Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 23 tháng 06 năm 2016
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Mùa khô hạn năm nay trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nhiệt độ luôn cao, nắng hạn diễn ra gay gắt, nguy cơ cháy rừng bất cứ lúc nào. Trong mấy tháng đã xảy ra 3 vụ cháy rừng ở huyện Cam Lộ và Gio Linh.
Ông Khổng Trung, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị cho biết, tình hình nắng nóng gay gắt đã đặt các Hạt kiểm lâm, các địa phương và chủ rừng tích cực hơn nữa vào cuộc triển khai thực hiện các phương án phòng chống cháy rừng 24/24 giờ với phương châm “phòng là chính” và thực hiện “4 tại chỗ”.
Công tác phòng chống cháy rừng (PCCR) năm 2016 được Ban Chỉ huy bảo vệ rừng (BCH BVR) tỉnh Quảng Trị xác định là nhiệm vụ trọng tâm và đã được triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt đến BCH BVR các chủ rừng, huyện, thị xã, thành phố, các sở, ngành liên quan, nhằm chủ động trong công tác PCCR với cơ chế huy động lực lượng, phương tiện để ứng cứu khi có cháy rừng xảy ra.
Do địa bàn hiểm trở nên để tạo ra một lực lượng liên kết lớn trong việc tham gia PCCR, BCH BVR tỉnh Quảng Trị đã huy động BCH Quân sự tỉnh, Bộ đội Biên phòng, Sư đoàn 968, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 337, Công an PCCC về phương án hỗ trợ phương tiện, nhân lực của đơn vị khi có đề nghị hỗ trợ lực lượng của các địa phương, chủ rừng trên địa bàn tỉnh trong trường hợp xảy ra cháy lớn.
Hiện tại, ở Quảng Trị, ngoài rừng tự nhiên, thì chủ yếu còn lại rừng của các Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng trồng của dân nên vấn đề phân cấp phòng chống cháy rừng được đưa về từng địa phương, đơn vị cụ thể.
Ông Lê Hoài Nhân, Giám đốc Cty Lâm nghiệp Triệu Hải cho biết, với hơn 5 ngàn ha rừng chủ yếu rừng kinh tế nằm ở địa hình phức tạp nên đơn vị luôn tích cực trong công tác PCCR, đề ra nhiều phương án cụ thể. Lực lượng xung kích được củng cố, kiện toàn đến tận cấp xã, thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát.
Ông Trần Minh Lý, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Bến Hải, đơn vị quản lý hơn 22 ngàn ha rừng phòng hộ và sản xuất, cho biết, công tác PCCR là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nên Ban luôn triển khai kịp thời các phương án PCCR với phương châm phòng là chính.
Thực tế công tác PCCR luôn được tỉnh Quảng Trị quan tâm hàng đầu nhưng theo ông Khổng Trung, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị, trong hơn 242 ngàn ha rừng của Quảng Trị thì đến nay cũng chỉ mới có 20% diện tích rừng ở trên khi xảy ra cháy rừng có được sự tham gia của các phương tiện cơ giới phục vụ chữa cháy. Có 15% diện tích rừng được chủ động chữa cháy bằng phương tiện thô sơ, thủ công gần khu dân cư.
Còn 65% diện tích rừng còn lại nằm ở vùng sâu, vùng xa, không có đường ô tô đi lại nên mất cả ngày đường đi bộ mới đến được điểm xảy ra cháy rừng nên không thể nào can thiệp được bằng các phương tiện ô tô chữa cháy.
Theo ông Khổng Trung, trước hết, Nhà nước phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đường giao thông tốt nhằm kiểm tra, quản lý, PCCR cũng như phục vụ việc đi lại trồng và chăm sóc rừng của bà con nhân dân.
Tiếp đến là phải có một lực lượng chuyên môm gồm quân đội, công an đủ mạnh để kịp thời vào cuộc khi xảy ra sự cố cháy rừng.
UBND huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo BCH Quân sự các cấp và Hạt Kiểm lâm xây dựng quy chế phối hợp trong công tác bảo vệ rừng, PCCR giữa lực lượng kiểm lâm và dân quân tự vệ nhằm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong công tác bảo vệ rừng. UBND xã xây dựng tổ, đội PCCR thôn, bản, thành lập đội dân quân tự vệ để hỗ trợ khi cháy rừng xảy ra trên tinh thần “4 tại chỗ”. (Nông Nghiệp Việt Nam 23/6) đầu trang(
Trong những ngày này, thời tiết nắng nóng, kho hanh tại tỉnh Quảng Bình khiến nhiều cánh rừng trồng bị cháy lá, khô cành.
