Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 25 tháng 11 năm 2015
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG

BẢO VỆ RỪNG
Ngày 24-11, tại Vườn quốc gia Yok Đôn (tỉnh Đắk Lắk) diễn ra hội nghị giao ban các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên năm 2015 do Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT tổ chức.
Tại hội nghị, ông Đỗ Quang Tùng (Giám đốc Vườn Quốc gia Yok Đôn) cho biết do vườn thuộc địa bàn của cả hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, trong khi đó vườn thuộc sự quản lý của trung ương nhưng địa phương cũng tham gia quản lý nên nhiều khi gặp khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Theo báo cáo, tình hình vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ rừng tại Vườn quốc gia Yok Đôn vẫn còn phức tạp. Những năm gần đây vi phạm chủ yếu là cắt trộm cây đơn lẻ bằng cưa tay, đa phần là những cây có đường kính trên 30 cm, mỗi ngày trung bình vườn bị cắt ba cây, chủ yếu là hương, căm xe, cà chít. Những đối tượng này thường gùi vác bằng sức người để len lỏi ra khỏi vườn rồi đưa vào các chòi, rẫy của dân.
Hiện có trên 700 hộ dân thuộc các xã vùng đệm đang chăn thả hơn 5.000 con trâu, bò trong rừng thuộc Vườn Yok Đôn quản lý. Nhiều hộ dân sống chủ yếu dựa vào khai thác lâm sản phụ, điều này gây ra khó khăn trong kiểm soát người ra vào rừng.
Ngoài ra, du lịch chưa có những hoạt động quảng bá và xây dựng những sản phẩm du lịch hấp dẫn. Hiện mới chỉ thu hút được một số lượng ít khách nước ngoài, khách trong nước đến vườn còn rất hạn chế.
Vì thế ông Tùng kiến nghị đối với Tổng cục Lâm nghiệp, cung cấp điện năng lượng mặt trời và bể chứa nước cho sáu chốt cố định, kéo đường điện cấp cho ba trạm kiểm lâm hiện đang ở gần những nơi có nguồn điện lưới. Xem xét hợp thức hóa cho một số ruộng/rẫy có trong vườn và coi ruộng, rẫy như một hệ sinh thái tồn tại cùng với các hệ sinh thái tự nhiên, quy hoạch khu chăn thả trâu bò. (Pháp Luật TP.HCM 24/11) đầu trang(
Ngày 23/11, Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh cho biết, vừa phát hiện một lượng lớn ngà voi và vẩy tê tê giấu trong mặt hàng đầu cá vược đông lạnh xuất khẩu.
Trước đó, ngày 22/11 đại diện Công ty TNHH Thương mại Cát Vận (Công ty TNHH Thương mại Cát Vận được Công ty Cổ Phần Thương mại Phúc Thuận ủy thác cho thực hiện thủ tục hải quan tái xuất hàng hóa) đề nghị Chi cục Hải quan cửa khẩu Hoành Mô thực hiện thủ tục giám sát thực xuất cho lô hàng của Công ty Cổ Phần Thương mại Phúc Thuận mở tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Chi Ma (Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn) theo khai báo hàng hóa là: Đầu cá vược đông lạnh, tổng trọng lượng: 28.880kg, số lượng: 1.279 thùng.
Thấy có biểu hiện nghi vấn, Chi cục Hải quan cửa khẩu Hoành Mô quyết định kiểm tra thực tế. Cùng với sự phối hợp với lực lượng Biên phòng tại cửa khẩu và trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Minh Thuận, Giám đốc Công ty CP Thương mại Phúc Thuận là đại diện của chủ lô hàng nêu trên, kết quả kiểm tra cho thấy trong 105 thùng hàng đầu cá vược đông lạnh có lẫn 410 khúc hình trụ (= 860 kg) dạng sừng mầu trắng đục, là ngà voi;  432 thùng hàng đầu cá vược đông lạnh có lẫn mảnh mỏng dạng vẩy sừng mầu xám đen ước khoảng 2.116 kg là vẩy tê tê.
Toàn bộ số ngà voi và vẩy tê tê nói trên được đóng gói trong các túi nilon trắng trong hoặc bao tải dứa và được giấu ở giữa thùng, bao bọc xung quanh bằng đầu cá vược, cấp đông lạnh, sau đó được bọc một lớp nilon mầu trắng trong, lớp ngoài cùng là hộp bằng bìa caton mầu vàng.
Hiện Chi cục Hải quan cửa khẩu Hoành Mô đã ra quyết định tạm giữ toàn bộ hàng hóa vi phạm kể trên để tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật. (Công An Nhân Dân 23/11; Đại Đoàn Kết 24/11) đầu trang(
Huyện Ia Grai có 90km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Rát-ta-na-ki-ri của nước bạn Cam-pu-chia, cách trung tâm TP Plei-cu khoảng 60km.
Địa hình rừng núi, sông, suối phức tạp, là điều kiện thuận lợi để "lâm tặc" hoạt động vận chuyển, mua bán gỗ lậu. Nhiều đối tượng ẩn nấp bên này sông Pô Cô chờ gỗ từ Cam-pu-chia sang, rồi vận chuyển nhỏ lẻ bằng xe gắn máy đến các địa điểm tập kết bí mật, ở xa khu dân cư, chờ thời điểm thuận lợi sẽ cho xe tải đến vận chuyển.
Song nhiều nhất, nóng nhất vẫn là gỗ "lâm tặc" đã khai thác từ những cánh rừng thuộc lâm phần của tỉnh Kon Tum, sau đó kéo xuống giấu dưới lòng sông Pô Cô (ranh giới phân chia hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai), chờ đêm tối, cẩu lên xe tải, xe độ chế để tẩu tán tiêu thụ. Tuy nhiên, điều mà dư luận bức xúc là tại sao gỗ lậu lại "chạy tự do" trên đường như vậy, trong khi các xã đều có lực lượng kiểm lâm viên ngày đêm túc trực, huyện có tổ kiểm tra “liên ngành” hoạt động.
Những ngày đầu tháng 11, người dân địa phương phản ánh: Thời gian gần đây, trên địa bàn vùng biên giới huyện Ia Grai, cứ buổi tối và gần sáng có nhiều xe tải chở đầy gỗ chạy theo hướng từ biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia theo Tỉnh lộ 664 rồi về tập kết ở một số vị trí tại xã Ia Krái, Ia Khai, Ia O, Ia Chía... Đặc biệt, các xe này thường chạy qua đoạn đường trước trụ sở UBND xã Ia Krái (Ia Grai) nhưng chưa thấy một ai nhắc nhở, kiểm tra.
Thực hiện chuyến công tác tới đây, khi đi qua địa phận xã Ia Krái (khoảng 5 giờ), chúng tôi thấy có hai chiếc xe tải loại lớn chất đầy gỗ, đã xẻ thành các hộp vuông chạy ra theo hướng Tỉnh lộ 664. Chúng tôi tiếp tục đi đến làng Tung Chruc, xã Ia Khai-ngôi làng của bà con người Giơ Rai gần bờ sông Sê San. Một người dân ở đây cho biết, từ tối đến sáng, những chiếc sà lan kéo gỗ từ huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum về bến sông này và chuyển lên xe tải chở đi ngay trong đêm, còn số gỗ này chở đi đâu tiêu thụ thì không biết...
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, trước đây bến sông này hoạt động cầm chừng, nhất là sau vụ “phát hiện ra dòng sông gỗ" (Báo Quân đội nhân dân đã có bài phản ánh), tuy nhiên hơn 3 tháng trở lại đây, xe chở gỗ vào-ra liên tục. Các loại xe tải có cần cẩu liên tiếp kéo gỗ đưa lên xe công nông độ chế chở gỗ từ đây đến nơi khác cất giấu giữa rừng cao su và cà phê ở xã Ia Krái...
Cũng tại vùng biên giới Ia Grai, trước đó không lâu, Đồn Biên phòng Ia O (Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai) đã phát hiện và truy bắt được hai xe tải chở đầy gỗ có đường kính từ 40-60cm, dài 4-5m. Tại vườn cao su ở xã Ia Khai, cao su của Đội 2 (Công ty 715), khu vực làng Tung Breng, làng Ếch…, chúng tôi đã phát hiện các bãi gỗ mà "lâm tặc" thu giấu chưa kịp tẩu tán.
Chúng tôi đã có buổi làm việc với ông Nguyễn Tuấn Toàn, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Ia Grai. Sau khi nghe chúng tôi kể lại những điều mắt thấy, tai nghe trong chuyến công tác, ông Nguyễn Tuấn Toàn thừa nhận: "Trên địa bàn huyện thời gian gần đây, tình trạng "lâm tặc" vận chuyển gỗ lậu trái phép và có những bãi gỗ lậu mới phát hiện, chúng tôi đã xử lý, tịch thu. Hạt đã phối hợp với các ngành chức năng như: Công an, quân đội, Ban quản lý bảo vệ rừng và chính quyền địa phương tổ chức đợt tuần tra, truy quét nhiều khu vực khai thác rừng trái phép. Tuy nhiên, Ia Grai là địa bàn có rừng giáp biên giới nên việc vận chuyển gỗ là khó tránh khỏi, mặc dù lực lượng kiểm lâm đã có nhiều cố gắng trong thực hiện nhiệm vụ".
Cũng theo ông Nguyễn Tuấn Toàn, từ đầu năm đến nay, lực lượng kiểm lâm huyện Ia Grai đã phát hiện, bắt giữ, xử lý 47 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Khối lượng lâm sản tạm giữ là gần 147,8m3 gỗ tròn, xẻ các loại từ nhóm 1-8. Theo chúng tôi, thực tế còn lớn hơn nhiều (PV).
Trả lời câu hỏi của chúng tôi về tình trạng gỗ lậu “chạy tự do” trên đường, liệu có cán bộ kiểm lâm nào tiếp tay cho "lâm tặc" không? Ông Nguyễn Tuấn Toàn khẳng định, đến bây giờ cơ quan chưa phát hiện cán bộ kiểm lâm nào bao che hay tiếp tay cho "lâm tặc" vận chuyển, tiêu thụ gỗ lậu, nếu phát hiện sẽ xử lý kiên quyết.
Qua theo dõi và điều tra của chúng tôi, đa phần gỗ lậu “chạy trên đường” đều có nguồn gốc từ những cánh rừng thuộc huyện Ia H’Drai và Sa Thầy (Kon Tum), được "lâm tặc" triệt hạ rồi bí mật kéo xuống sông cất giấu, sau đó lợi dụng địa bàn, thời tiết chuyển về huyện Ia Grai bằng đường sông. Từ đây, "lâm tặc" vận chuyển đi các nơi tiêu thụ. Khi lực lượng chức năng tổ chức tuần tra ban đêm đã bị các đối tượng trong đường dây gỗ lậu báo cho đồng bọn, lẩn tránh hoặc nằm im bất động để chờ thời cơ...
Đồng ý với chúng tôi về “điểm nóng” vận chuyển gỗ lậu và nguồn gốc xuất xứ của gỗ lậu qua địa phận Ia Grai, ông Nguyễn Nhĩ-Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Gia Lai cho biết: “Địa hình vùng giáp ranh hiểm trở, lâm phần lại rộng nên lực lượng chức năng của cả hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum khó kiểm soát. Để hạn chế tình trạng chặt phá rừng và vận chuyển gỗ lậu trên địa bàn huyện Ia Grai, chúng tôi đã tổ chức những đợt kiểm tra rừng đột xuất, tham mưu cho chính quyền địa phương thành lập các tổ liên ngành gồm kiểm lâm, công an, quân đội, quản lý bảo vệ rừng chốt chặn các ngả đường, trục đường trọng điểm, xử lý kiên quyết các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng”.
Chuyện cán bộ kiểm lâm huyện Ia Grai có tiếp tay cho "lâm tặc" phá rừng, vận chuyển gỗ lậu hay không? Đề nghị chính quyền địa phương và kiểm lâm huyện Ia Grai trả lời trước dư luận. (Nhân Dân 25/11) đầu trang(
Sau gần 3 tháng “sống mòn” tại Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn động vật hoang dã (Vườn Quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình) đến nay trong số hơn 70 con tê tê, là tang vật các vụ buôn bán bất hợp pháp được chuyển từ Ninh Bình và Thanh Hóa về đã có hơn 30 con bị chết.
Ông Trần Quang Phương, cán bộ Chương trình Nghiên cứu và Bảo tồn thú ăn thịt nhỏ và tê tê (chương trình hợp tác giữa Vườn Quốc gia Cúc Phương và Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn ĐVHD) cho biết, sau hơn một tháng chăm sóc thì số tê tê này đã đạt tiêu chuẩn sức khỏe để thả về tự nhiên.
Tuy nhiên, cơ quan công an và kiểm lâm 2 tỉnh không đồng ý cho tái thả với lý do vụ việc chưa được xử lý. Theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, số cá thể tê tê này sau khi tịch thu là vật chứng của vụ án và chỉ có quyết định tịch thu và xử lý sau khi vụ án kết thúc.
Ông Phương cho biết thêm, đặc thù của tê tê là chỉ ăn mối và kiến nên chi phí thức ăn rất cao. Trong một tháng, chi phí cho thức ăn mỗi con tê tê là hơn 1,4 triệu đồng, cho 70 cá thể khoảng hơn 90 triệu đồng. Điều khó khăn là kinh phí chủ yếu phụ thuộc các nhà tài trợ, còn kinh phí của trung tâm thì rất hạn hẹp. Hơn nữa, trung tâm chỉ có 28 chuồng trại nên phải nhốt chung 4 - 5 cá thể trong một chuồng, trong khi tiêu chuẩn chỉ 1 cá thể/chuồng. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến số lượng tê tê chết nhiều như vừa qua.
Không chỉ riêng tê tê, rùa là loài động vật khá dễ thích nghi với môi trường mới cũng gặp khó khăn. Ông Đỗ Thanh Hào, Quản lý Trung tâm bảo tồn rùa Cúc Phương cho biết, có thời điểm trung tâm tiếp nhận hàng trăm con rùa cùng một lúc trong khi đó cơ sở vật chất còn hạn chế. Cùng với đó, hiện nay một số quy định có liên quan đến cứu hộ, tái thả, xử lý tang vật còn nhiều vướng mắc, dẫn đến việc tái thả ĐVHD về tự nhiên còn khó khăn.
Bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc Trung tâm giáo dục thiên nhiên (ENV) cho biết, pháp luật về bảo vệ ĐVHD còn tồn tại nhiều mâu thuẫn và lỗ hổng, gây khó khăn cho công tác thực thi. Vấn đề bảo vệ ĐVHD được quy định “rải rác” trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường... dẫn đến khó khăn trong nghiên cứu và áp dụng.
“Cụ thể như cách thức xử lý tang vật là các loài ĐVHD có thể tìm thấy trong ít nhất 5 văn bản khác nhau như Thông tư 90/2008/TT - BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Nghị định 157/2013/NĐ - CP; Nghị định 160/2013/NĐ - CP, Nghị định số 29/2014/NĐ - CP của Chính Phủ và Thông tư số 159/2014 của Bộ Tài chính. Điều này khiến các cơ quan chức năng địa phương gặp nhiều lúng túng trong việc viện dẫn và áp dụng các văn bản pháp lý này trong thực tế”, bà Hà nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Văn Thái, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn ĐVHD (Save Vietnam’s Wildlife) cho biết, vụ việc 70 cá thể tê tê tại Cúc Phương là một trong những ví dụ điển hình cho bất cập trong bảo vệ ĐVHD tại Việt Nam hiện nay. Theo quy định tang vật vụ án thì sẽ phải chờ đến khi vụ án kết thúc mới được thả. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều vụ án có thể kéo dài trong nhiều tháng và hệ quả của việc lưu giữ động vật quá lâu có thể khiến chúng bị chết tại cơ quan bảo quản tang vật hoặc các cơ sở cứu hộ.
Ông Thái cho biết thêm, theo các chuyên gia pháp luật ở Mỹ, đối với những trường hợp động vật khó nuôi nhốt thì họ có những đơn vị như cơ quan thú y và các trung tâm cứu hộ để đánh giá mức độ ảnh hưởng nếu nuôi nhốt động vật đó trong 1 thời gian dài. Nếu mức độ ảnh hưởng lớn thì họ sẽ tái thả về tự nhiên trước cả khi vụ án đó kết thúc. Việt Nam cũng cần xem xét mô hình trên.
“Chúng tôi đề nghị rằng cần phải có quy định cho các trường hợp đặc biệt đối với xử lý những tang vật là ĐVHD còn sống để những động vật đó được tái thả lại thiên nhiên sớm nhất có thể”, ông Thái đề xuất.
Trao đổi về vấn đề này, ông Vũ Ngọc Linh, Vụ phó Vụ Bảo tồn thiên nhiên, Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT cho biết, Vụ bảo tồn đã có cuộc họp với các ngành chức năng của tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình tại Vườn Quốc gia Cúc Phương về vụ việc các cá thể tê tê và xác định các cá thể này đủ sức khỏe để tái thả về tự nhiên.
Tổng cục cũng đã có văn bản đề nghị các tỉnh có chỉ đạo với các ban, ngành chức năng để Vườn Quốc gia Cúc phương có thể sớm tái thả các cá thể tê tê này về tự nhiên. Trong trường hợp phải tiếp tục nuôi nhốt để phục vụ quá trình điều tra thì theo quy định tại Nghị định 70, cơ quan gửi vật chứng cần phải thanh toán các chi phí nuôi nhốt các cá thể này cho vườn Quốc gia Cúc Phương. Tuy nhiên quá trình nuôi nhốt cũng không nên kéo dài.
“Đây cũng là một trong những bất cập về chính sách bảo vệ ĐVHD nguy cấp. Do đó, cần phải có những bước để tháo gỡ bằng sửa đổi Luật Tố tụng hình sự liên quan đến xử lý các vụ vi phạm ĐVHD. Chúng tôi sẽ kiến nghị sửa đổi nội dung này trong luật định”, ông Linh cho biết.
Còn theo bà Bùi Thị Hà, cần xây dựng một Thông tư liên tịch hướng dẫn chung về việc xử lý tang vật là các loài ĐVHD. Trong đó bao quát động vật rừng, thủy sinh, ĐVHD thông thường, nguy cấp, quý hiếm của Việt Nam và quốc tế.
“Các quốc gia phát triển trên thế giới hầu hết đều có những đạo luật riêng quy định về bảo vệ ĐVHD. Việt Nam nên xây dựng một văn bản luật chuyên biệt về bảo vệ ĐVHD. Việc này nhằm đảm bảo tính thống nhất của các văn bản trong nước, phù hợp với yêu cầu của Công ước quốc tế về vảo tồn đa dạng sinh học và các loài ĐVHD nguy cấp, quý hiếm; ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về ĐVHD trong nước và xuyên quốc gia”, bà Hà kiến nghị. (Tin Tức 25/11) đầu trang(
Ngày 23-11, lợi dụng nước sông Trà Khúc lên, một số lâm tặc đã kết gỗ trên phao (ruột ô-tô) thả trôi trên sông để tuồn về xuôi.
Phát hiện số gỗ “trôi sông”, lực lượng CAX Sơn Nham (H. Sơn Hà, Quảng Ngãi) phối hợp với kiểm lâm địa bàn H. Sơn Hà tạm giữ 19 phách gỗ lớn (gần 4m3), trung bình mỗi phách có diện 50cm, dài trên 4m. (Công An TP.Đà Nẵng 24/11) đầu trang(
Sau loạt bài “Tan hoang rừng giống A Sờ” đăng trên Báo Công an TP Đà Nẵng phản ánh tình trạng lâm tặc khai thác gỗ trái phép tại khu vực rừng giống A Sờ (xã Macooih, H. Đông Giang, Quảng Nam) do Ban Quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn (BQLRPHĐN) A Vương quản lý, cuối tháng 10-2015, Phòng CSĐTTP về Kinh tế và Chức vụ- CA tỉnh Quảng Nam đã ra Quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra theo Điều 175 Bộ luật Hình sự, quy định về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”.
Qua nhiều chuyến công tác về xã Macooih (H. Đông Giang, Quảng Nam), chúng tôi đã có nhiều bài viết phản ánh về tình trạng khai thác trái phép lâm sản tại khu vực rừng giống A Sờ. Từ nguồn thông tin vừa được phản ánh, các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Nam đã vào cuộc, xác minh.
Trao đổi cùng chúng tôi, Đại tá Lê Văn Hồng, Trưởng phòng CSĐTTP về Kinh tế và Chức vụ- CA tỉnh Quảng Nam cho biết: Từ những thông tin do Báo Công an TP Đà Nẵng đăng tải và qua xác minh ban đầu đã xác định hành vi vi phạm của các đối tượng, CQĐT đã khởi tố vụ án, tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tìm hiểu về vụ việc, chúng tôi được biết: Từ năm 2012, núp dưới danh nghĩa chế biến gỗ vườn, gỗ rừng trồng, 2 chủ xưởng cưa tên Tý, Hải thực hiện việc “tuyển mộ” lao động tổ chức khai thác gỗ trái phép. Số lao động này được chia thành 2 nhóm, hoạt động riêng biệt. Nhóm thứ nhất có 3 lao động tên Liệu, Hùng, Cưng (cùng trú Nghĩa Lộc, H. Nghi Lộc, Nghệ An) và Liệu làm trưởng nhóm.
Nhóm thứ 2, gồm 6 lao động là Nguyễn Thành Phước, Nguyễn Thành Thọ, Dương (cùng trú xã Đại Cường, H. Đại Lộc, Quảng Nam), Trung trọc, Vọng, Dương (trú Quảng Bình). Công việc của 2 nhóm lao động này chỉ việc phát đường vào rừng tìm những cây gỗ lớn, có giá trị, như: gõ, kiền kiền, giáng hương..., dùng cưa lốc cưa hạ, xẻ thành bản theo quy cách và kéo ra khỏi rừng. Riêng việc tiêu thụ đã có chủ xưởng cưa lo liệu.
Trong những lần đi thực tế, chúng tôi xác định có hơn 40 cây gỗ bị 2 nhóm lâm tặc này chặt phá chỉ cách đường Hồ Chí Minh (đoạn đi qua xã Macooih) từ 100 đến 500m và cách Trạm bảo vệ (thuộc BQL RPHĐN A Vương) khoảng 1km. Cũng theo tìm hiểu của chúng tôi, ngoài hơn 40 gốc các loại đã bị phát hiện bị khai thác trái phép trong khu vực rừng giống, hai nhóm người này cùng một số lâm tặc khác còn tổ chức khai thác gỗ trái phép tại các khu vực rừng thuộc địa bàn xã Dang (H. Tây Giang, Quảng Nam) và một số địa bàn khác thuộc H. Nam Giang (Quảng Nam).
Có thể nói tình trạng khai thác gỗ trái phép tại khu vực RPHĐN A Vương (nhất là khu vực rừng giống A Sờ) diễn ra hết sức nghiêm trọng, trong một thời gian dài và gần như mọi người dân tại xã Macooih đều biết rất rõ. Thế nhưng, khi làm việc về vấn đề này, ông Vũ Phúc Thịnh, Giám đốc BQLRPHĐN A Vương cho rằng: Tình trạng khai thác gỗ tại khu vực rừng giống diễn ra nhỏ lẻ, tất cả đều được những cán bộ BQLRPHĐN A Vương phát hiện, xử lý kịp thời (?).
Trao đổi cùng chúng tôi về vấn đề: Liệu BQLRPHĐN A Vương có chịu trách nhiệm trong việc để rừng giống A Sờ cho lâm tặc khai thác tan hoang, Đại tá Lê Văn Hồng, trả lời: Trước mắt, CQĐT tổ chức xác minh, làm rõ “đường dây” khai thác, vận chuyển, tiêu thụ lâm sản trái phép tại khu vực rừng giống A Sờ. Trong quá trình điều tra, sẽ xem xét đến vai trò, trách nhiệm của một số cán bộ tại BQLRPHĐN A Vương do để xảy ra tình trạng phá rừng kéo dài, làm thất thoát nghiêm trọng tài nguyên rừng.
Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu “bắt tay” giữa chủ rừng và lâm tặc sẽ tiến hành khởi tố bổ sung để tiến hành điều tra... hoặc có thể xem xét xử lý về hành vi thiếu trách nhiệm. Còn theo ông Đỗ Tài, Bí thư Huyện ủy Đông Giang, cần thiết phải xử lý nghiêm, dù người đó là ai, giữ cương vị nào... để bảo vệ tài nguyên rừng.
Với những gì đã diễn ra trên thực tế tại rừng giống A Sờ và phản ánh của người dân địa phương cho thấy: Tình trạng khai thác gỗ trái phép tại khu vực rừng giống A Sờ diễn ra một cách công khai song không được BQLRPHĐN A Vương và các cơ quan chức năng tại H. Đông Giang phát hiện, xử lý đã gây nhiều bức xúc cho dư luận. Việc để lâm tặc ngang nhiên hoạt động, trách nhiệm chính thuộc về những cán bộ tại BQLRPHĐN A Vương.
Do đó, để bảo vệ tài nguyên rừng, lập lại kỷ cương của pháp luật, đề nghị các cơ quan chức năng tại Quảng Nam cần có những biện pháp xử lý thích ứng với những người có trách nhiệm tại BQLRPHĐN A Vương nhằm tránh trường hợp rừng vẫn có người quản lý song lâm tặc vẫn “vô tư”... phá. (Công An TP.Đà Nẵng 24/11) đầu trang(
Theo tin Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 3, một lô hàng gỗ bách xanh xuất khẩu qua cảng VICT TP.HCM đang bị chi cục tạm dừng thông quan với lý do sai khai báo hải quan.
Lô hàng nêu trên do Công ty R. L. đứng tên mở tờ khai xuất khẩu đi Đài Loan. Theo khai báo hải quan, lô hàng xuất khẩu là bàn ghế được làm từ gỗ bách xanh. Lô hàng được hệ thống điện tử phân luồng Xanh.
Qua phân tích thông tin, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 3 phát hiện có dấu hiệu nghi vấn nên đã ra quyết định tạm dừng thông quan, chuyển luồng kiểm tra thực tế.
Kết quả, toàn bộ lô hàng trong container là gỗ tròn, gồm 334 lóng, với 6,88 m³ gỗ bách xanh, không phải là sản phẩm bàn ghế như khai báo trên tờ khai hải quan.
Theo kết quả giám định ngày 24-11 của Hội Khoa học Kỹ thuật lâm nghiệp TP.HCM, gỗ bách xanh thuộc nhóm IIA, ban hành kèm theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30-3-2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm, hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.
Hiện Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 3 đang tạm giữ container hàng vi phạm nêu trên, xác minh nguồn gốc số gỗ xuất khẩu nêu trên để xử lý. (Hải Quan 24/11) đầu trang(
Trong số 45 cá thể rùa đầu to được chụp X quang, các lưỡi câu cá được tìm thấy bên trong hai cá thể rùa đã chết và bốn cá thể còn sống. Đáng chú ý là những người săn bắt trái phép loài rùa đang bị xếp hạng nguy cấp này đã sử dụng các lưỡi câu cá để bắt rùa, và các lưỡi câu này vẫn nằm trong cơ thể rùa sau quá trình tiêu hóa.
Mới đây, Chương trình rùa châu Á (ATP) thuộc tổ chức Indo-Myanmar Conservation (IMC) và Trung tâm bảo tồn Rùa Cúc Phương (TCC) đã cùng với Trung tâm Điều trị thú y đa khoa iVet tại Hà Nội tiến hành chụp X-quang cho 45 cá thể rùa đầu to hiện đang được chăm sóc, cứu hộ tại TCC.
Trong đó, 42 cá thể còn sống và 3 cá thể đã chết kể từ vụ tịch thu gần đây được tiến hành chụp X-quang. Các lưỡi câu cá được tìm thấy bên trong hai cá thể rùa đã chết và bốn cá thể còn sống, do đó cần tiến hành phẫu thuật để loại bỏ lưỡi câu trong cơ thể rùa.
