỗi năm có 7.000-8.000 ha rừng được trồng mới và phục hồi nhờ khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, đưa độ che phủ rừng từ 32% (năm 1992) lên 52% (năm 2013). Nghề rừng đã thu hút hàng vạn lao động, hàng ngàn hộ nông dân tham gia bảo vệ và phát triển. Đến nay, có hơn 115.402 ha rừng trồng đã giao, khoán cho hơn 20.000 tập thể, hộ tham gia quản lý, bảo vệ, phát triển thông qua chủ trương giao đất, khoán rừng.
Từ năm 2006 đến nay, ngành lâm nghiệp tập trung hoàn thành các quy hoạch, đề án về phát triển rừng, chế biến lâm sản, quản lý, bảo vệ rừng bền vững… để quản lý, điều hành, chỉ đạo tổ chức sản xuất, bảo vệ, phát triển rừng. Đặc biệt, thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng (dự án 661), tỉnh ta đã trồng mới hơn 76.000 ha, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh 137.000 lượt ha; bảo vệ 609.000 lượt ha.
Về rừng trồng, đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng tiến bộ KHKT về giống như keo lai, bạch đàn U6, phi lao 701, nâng năng suất bình quân lên 15-20m3/ha/năm. Công tác quản lý giống được quan tâm và thực hiện theo chuỗi hành trình giống lâm nghiệp. Mạng lưới vườn ươm công nghiệp đã được quy hoạch và xây dựng được các nguồn giống: dó trầm (Hương Khê), lim xanh (Hương Sơn), cồng trắng…
Bên cạnh công tác phát triển rừng, ngành lâm nghiệp cũng xác định phát triển công nghiệp chế biến để thành động lực thu hút hàng ngàn hộ dân nhận đất, nhận rừng, tự vay vốn đầu tư để trồng rừng nguyên liệu. Các doanh nghiệp chế biến, sản xuất gỗ nguyên liệu xuất khẩu cũng như các cơ sở kinh doanh, chế biến sản phẩm từ gỗ tại các địa phương Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ, Kỳ Anh ngày càng phát triển. Đây là những nhân tố mới trong chiến lược xã hội hóa ngành lâm nghiệp, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng chục nghìn lao động.
Với phương châm: Bảo vệ rừng tận gốc, kiểm soát chặt chẽ nơi chế biến và các đầu mối cung cấp, nên các vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng giảm đáng kể. Công tác PCCCR được các đơn vị chủ rừng chủ động thực hiện theo phương châm “4 tại chỗ”, phòng cháy là chính. Vì vậy, những năm gần đây, số vụ cháy rừng giảm. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và thực thi đồng quản lý rừng ngày càng đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân và cộng đồng tham gia hiệu quả vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng.
Ông Nguyễn Thanh Trúc - phụ trách Chi cục Lâm nghiệp Hà Tĩnh cho biết, mặc dù ngành lâm nghiệp đã đạt được nhiều thành quả trong quản lý, khai thác, sử dụng rừng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; kinh tế lâm nghiệp còn hạn chế, chưa thực sự đi vào sản xuất lớn, mang tính hàng hóa… Để biến rừng thành “vàng”, ngành lâm nghiệp đang từng bước chuyển đổi cơ cấu, xây dựng mô hình sản xuất lâm nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, tăng giá trị gia tăng sản phẩm hàng hóa lâm nghiệp chủ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đến năm 2020, phấn đấu hình thành 80.000 ha rừng nguyên liệu tập trung, trong đó có 40.000 ha nguyên liệu thân, cành. Bên cạnh đó, ngành tập trung chỉ đạo đổi mới công nghệ, thiết bị, phát triển công nghiệp chế biến lâm sản theo hướng tinh, sâu; thu hút đầu tư xây dựng nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên liệu, đa dạng hóa sản phẩm từ gỗ rừng trồng…
Theo quy hoạch, đến năm 2020, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 4.041 tỷ đồng, trong đó, các sản phẩm chủ lực chiếm 80%, gồm: Gỗ nguyên liệu rừng trồng 57%, cao su 23%; nâng độ che phủ rừng đạt 56%; góp phần giải quyết việc làm cho 70.000 lao động.
55 năm - đánh dấu một chặng đường xây dựng và phát triển của ngành lâm nghiệp. Bên cạnh những thành tựu đạt được, phía trước vẫn còn nhiều gian nan, thử thách, đỏi hỏi mỗi CBCNV ngành lâm nghiệp cũng như toàn xã hội cùng tiếp tục thực hiện sứ mệnh “chung tay bảo vệ rừng”. (Báo Hà Tĩnh 27/11) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Theo THX, một con hổ Siberia từng được Tổng thống Nga Vladimir Putin thả về thiên nhiên đang bị nghi đã tấn công và ăn thịt vài con dê tại tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc.
Theo người dân địa phương, chú hổ có tên Ustin đã ăn thịt hai con dê và hiện ba con dê khác vẫn đang mất tích. Hộp sọ của hai con dê đã chết bị nghiền nát và có một lỗ thủng to bằng ngón tay.
Ustin đã "vượt biên" từ hồi tháng 10 cùng với một con hổ khác, được báo giới đặt cho biệt danh là "hổ của ông Putin." Cả hai đều được gắn thiết bị theo dõi trên người.
Các chuyên gia về động vật hoang dã cũng khuyến cáo người dân không nên ném thức ăn cho những con hổ này nếu phát hiện ra chúng, bởi đây là hổ dữ, có thể tấn công con người. (VietnamPlus 26/11; Đại Đoàn Kết 27/11) đầu trang(./.
Biên tập: Lê Vòng