Trong số các cá thể rùa này, có 23 cá thể được giải cứu từ các vụ buôn bán trái phép và được chuyển về TCC từ Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã Hà Nội ngày 30-9-2015. Các cá thể rùa đầu to còn lại được thu giữ từ các vụ vi phạm được phát hiện tại tỉnh Ninh Bình tháng 8-2015.
Rùa đầu to (Platysternon megacephalum) được xếp hạng loài Nguy cấp theo danh lục đỏ của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và được bảo vệ nghiêm ngặt theo Nghị định 32/2006/ND-CP. Tuy nhiên, loài này vẫn đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự gia tăng nạn săn bắt và buôn bán trái phép. Gần đây, số lượng lớn rùa đầu to đã được tịch thu từ các vụ buôn bán trái phép tại Việt Nam, đe dọa đến sự tồn tại của quần thể hoang dã trong tự nhiên.
Các cá thể rùa đầu to hiện được chăm sóc, cứu hộ tại Trung tâm bảo tồn rùa Cúc Phương (TCC) và Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật (CRCO) thuộc Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. Bên cạnh thách thức duy trì số lượng các cá thể rùa trong điều kiện nuôi nhốt, nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ quần thể rùa trong tự nhiên và cứu hộ các cá thể được tịch thu từ các vụ buôn bán trái phép. (Nhân Dân 24/11) đầu trang(
Chiều ngày 23/11/2015, đồng chí Huỳnh Thanh Cảnh - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã chủ trì cuộc họp nghe Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng 11 tháng và nhiệm vụ trọng tâm tháng 12 năm 2015. Tham dự buổi làm việc còn có các sở, ngành và các đơn vị liên quan.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, công tác quản lý, bảo vệ rừng trong 11 tháng đầu năm 2015 đã được các cấp, các ngành, các đơn vị chủ rừng và lực lượng Kiểm lâm tiếp tục duy trì với quyết tâm cao và triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tăng cường quản lý, bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, còn đẩy mạnh tuần tra, kiểm soát, truy quét thường xuyên, liên tục, nhất là các vùng trọng điểm phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trong tỉnh và vùng giáp ranh; tiếp tục tập trung cao trong công tác bảo vệ rừng; xử lý kịp thời và kiên quyết các hành vi vi phạm lâm luật…
Tuy nhiên, tình hình vi phạm Luật Bảo vệ phát triển rừng trong 11 tháng qua vẫn còn diễn biến phức tạp; công tác quản lý, bảo vệ rừng còn hạn chế, nổi lên đó là: Tổng số vụ vi phạm tăng 2,6% so với cùng kỳ 2014; tình hình mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép vẫn tiếp tục diễn ra; số vụ chống người thi hành công vụ còn cao; tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp vẫn tiếp diễn; tiến độ xử lý các vụ vi phạm còn chậm…
Phát biểu tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh - Huỳnh Thanh Cảnh nhấn mạnh: Công tác quản lý bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, đặc biệt là lực lượng Công an, lực lượng Kiểm lâm và các đơn vị chủ rừng.
Về nhiệm vụ của tháng 12 năm 2015, Phó Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể: Tăng cường công tác phối hợp trong kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại khu vực giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng; phấn đấu không để tình hình phá rừng, khai thác vận chuyển gỗ trái phép tái diễn thành điểm nóng; nắm chắc thông tin, diễn biến tình hình về công tác quản lý bảo vệ rừng tại các khu vực trọng điểm để chủ động phối hợp; có biện pháp răn đe phù hợp và tích cực để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi nạn vận chuyển lâm sản trái phép; phối hợp chặt chẽ cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra làm rõ đối tượng ở các vụ án phá rừng và các vụ việc có dấu hiện chống người thi hành công vụ để sớm kết luận, đưa ra xử lý nghiêm theo quy định pháp luật… (Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Thuận 24/11) đầu trang(
Những khu rừng tự nhiên ở Xuân Long, Ngọc Chấn, Xuân Lai, Yên Thành, Tân Nguyên... từng bị lâm tặc tàn phá. Trước những thực trạng đó, huyện đã có nhiều biện pháp quản lý, bảo vệ gắn với phát triển vốn rừng hiệu quả.
Với diện tích trên 38.000 ha rừng, trong đó có 13.743 ha rừng tự nhiên, 25.000 ha rừng trồng, lại nằm ở hầu hết các xã trong huyện, nhất là các xã ven hồ Thác Bà, nên công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp rất nhiều khó khăn. Lâm tặc dùng mọi thủ đoạn chặt phá, khai thác vận chuyển rất liều lĩnh, trong khi lực lượng kiểm lâm thì có hạn.
Địa bàn rộng, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, vì vậy mà lâm tặc đến thuê khai thác là họ vác cưa lên rừng xẻ gỗ, vô tình tiếp tay cho phá rừng. Nhất là các xã vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tình trạng chặt phá rừng làm nương rẫy diễn ra phổ biến.
Để từng bước ngăn chặn, bảo vệ rừng tốt, huyện xác định và lấy công tác tuyên truyền là biện pháp hàng đầu để mỗi người dân nắm được nội dung Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Cái được lớn nhất ở đây là làm chuyển biến nhận thức của người dân, từ chặt phá rừng sang trồng và phát triển rừng. Các khu rừng tự nhiên đã được giao cho các lâm trường, hộ nông dân nhận quản lý, bảo vệ hiệu quả. Những diện tích đất trống, đồi núi trọc được giao cho người dân trồng rừng kinh tế, rừng kinh tế phòng hộ với diện tích trên 25.000 ha.
Nếu như đầu những năm 90, rừng Yên Bình thuộc loại nghèo và nghèo kiệt thì đến nay đã có những diện tích rừng khá, giàu; độ tàn che rừng đã đạt trên 63%. Không dừng lại ở đó, rừng đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, hàng trăm hộ dân đã giàu có từ trồng rừng. Tình trạng khai thác, chặt phá rừng giảm theo mỗi năm. Người dân đã biết quý trọng rừng, hàng năm có hàng ngàn hộ ký cam kết bảo vệ rừng.
Đến nay đã có 25/25 xã, thị trấn xây dựng được quy ước và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư. Nội dung quy ước đã được cụ thể hóa Luật bảo vệ và Phát triển rừng, phù hợp với phong tục tập quán và quy chế dân chủ ở cơ sở. Các khu rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng sung yếu đều được gắn biển báo, bản tin, lắp đặt dụng cụ dự báo cấp PCCCR. Thành lập các tổ đội xung kích thường trực ở các thôn bản với hàng trăm người tham gia.
Thực hiện chủ trương đưa kiểm lâm về xã nhằm giữ rừng tại gốc và giúp các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch bảo vệ, phát triển vốn rừng ở tất cả các xã, thị trấn. Thành lập các chốt, trạm trên các trục đường chính, hạn chế ngăn chặn buôn bán lâm sản trái phép. Các Trạm kiểm lâm địa bàn tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thường xuyên thay đổi lịch tuần tra, bám sát vùng trọng điểm, khu vực giáp ranh xử lý kịp thời các vụ vi phạm đảm bảo nghiêm minh, đúng luật nên có tác dụng giáo dục răn đe cao. Góp phần đáng kể vào ngăn chặn tệ nạn khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép.
Yên Bình hôm nay là địa phương phát triển mạnh sản xuất lâm nghiệp, nhà nhà trồng rừng, bảo vệ rừng. Khoảng 5 năm trở lại đây, rừng đã thực sự trở thành một nghề cho thu nhập khá ở Yên Bình. Bình quân mỗi năm người dân trong huyện khai thác trên 2.500 ha rừng, sản lượng gỗ đạt trên 120.000 m3.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế rừng trồng, huyện đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách, hỗ trợ vốn, hình thành phát triển hàng chục cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ rừng trồng, nâng cao giá trị kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Giá trị từ khai thác gỗ, chế biến gỗ mỗi năm cũng đem về cho người dân Yên Bình hàng trăm tỷ đồng.
Khai thác đến đâu bà con trồng ngay đến đó, không còn để diện tích đất trống, đồi núi trọc. Ngoài ra, trong năm đầu trồng rừng bà con còn tận dụng trồng xen canh cây sắn với diện tích 2.500 ha, hình thành vùng chuyên canh sắn tại một số xã vùng Đông hồ.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng giờ không còn là của riêng của ngành Kiểm lâm mà đã được xã hội hóa, chung tay của toàn dân. “Lá phổi xanh” Yên Bình đang ngày một khỏe mạnh, nuôi dưỡng những con người biết giữ gìn và nâng niu môi trường sống. (Báo Yên Bái 24/11) đầu trang(
Năm nay, lượng mưa ít hơn so với trung bình hằng năm và dự báo mùa mưa sẽ kết thúc sớm. Do vậy, ngay đầu tháng 10/2015, các đơn vị quản lý rừng tràm trên địa bàn huyện U Minh đã chủ động xây dựng hoàn chỉnh các phương án bảo vệ rừng.
Trên toàn lâm phần U Minh Hạ có gần 100 km kinh, mương, được thiết kế ngang dọc. Ðây là hệ thống kinh, mương phục vụ cho công tác tuần tra, quản lý, bảo vệ hơn 29.000 ha rừng. Ngoài ra, nó có vai trò trữ nước phục vụ việc chữa cháy rừng. Năm nay, Chi cục Kiểm lâm Cà Mau cũng đã đầu tư đưa vào nạo vét một số kinh trên lâm phần với tổng chiều dài hơn 90 km, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc tuần tra, bảo vệ rừng.
Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ hiện quản lý 25.000 ha đất lâm nghiệp. Trong đó, đất có rừng hơn 17.000 ha. Bước vào mùa khô năm 2015-2016, đơn vị chủ động xây dựng tốt phương án phòng chống cháy rừng, với tổng số 21 đập lớn, nhỏ đã được khép kín ngay từ đầu tháng 10 để giữ nước bảo vệ rừng. Ðến thời điểm này, đơn vị cũng đã bố trí xong 20 tổ máy bơm công suất lớn, cùng với hơn 1.000 lực lượng tham gia chữa cháy tại chỗ, đảm bảo phục vụ khi cần.
Tại các hộ dân cư, bà con cũng thực hiện tốt việc đắp đập theo các kinh, mương khuôn hộ, đảm bảo giữ nước trong mùa khô. Ngoài ra, mô hình liên kết giữa các hộ dân cư với các đơn vị quản lý trong việc trực bảo vệ rừng cũng phát huy hiệu quả. Nhờ đó, trong suốt nhiều mùa khô đã qua, khu rừng tràm hàng chục ngàn héc-ta của hộ dân cư quản lý cũng được bảo vệ an toàn, không xảy ra cháy lớn.
Ông Trần Văn Hùng, hộ dân ở ấp 13, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, chia sẻ, cuộc sống của bà con trên lâm phần rừng tràm phụ thuộc rất lớn vào rừng, đặc biệt là cây tràm hiện nay cho thấy giá trị kinh tế rất cao. Do đó, gia đình ông cũng như các hộ dân khác đều xem việc giữ rừng không chỉ là trách nhiệm mà còn là giữ lấy "nồi cơm" của gia đình mình.
Trên toàn lâm phần rừng tràm U Minh Hạ có hơn 2.000 hộ dân sinh sống, được quy hoạch theo từng cụm, tuyến dân cư. Ðây là lực lượng lớn, có vai trò hết sức quan trọng trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng mỗi khi mùa khô đến. Ông Phạm Thái Hồng, ấp 13, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, thuộc Liên tiểu khu U Minh I, cho biết, vào mùa khô, gia đình ông chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ chữa cháy, như thùng, cal, vá, phảng.
Mỗi khi đi vào rừng không quên mang theo các thứ ấy, đặc biệt 4 thành viên trong gia đình luôn thay phiên tuần tra bảo vệ rừng. Ðồng thời, phối hợp với các hộ dân lân cận có rừng liền kề cùng ứng cứu kịp thời khi có xảy ra cháy. Nhờ ý thức tốt như vậy nên diện tích khu rừng rộng 7 ha của gia đình ông hơn 10 năm qua chưa hề xảy ra cháy.
Ông Danh Văn Hiệp, nhân viên phụ trách tuyên truyền Liên tiểu khu U Minh I, thông tin, đơn vị đang quản lý 3.500 ha rừng. Trong đó có gần 400 ha đang đến tuổi khai thác. Ðây cũng là một trong những khu vực đất rừng gò cao so với các khu vực khác, nên việc giữ rừng phải hết sức nghiêm ngặt.
Hiện tại, 2 con đập lớn và 7 con đập nhỏ của đơn vị được khép kín, tại các cửa ra vào rừng cũng đã đặt biển báo quy định nghiêm cấm những người không có trách nhiệm ra vào rừng trong mùa khô. Tất cả mọi hoạt động đều thực hiện nghiêm túc theo quy định của đơn vị.
Ông Trần Công Hoằng, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm U Minh, cho biết, huyện U Minh đã xây dựng xong phương án phòng cháy chữa cháy rừng mùa khô 2015-2016 và trình UBND tỉnh phê duyệt.
Ðối với các đơn vị xã có rừng như: Nguyễn Phích, Khánh Lâm, Khánh An và Khánh Thuận phân công cán bộ kiểm lâm phụ trách địa bàn phối hợp với UBND các xã xây dựng kế hoạch và lực lượng tham gia tuần tra, quản lý, bảo vệ rừng trong mùa khô. Tất cả đều đã sẵn sàng phục vụ trong mùa khô này. (Báo Cà Mau 24/11) đầu trang(
Khi những cánh rừng ở đâu đó đã bị lâm tặc “xẻ thịt” không thương tiếc thì ở xã Trà Giang (huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi) có một khu rừng với diện tích khá lớn hầu như vẫn còn nguyên vẹn từ bao đời nay.
Công đầu giúp khu rừng tồn tại là nhờ đội bảo vệ của thôn 2, những người được dân bản ở đây hay ví von gọi là đội “kiểm lâm thôn”.
Thôn 2 nằm cách xa trung tâm xã Trà Giang 7km, lọt thỏm giữ bốn bề rừng núi, gần như cô lập với bên ngoài. Để vào được thôn, chỉ có con đường duy nhất nhưng phải đi bộ hơn 3 giờ mới tới.
Hôm chúng tôi đến, cả thôn đang tập họp thanh niên trai tráng để chuẩn bị tuần tra rừng. Đội bảo vệ có 14 người, già trẻ đều có. Người lớn nhất năm nay đã gần 60, trẻ nhất mới 18 tuổi. Sau khi có mặt đầy đủ và nghe anh Hồ Văn Thắng, Đội trưởng đội tuần tra phổ biến kế hoạch xong, cả đội tất bật đi lấy dụng cụ để lên… rừng. Mặc dù mọi người đã tay rựa, tay dao để lên đường, nhưng anh Vinh và anh Tiên vẫn cứ rít lấy rít để điếu thuốc. Thấy tôi ngạc nhiên, hai anh cười rồi giãi bày: “Vì điều lệ lúc đi tuần cấm hút thuốc, không được đem theo vật dễ gây cháy nổ, nên anh em “tranh thủ” làm vài hơi cho đỡ ghiền”.
Người dân trong thôn hay ví von họ như “kiểm lâm”, đó là sự minh họa cho hành động đẹp mà những chàng trai ở đây đã làm. Còn thực chất họ cũng chỉ là dân nghèo sống tựa lưng vào dãy núi. Ngày thường, họ cặm cụi, chăm lo làm ăn nhưng mỗi khi nhận được lệnh tuần tra là mọi công việc của gia đình đều xếp lại. Không có đồng phục, vai đeo súng oai vệ như kiểm lâm thứ thiệt nhưng với chiếc áo rách hay đã sờn vai, họ nhận thấy được những lợi ích to lớn từ rừng đem lại nên đã xung phong bảo vệ và chăm sóc rừng.
Anh Hồ Văn Linh 23 tuổi nhưng đã có 4 năm “công tác” trong đội bảo vệ, bộc bạch: “Thấy rừng che chở cho thôn, cho dân làng nên mình cũng muốn làm cái gì đó để trả ơn rừng. Anh em trong thôn ai cũng ra sức bảo vệ rừng thì mình cũng phải vậy thôi. Đi như ri mới thấy được sự trù phú của cả khu rừng, thấy mình sống có ích hơn”.
Cơn mưa bất chợt ùa về, những tán rừng như chiếc dù rộng lớn che chở cho chúng tôi. Mưa vẫn cứ rơi và càng lúc càng nặng hạt. Những con vắt, muỗi rừng... thi nhau bấu víu; những dốc núi dựng thẳng đứng, dây leo chằng chịt, gai rừng tua tủa chỉ chực sẵn để cào xé da thịt của anh em đội “kiểm lâm thôn” nhưng đôi chân của các anh vẫn cứ bước đều trên con đường mòn in hằn trên lối đi.
Theo chân các anh, tôi thật sự ngỡ ngàng trước những cây cổ thụ to lớn đến 2 - 3 người ôm mới xuể. Đoán được tôi đang nhẩm đếm xem có bao nhiêu gốc cổ thụ, Đội trưởng Thắng liền khoe: “Nhà báo đếm không hết mô, nhiều vô kể; đếm những gốc cây cổ thụ ở rừng này chẳng khác gì đếm sao trên trời đó”. Anh Thắng vừa dứt lời, cả nhóm rộ lên cười. Tiếng cười bay xa rồi dội ngược trở lại, nghe cứ ngỡ như rừng đang cười.
Toàn bộ thôn 2 có 56 hộ dân nằm lọt thỏm giữa bốn bề rừng núi. Tuy cuộc sống của người dân ở đây còn khó khăn nhưng ở trong bản ai cũng có ý thức tham gia chăm sóc rừng. Nội quy về bảo vệ rừng, hình phạt khi có ai chặt phá rừng luôn được Trưởng thôn Hồ Văn Đến lồng ghép vào trong mỗi cuộc họp hay sinh hoạt của bản. Những giá trị, lợi ích to lớn của rừng đã ăn sâu vào tâm thức của bà con dân bản nên từ bao đời nay không ai bị phạt do chặt phá rừng.
Năm 2008, thôn 2 được giao 326ha rừng tự nhiên để cộng đồng cư dân bảo vệ và hưởng lợi. Ngay từ khi nhận rừng, 56 hộ dân đều tự nguyện tham gia. Bản cũng xây dựng bộ quy ước bảo vệ rừng, thành lập đội tuần tra mỗi tháng đi tuần hai lần, đồng thời thường xuyên phổ biến, vận động người dân cùng chung sức bảo vệ; trong đó bộ quy ước luôn chú ý đến vai trò của già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng.
Nguồn lợi từ rừng mang lại cho bà con dân bản rất lớn. Bởi ngoài việc bảo vệ môi trường, thì trong rừng luôn có những vị thuốc quý chữa được bệnh cho con người.
Anh Hồ Văn Trường, Phó Bí thư xã Trà Giang, tâm sự: “Đồng bào dân tộc Cor ở đây chăm sóc rừng rất tốt. Từ lúc nhận rừng đến nay, chưa có cây nào bị đốn hạ. Dù tất bật với bao việc mưu sinh nhưng nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ rừng luôn được bà con thực hiện rất nghiêm túc và thường xuyên. Có thể khẳng định, rừng ở đây vẫn còn nguyên vẹn và trù phú nhất ở miền Trung” . (Sài Gòn Giải Phóng 25/11) đầu trang(
Xét thấy tính chất vụ xâm hại rừng phức tạp, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm rừng phòng hộ Sông Tranh đã quyết định khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” xảy ra tại xã Trà Bui và xã Trà Giác thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Sông Tranh.
Quyết định khởi tố căn cứ hồ sơ vi phạm về khai thác gỗ trái phép xảy ra tại tiểu khu 742 thuộc thôn 2 xã Trà Bui và tiểu khu 822 nằm trên địa phận thôn 1 xã Trà Bui và thôn 1 xã Trà Giác. Hiện hồ sơ vụ án đã chuyển cho Viện KSND và Công an huyện Bắc Trà My điều tra, xác định đối tượng liên quan để khởi tố bị can theo quy định của pháp luật.
Có một nguồn tin cho rằng chủ rừng (Ban Quản lý rừng phòng hộ Sông Tranh) không dám đưa lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo ngành nông nghiệp vào khu vực phá rừng “nhạy cảm” vì sợ trách nhiệm liên đới. giữa tháng 11, một số người dân địa phương rành đường đi nước bước đã đưa nhóm phóng viên vào khu vực tàn sát rừng mà theo họ còn “kinh thiên động địa” hơn. Theo con suối Thùng Phuy – xã Trà Bui, chúng tôi lọt vào một vạt rừng lạ hoắc. Địa điểm này chủ rừng cũng chưa một lần đưa lãnh đạo tỉnh đến kiểm tra, thị sát.
Trong các cuộc họp trước đây, nhiều báo cáo kiểm kê lượng gỗ khai thác trái phép. Số gỗ đó được kiểm lâm đóng dấu thứ tự. Tuy nhiên, từng phách gỗ xẻ nằm rải rác trong rừng ở khu vực mà chúng tôi tiếp cận không hề thấy đóng dấu. Anh T., một người dẫn đường quả quyết: “Do đột nhập bất ngờ nên họ chưa đưa gỗ ra khỏi rừng. Khu vực này cán bộ quản lý, bảo vệ rừng đã biết nhưng không hiểu sao họ không lập biên bản”. Tôi thắc mắc hỏi vì sao khẳng định cán bộ quản lý, bảo vệ rừng biết mà không lập biên bản, T. lý giải: “Hàng chục cây gỗ như thế này bị đốn hạ, người dân biết hết chẳng lẽ chủ rừng không biết? Tiếng máy cưa nổ vang gần sát trạm bảo vệ của chủ rừng sao họ không biết chứ?”.
Gỗ cưa đúng quy cách thành phẩm chất đống không thấy đóng dấu thứ tự của cán bộ bảo vệ rừng hoặc kiểm lâm, chứng tỏ khu vực này chưa được các ngành chức năng lập biên bản. Quan sát một vạt rừng ước rộng bằng cái sân vận động, có đến hơn 10 cây chò đường kính từ hơn 1m bị đốn hạ. Gỗ cưa thành phách theo quy cách ước hơn 20m3.
T. tiết lộ thêm, vị trí này trước đây là khu rừng cổ thụ nguyên sinh nhưng 2 tháng gần đây lâm tặc triệt hạ sạch. Lạ lùng hơn, từ phía suối Thùng Phuy trở ra Trạm Quản lý bảo vệ rừng còn nguyên dấu bánh xe ô tô vừa lưu thông. Bìa rừng, dọc 2 bên rừng còn nhiều rác thải sinh hoạt, vỏ chai nước vứt bừa bãi (?).
Ở Trà Bui, không phải ngẫu nhiên mà chính quyền và kiểm lâm phải tốn công sức thống kê về số lượng trâu hiện có, vì con vật này chỉ chủ yếu sử dụng vào mục đích kéo gỗ. Nhiều người dân tiết lộ, có cán bộ bảo vệ rừng còn “góp vốn” mua trâu làm sức kéo. Nhà ông V. gần với vị trí phá rừng nên hiểu tường tận. Ông V. quả quyết: “Một cán bộ bảo vệ rừng chung với bà Th. mua 3 con trâu kéo ở dưới Trà Dương để khai thác gỗ. Mới đây, họ đã bán 1 con, giờ còn lại 2 con. Việc làm của cán bộ này ở đây ai cũng biết”.
Theo thu thập của phóng viên, rừng phòng hộ Sông Tranh thuộc lâm phận xã Trà Bui có hơn 10 điểm phá rừng. Nóng nhất nằm ở tiểu khu 742 (thuộc thôn 2), tiểu khu 738 (thôn 5), tiểu khu 736 (thôn 6). Một số  khu vực khi phát hiện gỗ lực lượng chức năng đã lập biên bản vi phạm nhưng do không vận chuyển ra khỏi rừng nên đã bị lâm tặc lén lút vận chuyển, đem tiêu thụ. Điển hình như tại tiểu khu 736, có 17 phách chò được phát hiện nhưng đã bị mất; tiểu khu 742 có 20 phách gỗ xoan đào thì chỉ còn lại 1 phách.
Dư luận đang xầm xì rằng, những vụ phá rừng ở rừng phòng hộ Sông Tranh bị lập biên bản xử lý cũng chỉ là cách đối phó, giọt nước tràn ly. Điều đó lý giải vì sao cán bộ Trạm Quản lý bảo vệ rừng ở Trà Bui “ém nhẹm” thông tin không báo cáo lên cấp trên mà tự giải quyết các vụ phá rừng vì sợ liên lụy, quy trách nhiệm. Và còn có nguyên nhân nào khác nữa hay không thì chỉ có các cơ quan chức năng huyện Bắc Trà My mới đủ thẩm quyền trả lời.
Cán bộ bảo vệ rừng có “thông đồng” với lâm tặc phá rừng hay không rồi sẽ được các ngành chức năng làm sáng tỏ, nhưng để gỗ lọt ngang qua rào chắn của trạm là không thể chấp nhận được. Và nữa, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Sông Tranh là người chịu trách nhiệm đầu tiên. Bởi lẽ, nhiều vụ đã lập biên bản, bàn giao cho đơn vị cấp dưới là Trạm Quản lý bảo vệ rừng Trà Bui quản lý. Đơn vị này lại để mất gỗ nhưng lãnh đạo chủ rừng không có hình thức xử lý triệt để từ đầu. (Báo Quảng Nam 25/11) đầu trang(
Từ đầu năm 2015 đến nay, Hạt Kiểm lâm Thanh Sơn đã chỉ đạo các Trạm Kiểm lâm địa bàn, bộ phận Thanh tra pháp chế, tổ Kiểm lâm cơ động và PCCCR phối hợp với chính quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể trong huyện tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra công tác bảo vệ rừng.
Kết quả đã phát hiện và xử lý 52 vụ vi phạm pháp luật về rừng trong đó có 17 vụ phá rừng trái pháp luật; 20 vụ vận chuyển, mua, bán, cất giấu lâm sản trái pháp luật; 14 vụ vi phạm các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng rừng, mua bán, vận chuyển, chế biến, kinh doanh, cất giữ lâm sản; 01 vụ vi phạm các quy định của Nhà nước về PCCCR; Tổng số tiền xử phạt thu nộp ngân sách nhà nước là 153 triệu đồng.
Mặt khác, để hạn chế các vụ việc vi phạm trong công tác hoạt động sản xuất và bảo vệ rừng trên địa bàn huyện; Hạt Kiểm lâm Thanh Sơn đã tổ chức mở các lớp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng cho các chủ rừng, quần chúng nhân dân và các doanh nghiệp kinh doanh chế biến lâm sản.
Đồng thời, cử cán bộ thanh tra pháp chế đi tập huấn nghiệp vụ trong thực hiện Nghị định số 157/2013 và Luật xử phạt vi phạm hành chính, qua đó giúp cán bộ nắm chắc và nâng cao kiến thức chuyên môn khi thi hành pháp luật nhằm hạn chế thấp nhất những sai sót. (Sở Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn 23/11) đầu trang(
Trụ sở của Ban giám đốc Vườn Quốc gia Tràm Chim (VQGTC) đã dời về địa điểm mới, cách chỗ cũ cả cây số.
Khang trang, bề thế với tòa nhà 2 tầng. Phòng làm việc của Giám đốc VQGTC Nguyễn Văn Hùng treo tấm ảnh lớn, rất ấn tượng: Đàn chim hồng hạc vươn mình trong nắng ban mai. Chụp được những tấm ảnh về loài chim quý này phải là người thực sự say mê và kỳ công lắm. “Ảnh tôi chụp đó. Chụp để giới thiệu với bạn bè nét đẹp nơi mình đang sống, làm việc”, ông Hùng cởi mở
“Nơi đây âm dương hòa hợp. Cúi mặt xuống đất thấy tràm, ngửa mặt lên trời thấy chim. Thân phụ tôi nay đã trên 90 tuổi, ông sinh ra đã thấy Tràm Chim rồi. Chúng ta đang ngồi trên vùng đầm lầy xưa đó...”, với tính nghệ sĩ và lợi thế là dân địa phương, trên 25 năm làm công tác khoa học ngay tại VQGTC nên ông Hùng có cái nhìn thật tỉ mỉ và đa chiều về nơi này.
Đồng Tháp Mười có diện tích trên 700.000ha, trải dài trên 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang. VQGTC là sinh cảnh đất ngập nước phèn - rừng tràm còn lại lớn nhất Đông Dương, là một trong số ít “cánh đồng hoang” còn lưu giữ những mẫu cuối cùng của hệ sinh thái Đồng Tháp Mười. Những cánh rừng tràm bát ngát xen kênh rạch uốn lượn. Năng mọc bạt ngàn, lan ra sát lộ, với nhiều chủng loại (năng ống, năng kim…). Và còn độc đáo bởi lúa ma/lúa trời, một thuở khẩn hoang sống dựa thiên nhiên, những cách đồng sen mênh mông cùng thảm thực vật nổi thủy sinh phong phú như bông súng, củ co, rau nhút…
Mùa khô là mùa vũ điệu của sếu đầu đỏ, loài sếu có tên trong Sách Đỏ thế giới. Cả trăm con, mỗi con nặng từ 7-15kg, cao hơn 1m, bay lượn, tỏ tình trên bãi năng. Chiều về, rừng tràm cực kỳ sống động, xào xạc rợp cánh chim chao nghiêng về tổ (hơn 200 loài chim, trong đó 32 loài chim có giá trị bảo tồn, 12 loài trong Sách Đỏ Việt Nam).  Xứ này từ xưa nức tiếng “vương quốc cá”, với trên trăm loài gồm nhóm cá đen/cá đồng (cá lóc, cá trê, cá rô…); cá trắng/cá sông (cá chép, cá chốt, cá he…).
Nguồn lợi từ cá lớn lắm, qua mặt lúa xa lắc. Ngày trước, để được phép khai thác cá, ngư dân Sở Hạ và xứ Như Cương (nay thuộc Đồng Tháp) sẵn sàng nộp thuế cho Nhà nước 26.130 quan tiền, tương đương số tiền thuế đánh trên 13.065 mẫu vườn hạng nhất (Gia Định thành thông chí - Trịnh Hoài Đức). Chưa đầy 10 năm trước, ngay sát VQGTC, người dân khai thác cá đã đạt doanh thu quy ra 9 - 10 tỷ đồng mỗi năm. Đến bây giờ, dù sản lượng đã giảm sút, nhưng cứ ghé bất kỳ quán nào, từ thị trấn Thanh Bình hướng về Tam Nông, cũng có sẵn những con cá lóc to đợi chờ…
Thời gian qua VQGTC đã làm được hai vấn đề lớn, tác động tích cực đến việc bảo tồn bền vững khu Ramsar thế giới (được công nhận ngày 22-5-2012) rất đặc biệt này. Đó là việc xử lý, điều tiết nước hợp lý và làm giảm xung đột lợi ích; đưa người dân, cộng đồng cùng tham gia bảo tồn, phát triển.
Nước, “vận mệnh” của VQGTC. Khô quá dễ cháy rừng, còn ngập quá khiến hệ sinh thái suy thoái, thu hẹp diện tích đồng cỏ năng, nguồn thức ăn chính của đàn sếu... “Quản lý nước phải dựa vào chính thiên nhiên nhưng cũng thật khoa học, thủy vực phải phù hợp sự phát triển của từng thảm thực vật”, Giám đốc Nguyễn Văn Hùng chia sẻ.
Với sự giúp sức của các chuyên gia hàng đầu thuộc Chương trình Bảo tồn đa dạng sinh học các vùng đất ngập nước Mekong, các nhà khoa học Việt Nam đã triển khai dự án “Quản lý thủy văn nhằm điều tiết nước hợp lý”. Mực nước tại đây được lập bảng theo dõi chặt chẽ từng ngày, từng tháng, từng mùa cho từng phân khu...
Bảo tồn bền vững phải hài hòa với “cuộc chiến” chống đói nghèo, giảm thiểu xung đột lợi ích, giữ gìn nét văn hóa lịch sử của địa phương. Dự án “Quản lý cảnh quan và phát triển sinh kế bền vững trong và xung quanh VQGTC” (Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) - Chương trình Việt Nam tài trợ), dự án “Bảo tồn đất ngập nước có sự tham gia của cộng đồng”... cũng đã được triển khai. Hàng trăm hộ dân nghèo được cấp thẻ, hàng chục ngàn lượt người đã tham gia khai thác “có kiểm soát” (quy định rõ địa điểm khai thác, phương pháp đánh bắt, thời gian đánh bắt và sản lượng…) giúp nâng cao thu nhập, đặc biệt trong mùa lũ (khoảng 1,5 triệu đồng/hộ/tháng) và nhờ đó  các vụ xâm chiếm, vi phạm trái phép giảm rõ rệt...
Đáng quý hơn, những thành công đó nằm trong bối cảnh biến đổi khí hậu gay gắt; thay đổi cả chế độ thủy văn, hệ sinh thái, tự nhiên lẫn xã hội. Những bàu, lung, rọc, trấp… đã mất dần; nước ngày càng khan hiếm. “Hồi xưa, dân múc nước lóng phèn là dùng được, sắp tới cẩn thận không có nước để… rửa chén nữa; cá đẻ cũng khó khăn hơn, có loài sẽ mất đi. Năm nay, nước lũ nhỏ nhất trong vòng 30 - 40 năm qua. Chúng ta phải chủ động để đối phó với lượng nước về sẽ ngày càng ít trong tương lai”, ông Nguyễn Văn Hùng nhận định.
“Mừng lắm nhưng cũng lo”, Giám đốc Hùng tâm sự khi VQGTC được Bộ VH-TT-DL công nhận là di tích danh lam thắng cảnh (tháng 10-2015). Đồng Tháp có tầm nhìn xa đối với “kho báu” này khi mạnh dạn bố trí kinh phí từ nhiều năm trước (khoảng 10 tỷ đồng/năm) để nâng cấp, xây mới trụ sở, cơ sở hạ tầng; đầu tư trên 200 tỷ đồng cho dự án bảo tồn, phát triển VQGTC (giai đoạn 2013-2020); mời giảng viên từ TPHCM xuống đào tạo nghiệp vụ du lịch...
“Sẽ còn nhiều việc phải làm để thực hiện đúng theo Công ước Ramsas, quy định của Bộ VH-TT-DL, nghiên cứu kế hoạch trữ nước ngọt…”, Giám đốc Nguyễn Văn Hùng nói vậy nhưng nhấn mạnh, trước mắt sẽ tập trung xây dựng, triển khai 2 dự án lớn; đó là dự án “An sinh xã hội cho bà con nghèo sống trong vùng đệm” và dự án “Du lịch sinh thái với quy mô và tính chuyên nghiệp cao”.
Theo ông Hùng, các dự án phải hướng đến xã hội hóa với nhiều loại hình mới như du lịch trải nghiệm khoa học (bảo tàng chim, cá…), du lịch kiểm lâm, homestay và kỹ năng sống trong rừng…
VQGTC sẽ in nhiều dấu chân mới. “Xinh tươi con gái Tháp Mười/Tay ôm bó lúa, miệng cười như hoa”. Trước năm 2000, có hơn 1.000 khách du lịch/năm; giai đoạn năm 2010 - 2012, khoảng 10.000 khách/năm; năm 2014 có 60.000 và 9 tháng đầu năm 2015 đã vọt lên trên 100.000 khách. “Đầu tháng 12 tới là Ngày hội du lịch VQGTC, năm nay có thêm dịch vụ ô tô điện và sắp triển khai 4 tàu năng lượng phục vụ khách du lịch. Dự kiến, năm tới 60 cán bộ nhân viên Trung tâm du lịch VQGTC sẽ tự lo kinh phí hoạt động, lương…”, Giám đốc Hùng cho biết.
“Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” (Nguyễn Hiến Lê) hấp dẫn một “Đồng Cỏ Lát” (tên gọi khác của Đồng Tháp Mười) hoang sơ. Bây giờ, “núi rừng có điện thay sao” nhưng nét xưa vẫn còn lưu giữ nhiều lắm. Huyền ảo những cánh chim chấp chới trên những cánh đồng năng bạt ngàn ngập nước. (Sài Gòn Giải Phóng 25/11) đầu trang(
Ông Lý Trung Sơn, thôn Đông Mồ, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng cho biết: quản lý, bảo vệ, PCCCR là việc làm thường xuyên của gia đình tôi cũng như các hộ khác trong thôn, nhất là vào mùa hanh khô.
Ngoài ra, tôi tham gia các buổi tập huấn về PCCCR do Hạt Kiểm lâm huyện tổ chức; chủ động kiểm tra, vệ sinh, phát dọn thực bì rừng… Vì vậy nhiều năm qua, rừng thông của gia đình phát triển tốt, không xảy ra cháy rừng.
Ở các xã, công tác PCCCR đã và đang được chú trọng thực hiện, nhất là thời điểm hiện nay. Ông Trương Văn Sóng, Phó Ban chỉ huy các vấn đề cấp bách trong quản lý, bảo vệ và PCCCR xã Quang Lang cho biết: Quang Lang là xã nằm trong vùng trọng điểm cháy rừng của huyện, để công tác PCCCR hiệu quả, đến nay, UBND xã đã lập, triển khai phương án phòng chống cháy rừng như: xây dựng các tổ, đội PCCCR ở 13/13 thôn bản; chuẩn bị dụng cụ, phương tiện chữa cháy rừng; tổ chức tuần tra canh gác vùng trọng điểm chữa cháy, bố trí lực lượng trực 24/24 giờ khi có cấp dự báo cháy; thường xuyên kiểm tra công tác phòng chống cháy rừng ở các vùng trọng điểm, xác định những nơi dễ cháy và trực ban, bảo đảm PCCCR kịp thời.
Diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp của huyện Chi Lăng là 43.135 ha, hiện có gần 32.000 ha diện tích đất có rừng. Ông Lê Minh Khôi, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Chi Lăng cho biết: để chủ động bảo vệ rừng, PCCCR trong mùa khô hanh, Hạt Kiểm lâm huyện đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp cấp bách về công tác PCCCR tới các xã.
Ngoài ra, Hạt Kiểm lâm huyện tổ chức hội nghị triển khai công tác PCCCR cho nhân dân tại các xã có nguy cơ cháy rừng cao; phối hợp với đảng uỷ, chính quyền các xã kiện toàn các tổ đội, kiểm tra các phương án phòng chống cháy rừng của các chủ rừng. Đặc biệt, tại các xã có nguy cơ xảy ra cháy rừng cao như: Vân An, Chiến Thắng, Vân Thuỷ, Bắc Thuỷ, Nhân Lý, Mai Sao, Quang Lang, Chi Lăng thực hiện hợp đồng thuê người gác lửa rừng.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền được chú trọng. Từ đầu năm đến nay, Hạt Kiểm lâm huyện phối hợp với các xã tổ chức được 127 cuộc tuyên truyền về quản lý và bảo vệ rừng, PCCCR; tổ chức tập huấn được 11 lớp về công tác phòng cháy chữa cháy rừng; sửa chữa toàn bộ biển báo tuyên truyền về PCCCR; kiểm tra thực hiện quy ước bảo vệ rừng thôn bản được 118 thôn, bản; kiểm tra 121 tổ, đội quần chúng bảo vệ rừng… Qua kiểm tra cho thấy nhân dân thực hiện tốt các quy định về PCCCR, không có hộ nào vi phạm cam kết về quản lý, bảo vệ và PCCCR;…
Do làm tốt công tác PCCR nên những năm qua, số vụ cháy rừng trên địa bàn huyện diễn ra nhỏ lẻ, thiệt hại không đáng kể. Từ đầu năm 2015 đến nay,  toàn huyện xảy ra 2 vụ cháy rừng, trong đó 1 vụ cháy thảm thực vật, cành củi khô dưới tán rừng thông tại thôn Làng Trung (Quang Lang) với diện tích 1,77 ha (diện tích rừng bị thiệt hại 0,01 ha); 1 vụ xảy ra tại thôn Mè Thình (Hữu Kiên) với diện tích cháy là 6,3 ha. Khi xảy ra cháy, được người dân thông báo, các tổ đội PCCCR của thôn, xã, kiểm lâm huyện có mặt kịp thời và dập tắt đám cháy nhanh nên thiệt hại là không lớn.
Mùa khô 2015-2016 đang đến gần và Chi Lăng đã sẵn sàng các phương án PCCCR một cách hiệu quả nhất. (Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Lạng Sơn 25/11) đầu trang(
Ngày 24-11, tại trụ sở Vườn Quốc gia Yok Đôn (huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk), Tổng cục Lâm nghiệp đã tổ chức Hội nghị giao ban các vườn quốc gia (VQG) và khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) toàn quốc năm 2015.
Theo báo cáo của Vụ Bảo tồn thiên nhiên (thuộc Tổng cục Lâm nghiệp), trong 10 tháng năm 2015, lực lượng chức năng đã phát hiện 1.736 vụ khai thác rừng, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép tại các VQG và khu BTTN, giảm 36% so với cùng kỳ. Tình trạng săn bắt, mua bán, vận chuyển động vật hoang dã trái phép tại đây cũng diễn ra phức tạp với 218 vụ, tăng 11 vụ so với cùng kỳ. Mặc dù các vụ cháy rừng năm nay đã giảm xuống còn 66 vụ, nhưng diện tích cháy rừng lại tăng tăng 54,44ha so với cùng kỳ.
So với năm 2014, tình trạng chống người thi hành công vụ đã giảm đáng kể tại các VQG và khu BTTN. Các VQG và khu BTTN cũng thực hiện hoạt động du lịch sinh thái trong khu vực mình quản lý một cách khá hiệu quả khi đón hơn 1,15 triệu lượt khách (tăng 8% so với năm 2014), tổng doanh thu đạt trên 77,3 tỷ đồng (tăng 12% giá trị so với năm 2014). Từ nguồn kinh phí thu được, các VQG và khu BTTN đã nộp gần 28 tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước và trích cho hoạt động bảo tồn thiên nhiên 12,8 tỷ đồng. (Sài Gòn Giải Phóng 25/11) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Với mục tiêu quản lý rừng bền vững, giai đoạn 2015 - 2020, toàn tỉnh có 9.000 ha rừng được cấp chứng chỉ rừng bền vững FSC theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững được UBND tỉnh phê duyệt.
5 Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp gồm: Tuyên Bình, Nguyễn Văn Trỗi, Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa phấn đấu đến hết năm 2016 có 5.526 ha rừng được cấp chứng chỉ rừng FSC. Tỉnh cho phép 5 công ty trên được liên kết với hai đơn vị để thực hiện công tác tư vấn, hướng dẫn, tài trợ và thu mua sản phẩm gỗ sau khi đã được cấp chứng chỉ rừng FSC.
Trong đó, Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là đơn vị tư vấn, hướng dẫn thực hiện các bước cấp chứng chỉ rừng và Công ty cổ phần Woodsland là đơn vị tài trợ các khoản kinh phí, giám sát thực hiện chương trình, đồng thời mời các chuyên gia đánh giá theo tiến độ và thu mua toàn bộ gỗ FSC của các công ty.
Đầu tháng 10 vừa qua, các chuyên gia của Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đã hoàn thành việc khảo sát, đánh giá các điều kiện cấp chứng chỉ rừng của 5 công ty lâm nghiệp, đồng thời hướng dẫn các công ty thực hiện các bước theo kế hoạch của Viện. Đến nay, các công ty đều đã thành lập được Tổ xây dựng Phương án quản lý rừng bền vững tiến tới cấp chứng chỉ rừng và duy trì chứng chỉ.
Riêng đối với huyện Yên Sơn có 3 công ty thực hiện cấp chứng chỉ rừng với diện tích 2.026 ha đã thành lập Nhóm chứng chỉ rừng, do Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Tuyên Bình làm nhóm trưởng. Mục tiêu trước mắt của nhóm nhằm hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được chứng chỉ rừng theo nhóm, sử dụng các lợi thế để nâng cao hiệu quả về kinh tế, môi trường, xã hội cho chủ rừng.
Các công ty đều đã ký hợp đồng nguyên tắc với Công ty cổ phần Woodsland và hợp đồng dịch vụ khoa học với Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng. Công ty cổ phần Woodsland đã ứng trước một phần kinh phí khảo sát và xin cấp chứng chỉ rừng đối với 3 công ty trên địa bàn huyện Yên Sơn. Vừa qua, Sở Nông nghiệp và PTNT đã có văn bản đề nghị các huyện, thành phố, các sở, ngành tạo điều kiện cho các công ty lâm nghiệp thực hiện cấp chứng chỉ rừng.
Theo Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Tuyên Bình Nguyễn Hồng Thái, hiện công ty đã thực hiện xong bước 4 theo kế hoạch của Viện Quản lý rừng bền vững và Phát triển rừng đó là hoàn thiện các báo cáo và số liệu hóa bằng bản đồ. Công ty đang triển khai thực hiện bước 5 là hoàn thiện các bằng chứng, tiêu chí theo Bộ tiêu chuẩn Quốc gia về quản lý rừng bền vững.
Đầu tháng 11- 2015, Công ty cổ phần Woodsland Tuyên Quang đã có đề nghị và được UBND tỉnh đồng ý về việc mở rộng chương trình FSC tới các hộ dân, trước mắt triển khai thí điểm tại huyện Yên Sơn. Công ty có chính sách hỗ trợ một phần chi phí, ứng trước một phần chi phí tư vấn, đánh giá.
Sở Nông nghiệp và PTNT cũng đã có văn bản đề nghị UBND các huyện, thành phố, các cơ quan liên quan phối hợp với công ty để triển khai cấp chứng chỉ rừng tới nhóm hộ, hộ gia đình. Việc đẩy nhanh tiến độ cấp chứng chỉ rừng đối với các công ty lâm nghiệp hiện nay, góp phần vào mục tiêu hơn 5 nghìn ha rừng được cấp chứng chỉ vào cuối năm 2016. (Báo Tuyên Quang 25/11) đầu trang(
Từ đầu năm đến nay, các địa phương, đơn vị trên địa bàn huyện đã tích cực chỉ đạo người dân khai thác, chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng.
Bên cạnh đó, các xã, thị trấn đã tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi triển khai kế hoạch trồng rừng và khai thác gỗ rừng trồng theo kế hoạch.
Cụ thể, toàn huyện đã trồng 559ha rừng tập trung, 475ha rừng phân tán, chăm sóc 2.700ha rừng và khai thác được 13.000m3 gỗ rừng trồng. Ngoài ra, công tác phòng, chống cháy rừng đã được các cấp, các ngành chú trọng và triển khai thực hiện nghiêm túc. (Báo Quảng Bình 25/11) đầu trang(
Tỷ lệ độ che phủ rừng toàn tỉnh đến năm 2020 đạt tối thiểu 55% - tương đương 537.983ha – là mức phấn đấu vừa được UBND tỉnh Lâm Đồng thông qua.
Hiện tại, Lâm Đồng có 513.529ha rừng – tỷ lệ che phủ 52,5%. Như vậy, để đạt mức 55% độ che phủ, Lâm Đồng cần tăng thêm 24.454ha rừng đạt chuẩn độ che phủ (tăng độ che phủ thêm 2,5%).
Kết quả kiểm kê rừng cho thấy, Lâm Đồng hiện có 18.552ha rừng chưa khép tán nên chưa được tính vào độ che phủ của rừng (tương đương tỷ lệ 1,89%). Theo kế hoạch phát triên rừng, trong thời gian tới, trung bình mỗi năm Lâm Đồng thực hiện trồng rừng khoảng 5.500ha.
Trong khi đó, để đạt độ che phủ tối thiểu 55% vào năm 2020, cùng với diện tích 18.552ha rừng đã có nhưng hiện chưa được tính vào độ che phủ (sẽ đạt được vào năm 2020), Lâm Đồng chỉ cần thêm 6.000ha rừng trong vòng 5 năm tới là đạt.
UBND tỉnh cho rằng, tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh đạt tối thiểu 55% vào năm 2020 là mức phấn đấu hợp lý, sát thực tế và đảm bảo thực hiện được. (Nông Nghiệp Việt Nam 25/11) đầu trang(
Đồng chí Phùng Viết Vinh, Phó Chủ tịch UBND huyện Quang Bình cho biết: Để thực hiện tốt kế hoạch trồng rừng năm 2015, UBND huyện Quang Bình đã chỉ đạo nhân dân các xã, thị trấn cùng với 2 công ty chủ động gieo ươm cây giống để cung cấp cho nhân dân gieo trồng.
Đặc biệt, huyện đã huy động cán bộ, nhân dân thực hiện trồng rừng ngày thứ 7 được 95 lần với 8.226 lượt người tham gia, vì vậy cho đến thời điểm này cơ bản diện tích trồng rừng mới bảo đảm theo kế hoạch. Các loại cây trồng lâm nghiệp gồm: Keo, Quế, Bồ đề, Mỡ và các loại cây như Xoan, Trẩu... Nhìn chung các loại cây giống trước khi xuất vườn đã được Phòng NN và PTNT của huyện cử cán bộ kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảm bảo đúng theo quy định. Qua kiểm tra các diện tích đã trồng cây đều phát triển tốt.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cho kế hoạch trồng rừng năm nay, ngay từ những tháng đầu năm huyện đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các xã, thị trấn tích cực tuyên truyền sâu sát, cụ thể hơn, qua đó đã có nhiều chuyển biến tích cực, vì vậy diện tích đăng ký, trồng mới của nhân dân đã tăng dần, công tác xử lý thực bì, cuốc hố và chuẩn bị cây giống đã được chủ động. Một số xã đã tổ chức triển khai, tuyên truyền, đăng ký đạt và vượt diện tích kế hoạch giao như xã Tiên Yên, Bản Rịa, Bằng Lang, Tân Trịnh và thị trấn Yên Bình...
Riêng xã Tiên Yên là xã có diện tích trồng rừng mới nhiều nhất, nên trong 10 tháng qua đã chủ động chuẩn bị được hiện trường và trồng rừng được 730 ha, xã Yên Thành trồng được khoảng 600 ha... Đây là một cố gắng rất lớn của cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn trong huyện. Đặc biệt, huyện cũng đã chỉ đạo cấp ủy Đảng các xã, thị trấn sớm tổ chức Hội nghị quán triệt sâu rộng các nội dung của Chương trình trồng rừng năm 2015 đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đưa các nội dung chương trình trồng rừng vào các cuộc họp, các buổi sinh hoạt của xã, thị trấn.
Đồng thời xây dựng kế hoạch, tổ chức có hiệu quả lễ phát động trồng rừng và kế hoạch phát động “Ngày thứ 7 thực hiện trồng rừng gắn với chương trình cải tạo vườn đồi tạp và xây dựng NTM” để tạo khí thế trong nhân dân. Huyện cũng nghiêm túc chỉ đạo các xã, thị trấn không chạy theo thành tích, thực hiện phương châm “làm đến đâu chắc đến đó”, có lộ trình thực hiện cụ thể, khối lượng hoàn thành phải chi tiết từng hộ, từng thôn bản, tránh tình trạng có khối lượng nhưng không rõ địa điểm thực hiện.
Huy động toàn thể cán bộ CCVC của xã, thị trấn, cán bộ, giáo viên các đơn vị trường học, lực lượng DQTV, ĐVTN... trên địa bàn tích cực tham gia hưởng ứng chương trình trồng rừng, có kế hoạch hỗ trợ các hộ gia đình khó khăn về nhân lực thực hiện trồng rừng theo hình thức mỗi người trồng giúp 20 cây trở lên. Khuyến khích nhân dân tự túc giống trồng rừng theo hình thức tự gieo ươm bằng giống cây Bồ đề, Xoan ta... hoặc chủ động mua tại các đơn vị sản xuất giống.
Định hướng cho nhân dân trồng cùng một loài cây để thành vùng tập trung, tạo thuận lợi cho đầu ra sản phẩm khi khai thác. Vận động các chủ rừng khẩn trương khai thác những diện tích rừng trồng đến tuổi khai thác để có kế hoạch trồng mới.
Đối với những diện tích lớn, tập trung các xã, thị trấn, các cơ quan chuyên môn hướng dẫn nhân dân thực hiện đầu tư liên kết trồng rừng giữa hộ gia đình với các doanh nghiệp. Khuyến khích nhân dân trồng rừng theo nhiều hình thức, trồng tập trung, trồng phân tán và trồng xen ghép...
Với những kết quả đạt được đó, cho đến thời điểm này huyện đã tổ chức nghiệm thu xong lần 1 được 15/15 xã, thị trấn, diện tích đủ điều kiện thanh toán đạt gần 3.000 ha, với gần 3.000 hộ được nghiệm thu. (Báo Hà Giang 25/11) đầu trang(
Theo số liệu thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Trà Vinh thì hiện nay tỉnh có hơn 4.000 ha rừng đã được giao khoán cho 3.000 hộ quản lý, với phương thức người trực tiếp sản xuất được sử dụng 45% diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản và 55% diện tích còn lại là để trồng rừng, bằng hình thức này vừa khôi phục được rừng ngập mặn ven biển, vừa cân bằng được môi trường sinh thái và giảm được tình trạng phá rừng nuôi tôm như những năm vừa qua.
Có thể nói mô hình trồng rừng, nuôi tôm đã thật sự đóng một vai trò quan trọng trong việc khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển. Theo một số hộ nông dân có kinh nghiệm nhiều năm thực hiện mô hình này cho biết, trồng rừng nuôi tôm sẽ tạo được bóng mát, phát triển và khôi phục lại việc cân bằng hệ sinh vật trong nguồn nước dưới tán rừng; nhờ nguồn nước sạch, con tôm sẽ phát triển tốt, có thức ăn tự nhiên bổ sung, tạo bóng râm để tôm cư trú… Chính vì thế, người nuôi tôm kết hợp với trồng rừng ít gặp rủi ro, nhờ môi trường tốt, giảm được chi phí đầu tư thức ăn cho tôm, mà còn có thêm nguồn thu từ tôm cá tự nhiên.
Ở gần đó có hộ ông Tôn Hoàng Phủ, năm 2010 được nhà nước giao 10 ha đất rừng, ông thực hiện trồng 5 ha rừng, còn lại ông nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay, nhờ cây rừng phát triển tốt, môi trường nước được ổn định, thu nhập của gia đình ông lên đến 100 - 120 triệu đồng/năm. Thấy có hiệu quả, các hộ nông dân đã phát triển lên 129 trang trại trồng rừng kết hợp nuôi tôm.
Rừng ngập mặn ven biển Trà Vinh đang từng bước được khôi phục và phát triển; ý thức bảo vệ, chăm sóc rừng của người dân địa phương được nâng lên rõ rệt. Đây là tín hiệu vui, vì rừng có vai trò rất lớn trong việc làm giảm xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái, mang lại lợi ích cho người dân sống trong vùng bằng nghề khai thác thủy sản, tạo “bức tường xanh” ngăn bão lũ, nước biển dâng xuất hiện ngày càng nhiều do ảnh hưởng biến đổi khí hậu.
Mới đây, UBND tỉnh Trà Vinh vừa phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2016 – 2020 với tổng nguồn vốn đầu tư hơn 309 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương 213,5 tỷ đồng, ngân sách địa phương 95,77 tỷ đồng. Theo đó, về phát triển rừng giai đoạn 2016 - 2020 là 3.633,44 ha; về chăm sóc rừng trồng giai đoạn 2016 - 2020 là 8.306,95 ha; trồng cây lâm nghiệp phân tán là 875.000 cây (bình quân 175.000 cây/năm).
Thực hiện giao khoán toàn bộ diện tích đất có rừng cho tổ chức, nhóm hộ gia đình, hộ gia đình, cá nhân bảo vệ rừng, đến năm 2020 tất cả diện tích có rừng đều có chủ nhận khoán bảo vệ; tổng diện tích khoán bảo vệ rừng là 29.628,93 ha (bình quân 5.925,79 ha/năm); năm 2016 giao khoán 5.353,7 ha, đến năm 2020 giao khoán 6.860,98 ha.
Mục tiêu thực hiện kế hoạch nhằm quản lý, bảo vệ 8.622,96 ha rừng hiện có, không để tình trạng suy thoái rừng, lấn chiếm đất rừng để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; nâng độ che phủ của rừng từ 3,5% thời điểm năm 2015 lên 4,6% năm 2020 là 12.256 ha, thu hút khoảng 4.000 lao động tham gia các hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp; góp phần ổn định 23.984,53 ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp với chức năng là rừng phòng hộ; nâng cao số lượng, chất lượng rừng để phát huy tốt các chức năng phòng hộ ven biển, ven sông, lấn biển. (Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia 24/11) đầu trang(
Theo kế hoạch giao ban đầu của tỉnh, năm 2015 huyện Bắc Mê được giao trồng mới 7500 ha rừng, trong đó chủ yếu là rừng lâm nghiệp xã hội và rừng thay thế.
Đến ngày 9 tháng 11 năm 2015 UBND tỉnh ra Quyết định số 2256 về việc điều chỉnh kế hoạch và nguồn vốn rừng, theo đó huyện Bắc Mê chỉ phải thực thực hiện trồng mới 5500ha. Tính đến đầu tháng 11 năm 2015 huyện Bắc Mê đã trồng được 4232 ha, đạt trên 76% kế hoạch giao.
Trong đó các giống cây được huyện lựa chọn để trồng mới là quế, mỡ và keo. Mặc dù khó có thể hoàn thành được chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng năm 2015, nhưng hiện nay huyện Bắc Mê vẫn đang tập trung chỉ đạo các xã và nhân dân tiếp tục trồng rừng theo kế hoạch
Năm nay gia đình anh Dương Quang Trung ở thôn Nà Cắp xã Lạc Nông đăng ký trồng mới 1,5 ha rừng theo mô hình trồng rừng sản xuất tập trung. 2 loại cây mà gia đình anh lựa chọn để trồng trên diện tích đất đồi của gia đình là cây mỡ và quế. Ngay từ đầu tháng 5 năm 2015 gia đình anh đã được xã bàn giao và nhận đủ 900 cây mỡ giống do nhà nước hỗ trợ.
Với số cây giống trên gia đình anh tiến hành trồng trên diện tích 0,5ha và đã hoàn thành ngay việc trồng cây ở trung tuần tháng 5. 1ha diện tích đất còn lại gia đình anh trồng 1800 cây quế và cũng vừa trồng xong vào đầu tháng 11 này hiện nay cây cũng đã bén rễ. Theo kế hoạch chỉ tiêu năm 2015 xã Lạc Nông được giao trồng mới 200 ha rừng sản xuất với 2 loại cây trồng chính là quế và mỡ, ngay sau khi có kế hoạch của huyện, xã Lạc Nông đã tiến hành triển khai giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan chuyên môn và các thôn bản thực hiện rà soát và đăng ký nhu cầu thực tế của người dân để triển khai thực hiện nhiệm vụ trồng rừng đạt kết quả cao.
Tính đến tháng 11 năm 2015 xã Lạc Nông đã hoàn thành trồng mới xong 200ha rừng đạt 100% kế hoạch, ngoài ra hiện nay một số thôn bản vẫn có nhu cầu được hỗ trợ cây giống để mở rộng diện tích trồng rừng.
Trên tổng số 13 xã thị trấn của huyện Bắc Mê có 3 xã thực hiện tốt nhiệm vụ trồng rừng theo kế hoạch chỉ tiêu của huyện giao như xã Lạc Nông, Thượng Tân và xã Phú Nam. Đặc biệt xã Phú Nam theo chỉ tiêu giao năm nay xã trồng mới 300ha rừng sản xuất, nhưng tính đến đầu tháng 11 năm 2015 xã đã trồng được 340ha. vượt 12% kế hoạch giao.
Bên cạnh những địa phương làm tốt thì có thể nhận thấy hầu hết các xã còn lại của huyện Bắc Mê về cơ bản đến nay đều chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng năm 2015, hoặc chỉ đạt 30 đến 50 % kế hoạch. Đặc biệt như đối với xã Phiêng Luông chỉ trồng mới được có 1,7ha trên tổng số 200ha theo kế hoạch giao, xã Minh Ngọc chỉ mới trồng được gần 200ha trên tổng số 700ha được giao.
Theo khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn, thì tại địa bàn huyện Bắc Mê nói riêng và trên địa bàn toàn tỉnh nói chung việc trồng rừng phải tiến hành xong trước tháng 11 dương lịch. Bởi vì sau thời điểm này đã bước vào cao điểm mùa khô, thời tiết lạnh không thuận lợi cho việc trồng rừng. Trong khi đó tính đến thời điểm này huyện Bắc Mê mới chỉ trồng được 4232ha trên tổng số 5500ha kế hoạch giao. Như vậy huyện Bắc Mê khó có thể hoàn thành được chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng 2015.
Mỗi địa phương đều có những lý do giải thích cho việc chậm tiến độ, và việc không hoàn thành chỉ tiêu xong chung quy lại có một số nguyên nhân chính dẫn tới việc huyện Bắc Mê không hoàn thành kế hoạch trồng rừng 2015 đó là huyện Bắc Mê không chủ động được nguồn cây giống, trong khi nhu cầu thực tế với diện tích được giao thì phải cần tới khoảng 8 triệu cây giống thì huyện Bắc Mê chỉ chủ động ươm và cung cấp được 40 vạn cây giống, nguyên nhân thứ 2 đó là việc tuyên truyền vận động người dân chuyển đổi diện tích đất xấu, đất nông nghiệp sang trồng rừng lâm nghiệp cũng gặp khó khăn do người dân không thực hiện.
Một số Công ty thủy điện có lưu vực lòng hồ trên địa bàn huyện chậm trễ trong việc thực hiện triển khai trồng diện tích rừng thay thế... Từ những khó khăn trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trồng rừng 2015.Theo mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Mê lần thứ IX nhiệm kỳ 2015-2020, sẽ phấn đấu đưa tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn toàn huyện từ 59,2% hiện nay, lên 62% vào năm 2020. .
Để đạt được mục tiêu đó thì huyện Bắc Mê, các cơ quan chuyên môn, các ngành các cấp cần tiếp tục vào cuộc quyết liệt hơn nữa để nhân dân hiểu được lợi ích của rừng từ đó hăng hái tham gia vào việc trồng rừng, phủ xanh đất trồng đồi núi trọc tạo môi trường sống trong lành. (Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Hà Giang 24/11) đầu trang(
Từ năm 2004, thông qua nguồn vốn vay của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (còn gọi dự án JBIC) khu vực rừng đầu nguồn Duy Sơn triển khai trồng hơn 600ha.
Tại các khu vực Đá An, Đồng Lớn thuộc rừng đầu nguồn xã Duy Sơn trồng xen kẽ giữa cây sao đen và keo. Trước đây, theo thiết kế, người dân trồng 2 hàng cây keo thì phải xen vào 1 hàng sao đen. Khi khai thác, người trồng chỉ được hưởng phần cây keo, tuyệt đối giữ lại rừng sao đen làm “lá chắn” phòng hộ.
Thế nhưng, tại Đồng Lớn, rừng sao đen đã bị san bằng, thay vào đó là sự xâm lấn trồng keo với mật độ dày đặc của người dân. Những năm trước đây, để đoạt được mục đích lấn đất trồng rừng mà đối tượng đã dùng lửa thiêu rụi, phá hoại theo kiểu tận diệt. Nhiều trường hợp lén lút đốt rừng, nhưng cũng có nhóm hộ liều lĩnh ngang nhiên hủy hoại luôn cả rừng dự án JBIC.
Vì “nhầm lẫn” giữa đất trồng rừng dự án và đất người dân từ khai phá, cùng với sự quản lý yếu kém của địa phương dẫn đến tranh chấp đất rừng dai dẳng nơi đây. Gần đây nhất, năm 2014, ông Nguyễn Công Cường (trú xã Duy Sơn) phát dọn 5.000m2 rừng có cây keo lá tràm và sao đen đã bị trâu bò dẫm nát tại khu vực bàu Bà Năng để trồng hơn 2.000 cây keo lai.
Tuy nhiên, ngày 17.8.2015, các hộ Nguyễn Văn Thọ, Phạm Ân, Ngô Phi Ba, Lưu Chi, Lê Hai, Lê Hội (cùng trú xã Duy Sơn) đến chặt phá số cây keo lai do ông Cường trồng. Tài sản cây trồng bị phá hoại, gia đình ông Cường làm đơn khiếu nại gửi chính quyền xã Duy Sơn hơn 2 tháng nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
Theo giải thích của lãnh đạo chính quyền xã Duy Sơn, việc một số hộ dân chặt phá hàng nghìn cây keo của ông Cường trồng tại khu vực bàu Bà Năng là do diện tích rừng này được UBND huyện Duy Xuyên giao cho nhóm hộ trên quản lý, khai thác. Từ năm 2011 đến nay, ông Cường thường xuyên có hành vi phát, lấn chiếm rừng phòng hộ tại địa phương để trồng keo lai, làm trang trại.
Rừng khu vực bàu Bà Năng là rừng phòng hộ đầu nguồn được Nhà nước trồng hỗn giao cây keo lá tràm và cây sao đen theo dự án JIBIC do Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản tài trợ. Để bảo vệ, phát triển rừng theo hướng bền vững, ngày 15.12.2011, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Duy Xuyên ký hợp đồng giao khu vực rừng tại bàu Bà Năng (12,4ha) cho nhóm hộ do ông Nguyễn Văn Thọ làm nhóm trưởng tổ chức quản lý. Nhưng do sự buông lỏng quản lý nên ông Cường đã phá một số diện tích để trồng mới cây keo lai.
Vì rừng được giao bị lấn chiếm trồng keo, ngày 17.8.2015, nhóm hộ của ông Thọ đã chặt phá gần 2.000 cây keo lai của ông Cường để trồng lại cây mới. Cho nên, ông Cường đã làm đơn khiếu nại lên UBND xã Duy Sơn giải quyết. Tại cuộc họp giải quyết gần đây vào tháng 10, ông Cường cho rằng mình không có hành vi chặt phá, lấn chiếm trái phép rừng phòng hộ đầu nguồn và không đồng ý trả lại đất.
Chính vì chính quyền không giải quyết dứt điểm tranh chấp đất rừng nên khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Qua tìm hiểu, chúng tôi biết nhiều trường hợp người dân lấn chiếm đất rừng của dự án sau đó xâm canh trái phép, nhiều năm chính quyền xã, huyện gần như... đứng ngoài cuộc.
Theo UBND huyện Duy Xuyên, rừng đầu nguồn xã Duy Sơn trước đây có nhiều dự án phủ xanh đất trống đồi trọc. Tại khu vực Đồng Lớn, chủ rừng gồm Cơ quan Quân sự huyện Duy Xuyên, Văn phòng UBND huyện, Văn phòng Huyện ủy Duy Xuyên và người dân địa phương. Thời gian gần đây, số lượng đơn thư, khiếu nại liên quan đến tranh chấp đất rừng tăng.
Chính quyền địa phương buông lỏng công tác quản lý nên nơi đây đã trở thành “điểm nóng” lấn chiếm đất rừng dai dẳng. Người dân có nhu cầu về đất trồng rừng, trong khi nhiều cán bộ huyện, xã có đất rừng được giao lại không canh tác thường xuyên, quản lý không chặt. Hậu quả là, người dân lợi dụng lấn chiếm. Mặt khác, dự án trồng rừng kém hiệu quả đã dẫn đến hệ lụy đốt, phá rừng suốt thời gian dài. (Báo Quảng Nam 24/11đầu trang(
Thủ tướng Chính phủ vừa có ý kiến chỉ đạo về các phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới công ty lâm nghiệp thuộc UBND tỉnh Bình Thuận.
Theo đó, củng cố, phát triển và tái cơ cấu Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Sông Dinh, Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thực hiện nhiệm vụ sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.
Thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên trên cơ sở sắp xếp các công ty lâm nghiệp: Bình Thuận, Hàm Tân và thu hút thêm đối tác bên ngoài. Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu UBND tỉnh Bình Thuận làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan (đối với trường hợp chưa bị xử lý) trong việc quản lý đất đai lỏng lẻo (khoán trắng, bị dân lấn chiếm đất) tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp Tánh Linh, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. (Nhân Dân 25/11) đầu trang(
Theo nguồn tin từ UBND TP.Đà Nẵng chiều 24.11, đoàn công tác của Thanh tra Chính phủ đã vào thành phố này làm việc, rà soát giải quyết hơn 10 đơn thư kiến nghị của công dân tồn đọng lâu nay theo chương trình tổng thể, trong đó có nội dung liên quan đến biệt phủ của đại gia vàng trong rừng Hải Vân.
Nguồn tin cho hay: “Trong chương trình làm việc, Thanh tra Chính phủ có đề cập phần nội dung liên quan đến việc của ông Quang (Ngô Văn Quang, giám đốc một công ty khai thác vàng ở Quảng Nam, xây dựng biệt phủ trái phép tại tiểu khu 11, đồi Chim Chim, Q.Liên Chiểu”.
Một lãnh đạo quận Liên Chiểu cũng cho biết đoàn Thanh tra Chính phủ làm việc tại Đà Nẵng khoảng 15 ngày, trong đó có xem xét đến nội dung đơn kiến nghị của ông Quang.
Trước đó, ngày 29.10, đoàn công tác của Cục Kiểm soát quản lý và sử dụng đất đai (thuộc Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên - Môi trường) cũng đã làm việc với UBND Q.Liên Chiểu và P.Hòa Hiệp Bắc về việc giao đất, cho thuê đất sản xuất lâm nghiệp cho các đối tượng liên quan trên địa bàn theo thông tin tại đơn của ông Quang vào ngày 8.9.2015.
Đoàn công tác đã tiến hành kiểm tra, nắm thông tin về tình hình sử dụng đất chung của toàn khu vực dưới chân đèo Hải Vân và kiểm tra thực trạng biệt phủ của ông Quang. Sau đợt kiểm tra, đoàn sẽ đề xuất biện pháp xử lý, báo cáo Tổng cục Quản lý đất đai.
Biệt phủ của đại gia vàng Ngô Văn Quang (người Quảng Nam) xây dựng trong rừng dưới chân đèo Hải Vân nhiều năm nay. Công trình nguy nga tráng lệ với giá trị ước khoảng 100 tỉ đồng.
Tuy nhiên, vào đầu năm 2015, chính quyền Đà Nẵng phát hiện ra việc xây dựng này trái phép ngay từ khâu ban đầu. Do đó, chính quyền thành phố đã ra quyết định xử phạt hành chính và yêu cầu chủ nhân tự tháo dỡ biệt phủ.
Đến ngày 8.7.2015, tại phiên họp thứ 14, HĐND TP.Đà Nẵng khóa 8 đã đưa ra nghị quyết buộc ông Quang phải tháo dỡ biệt phủ, chậm nhất là cuối tháng 8.2015.
Tuy nhiên, ông Quang có đơn xin gia hạn thêm 3 tháng tháo dỡ với lý do khối lượng công việc nhiều. TP.Đà Nẵng chấp thuận cho thời gian gia hạn đến 30.11.2015.
Đến nay đã gần hết thời gian gia hạn nhưng không thấy chủ biệt phủ tháo dỡ, thay vào đó là gửi đơn đi khắp nơi, ra đến tận Trung ương. (Một Thế Giới 24/11; Lao Động 24/11) đầu trang(
Trong  10.850 ha được giao có 7.111 ha rừng tự nhiên, 3.456 ha rừng trồng. Trong nhiều năm qua Cty đã tổ chức tốt việc giao khoán rừng cho người dân và cộng đồng dân cư quản lý nên đất rừng không bị lấn chiếm, rừng không bị đốt phá.
Việc giao khoán rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư và người dân có sự giám sát của chính quyền địa phương và Cty, đã gắn trách nhiệm của chính quyền với người dân. Vì thế mọi động thái xâm hại rừng đều được phát hiện kịp thời và xử lý thích đáng. Bởi vậy, hơn chục năm qua không có vụ xâm hại rừng đáng kể nào xảy ra, nhất là rừng ngày càng mang lại lợi ích cho người dân.
Hàng năm Cty mua lại của chính người dân bảo vệ rừng từ 60.000 -70.000 tấn nguyên liệu tre, vầu để làm ván tre ép XK và gần 100.000 m3 gỗ rừng trồng. Ngoài ra còn thu mua hàng chục ngàn tấn nứa để làm giấy đế cho SX vàng mã. Giá thu mua tre vầu từ 500.000 - 600.000đ/tấn. Việc thu mua sản phẩm rừng ngoài gỗ không chỉ giải quyết công ăn việc làm mà còn mang lại một nguồn thu đáng kể cho người dân. Chính vì thế mà họ đã thấy lợi ích từ rừng, bảo vệ rừng tốt hơn.
Đối với rừng trồng, ngoài diện tích Cty trồng, phần còn lại giao khoán cho người dân trồng và chăm sóc. Cty chịu trách nhiệm thiết kế, cung cấp cây giống, phân bón và thu mua sản phẩm theo giá cả thị trường, tỷ lệ ăn chia 50/50. Với mức khoán 70 m3/ha, nếu phần vượt lên thì người trồng rừng được hưởng 100%. Do khoán sòng phẳng như vậy, nên đất rừng trồng của Cty không khi nào bỏ hoang, người dân nhận khoán ngày một nhiều hơn.
Rừng trồng của Cty tập trung vào các loại cây: Keo lai, mỡ, bạch đàn, luồng Thanh Hóa. Giá trị rừng trồng của Cty trên 100 tỷ đồng. Ngoài nhà máy giấy đế XK, Cty mở thêm cơ sở chế biến ván ghép thanh, xẻ phôi và viên nén sinh học. Đây là những sản phẩm tiêu thụ gỗ rừng trồng của Cty và của người dân.
Bắt đầu từ năm 2015 Cty liên kết với Cty CP MDF Bảo Yên xây dựng nhà máy ván ép, SX các sản phẩm ván tre ép, ván dán ép… Mỗi năm SX 60.000 m3 ván dán, 20.000 m3 ván ghép thanh, 60.000 m3 ván MDF, tiêu thụ khoảng 200.000 tấn sản phẩm cho người dân.
Ván tre ép và ván gỗ dán, hiện đã có hợp đồng xuất khẩu với Canada và một số nước châu Âu. Ông Bùi Tiến Dũng, GĐ nhà máy cho biết: Cty hiện có 3 nhà máy SX ván tre ép đặt ở Điện Biên, Hòa Bình và Lào Cai. Cty SX ván tre ép khối XK sang Canada với số lượng không hạn chế để làm tấm lót đường phục vụ công nghiệp khai thác dầu mỏ trên sa mạc. Bảo Yên có nguồn nguyên liệu dồi dào điều kiện cần thiết để nhà máy đứng chân và mở rộng SX…
Nhà máy viên nén sinh học, nguyên liệu là mùn cưa, phế liệu của nhà máy ván bóc, MDF, xẻ ghép thanh dùng đun nấu, sưởi ấm không độc hại. Đây là sản phẩm sinh học được một số nước châu Âu và Nhật đăng ký nhập khẩu. Hiện Cty chỉ mới đáp ứng cho các nhà nghỉ và người dân Sa Pa. Giá bán 1 triệu đ/tấn, tính ra còn rẻ hơn dùng củi lại bảo vệ được môi trường so với dùng than đá.
Ông Đỗ Văn Dũng (ảnh), GĐ Cty cho hay, đơn vị đang triển khai việc tái cơ cấu SX, trong đó quản lý và khai thác tốt 10.850 ha rừng và đất rừng, nhằm phát huy lợi thế đất đai.
Không để người dân xâm lấn, khai thác rừng trái phép, Cty chia thành 3 lớp quản lý: Đội SX, cán bộ kỹ thuật địa bàn, nhân viên quản lý bảo vệ rừng phối hợp với kiểm lâm và chính quyền địa phương. Vì thế, mọi động thái xâm hại rừng đều phát hiện ngay.
"Trên hết là quan tâm tới đời sống người dân bảo vệ và trồng rừng thông qua việc mua lại sản phẩm hợp lý. Chính điều đó mới giúp họ bảo vệ, phát triển vốn rừng tốt hơn…", ông Dũng nói. (Nông Nghiệp Việt Nam 24/11) đầu trang(
Sau hơn 3 năm thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), tình trạng phá, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép trên địa bàn tỉnh Bình Phước giảm hẳn.
Ngoài ra, chính sách này còn góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện môi trường rừng...
Theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm Bình Phước, hiện nay tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh hơn 178.400 ha, gồm hơn 31.300 ha đất rừng đặc dụng, 44.500 ha đất rừng phòng hộ, và hơn 102.000 ha đất rừng SX.
Toàn bộ diện tích này chủ yếu được giao, cho thuê với các chủ rừng là vườn quốc gia, khu di tích, các nông lâm trường trực thuộc Cty nhà nước, BQL rừng, DN tư nhân, tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học lâm nghiệp… có khả năng cung ứng được cả 5 loại DVMTR theo Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách chi trả DVMTR.
Ông Trần Văn Lộc, Giám đốc Quỹ Bảo vệ - phát triển rừng (BV-PTR) tỉnh Bình Phước cho biết, việc thực hiện chính sách chi trả DVMTR ở tỉnh có những thuận lợi, đó là toàn bộ diện tích đất rừng tự nhiên của tỉnh phân bố trên lưu vực 3 sông lớn là Sông Bé, Đồng Nai và Sông Sài Gòn.
Đây là những lưu vực có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và duy trì nguồn nước SX và nước sinh hoạt ở khu vực miền Đông Nam bộ, có tiềm năng cho SX thủy điện.
Bên cạnh đó, rừng trên địa bàn tỉnh có khả năng cung ứng cả 5 loại DVMTR, góp phần cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
“Từ năm 2013, tỉnh Bình Phước bắt đầu triển khai thực hiện chính sách chi trả DVMTR. Đây là trách nhiệm xã hội của DN khi sử dụng cả nguồn nước và lưu vực sông. Thực tế mức phí hiện áp dụng đối với các DN SX thủy điện là rất thấp.
Để kế hoạch thu, chi được đảm bảo, thời gian qua Quỹ thực hiện đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách chi trả DVMTR nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp.
Mặt khác, tăng cường công tác vận động các công ty thực hiện nghiêm các điều khoản trong Nghị định số 99 của Chính phủ.
Ðồng thời, phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức thẩm định các chương trình, dự án, phi dự án để hỗ trợ đầu tư khi có nguồn vốn thu được.
Ngoài ra, tổ chức kiểm tra, nghiệm thu, giám sát các đối tượng cung ứng DVMTR theo đúng quy định và thực hiện việc chi trả DVMTR đến các chủ rừng”, ông Lộc nói.
Việc thực hiện chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh đã có những tác động tích cực trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Đó là tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép giảm hẳn. Môi trường rừng từng bước được cải thiện, tăng khả năng phòng hộ, điều tiết và duy trì nguồn nước cho các cơ sở sử dụng DVMTR.
“Thực hiện chính sách chi trả DVMTR không những tạo nguồn tài chính góp phần đầu tư trực tiếp vào việc bảo vệ và phát triển rừng, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa nghề rừng.
Qua đó còn góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc phát triển tài nguyên rừng, cải thiện môi trường sống, hạn chế các hành vi gây tổn hại đến rừng góp phần nâng cao chất lượng DVMTR”, ông Trần Văn Lộc cho biết.
Hiện nay, toàn bộ diện tích rừng của VQG Bù Gia Mập đã được giao khoán cho 13 cộng đồng thôn bản, gồm 150 hộ đồng bào dân tộc thiểu số S’tiêng ở hai xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập và 3 đơn vị bộ đội đóng chân trên địa giới Vườn.
Theo đó, với mức chi trả DVMTR 180.000 đồng/ha/năm thì một hộ dân được nhận khoán bình quân 40 ha rừng sẽ nhận 11.200.000 đồng/năm.
“Số tiền DVMTR được nhận chiếm khoảng 15-20% trong cơ cấu thu nhập của một hộ dân. Nếu xét về giá trị sử dụng thì nguồn thu nhập này còn thấp so với biến động giá cả, thị trường chung hiện nay, nhưng với người lao động nghề rừng thì không hề nhỏ”, ông Lộc nói.
Anh Điểu Phong, 33 tuổi, một hộ nhận khoán bảo vệ rừng thôn 3, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập cho biết hai vợ chồng có 3 đứa con còn nhỏ. Hồi trước không có đất làm nên khổ lắm, lúc nào cũng thiếu ăn. Mấy năm nay được giao bảo vệ rừng, có thu nhập nên hết đói rồi. Mừng lắm.
Ngoài được trả tiền, anh chị còn có nguồn thu khác trong khoảnh rừng được giao như măng, rau, củ, quả rừng, cá suối… nữa. Trước đây rừng bị người ta phá dữ lắm, nhưng mấy năm nay do có anh em bảo vệ nên rừng không còn bị phá.
Cũng theo ông Trần Văn Lộc, chính sách chi trả DVMTR đã đi vào cuộc sống, các đối tượng được hưởng lợi từ DVMTR đã chi trả tiền DVMTR ủy thác qua Qũy BV-PTR các cấp.
Thực hiện chính sách này phản ánh mối liên kết kinh tế mang tính bền vững giữa bên sử dụng và bên cung ứng DVMTR.
Mặt khác, rừng trong vùng nhờ hưởng chính sách chi trả DVMTR được bảo vệ tốt hơn, đời sống người lao động nghề rừng được cải thiện, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định an ninh chính trị tại địa phương.
Ngoài ra, bên sử dụng DVMTR (nhà máy thủy điện, cơ sở SX nước sạch) có nguồn nước đảm bảo cho việc SX điện năng, nước sạch phục vụ cho đời sống nhân dân, tạo ra giá trị kinh tế lớn cho doanh nghiệp.
Bên cung ứng DVMTR (các chủ rừng, hộ, nhóm hộ nhận khoán bảo vệ rừng, cộng đồng…) được trả tiền bằng chính kết quả lao động của mình, giá trị lao động của người lao động làm nghề rừng đã trở thành hàng hóa.
Theo Quỹ BV-PTR Bình Phước, tính đến nay đã xác định được 19 đơn vị sử dụng DVMTR của tỉnh, gồm: 7 cơ sở SX thủy điện trong đó 5 cơ sở do Quỹ Trung ương điều tiết, 10 cơ sở SX nước sạch trong đó 7 cơ sở do Quỹ Trung ương điều tiết và 2 tổ chức kinh doanh du lịch.
Từ khi thành lập (năm 2012) đến nay, Quỹ BV-PTR tỉnh đã thu được trên 68 tỷ đồng tiền ủy thác chi trả DVMTR từ các cơ sở, tổ chức sử dụng DVMTR.
Đây là nguồn tiền có ý nghĩa để thực hiện chi hỗ trợ công tác BV-PTR, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển ngành lâm nghiệp tỉnh.
Trong tương lai, nguồn kinh phí thu từ các cơ sở sử dụng DVMTR sẽ là nguồn tài chính chủ yếu phục vụ chi trả cho công tác BV-PTR của tỉnh. (Nông Nghiệp Việt Nam 23/11) đầu trang(./.
Biên tập: Hương Giang