Điều này tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng. Để phòng chống cháy rừng, các lực lượng chức năng địa phương và người dân đang triển khai nhiều biện pháp chủ động ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra. (Truyền Hình Quốc Hội 22/6) đầu trang(
Dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2 khi được xây dựng sẽ gây ngập 265 ha rừng thuộc Khu BTTN Kon Chư Răng. Chính vì vậy, UBND tỉnh Gia Lai đã có công văn nghị Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành xem xét không cấp phép cho dự án này.
UBND tỉnh Gia Lai vừa có công văn đề nghị Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành xem xét không cho phép Công ty CP Thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh (gọi tắt là Công ty Vĩnh Sơn - Sông Hinh) đầu tư xây dựng dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2 tại Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Kon Chư Răng.
Dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2 công suất 80MW, tổng vốn đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng, gồm 2 hồ chứa: Hồ ở suối Say (Khu bảo tồn Kon Chư Răng, huyện Kbang, Gia Lai) và hồ chứa ở hồ Đắk Kron Bung (Bình Định).
Dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2 thuộc quy hoạch bậc thang thủy điện thượng sông Côn đã được Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) phê duyệt năm 2006, dự kiến đưa vào vận hành năm 2013.
Theo các nhà khoa học, dự án khi được xây dựng sẽ gây ngập 265 ha rừng thuộc Khu BTTN Kon Chư Răng, rừng đặc dụng nguyên sinh cần bảo vệ nghiêm ngặt. Việc chuyển dòng nước này sẽ làm cạn kiệt 10 km dòng suối Say trong mùa khô, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái của cả khu vực đầu nguồn thượng sông Côn thuộc tỉnh Gia Lai. Vì vậy, UBND tỉnh Gia Lai đã có nhiều văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ không đồng ý đầu tư dự án thủy điện này. Tuy nhiên đến nay, Công ty Vĩnh Sơn - Sông Hinh tiếp tục có văn bản đề nghị đầu tư dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2.
Ông Kpah Thuyên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, cho biết thời gian qua, thủy điện An Khê - Ka Nak đã chuyển nước từ sông Ba về sông Côn (tỉnh Bình Định) gây tác động tiêu cực tới môi trường, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân. Dự án thủy điện Vĩnh Sơn 2 cũng chuyển dòng nước sang sông Côn làm ảnh hưởng đến hạ lưu của sông Ba nên tỉnh Gia Lai không đồng ý.
Còn ông Phạm Xuân Trường, Phó Chủ tịch UBND huyện Kbang, quyết liệt bác bỏ dự án trên. “Khu vực xây thủy điện là rừng nguyên sinh rất quý, cần bảo tồn nguồn gien. Thủy điện sẽ ảnh hưởng nặng đến hoạt động du lịch và hàng loạt vấn đề dân sinh khác. Chúng tôi không đồng tình xây dựng thủy điện này” - ông Trường nhấn mạnh.
Ngày 20/6, tại hội nghị về các giải pháp khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo, ngừng cấp phép các công trình thủy điện liên quan đến chiếm đất rừng và rừng; kiên quyết thu hồi giấy phép, dừng hoạt động đối với các dự án thủy điện không chấp hành quy định trồng rừng thay thế và chi trả dịch vụ môi trường rừng.
“Chúng ta có chủ trương khôi phục rừng khi làm thủy điện nhưng nhiều dự án không thực hiện nghiêm, chỉ lo phát điện mà không lo trồng rừng”, Thủ tướng nêu vấn đề. (An Ninh Tiền Tệ 22/6; Sài Gòn Giải Phóng 22/6) đầu trang(
Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Trạm Tấu được thành lập năm 2006, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ tại địa bàn 12 xã, thị trấn trong huyện.
Với nhiệm vụ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân vùng cao, những năm qua, Ban đã thực hiện tốt việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng (BVR) tại địa phương. Sau nhiều năm phát triển, diện tích đất trống đã được phủ kín bằng màu xanh của những cánh rừng thông và cây bản địa. Đến năm 2015, tổng diện tích rừng do Ban quản lý, bảo vệ là trên 32.504 ha; trong đó, rừng phòng hộ trên 7.197 ha, rừng tự nhiên 25.307 ha, rừng trồng gần 769 ha.
Đi đôi với công tác quản lý, BVR, Ban còn tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân các địa phương phối hợp tham gia phát triển rừng trồng phòng hộ, rừng trồng sản xuất. Riêng vụ rừng trồng năm 2015, đã có 505 hộ dân trên địa bàn 5 xã tích cực tham gia trồng mới 375 ha rừng phòng hộ.
Trong đó, xã Bản Công trồng 50 ha, Túc Đán 200 ha, Tà Xi Láng 50 ha, Làng Nhì 50 ha, Phình Hồ 25 ha. Ngoài ra, 200 ha rừng trồng sản xuất cũng được triển khai thực hiện trên địa bàn 4 xã và có 248 hộ dân tham gia trồng đạt 100% kế hoạch giao. Xã Bản Mù trồng 80 ha, Xà Hồ 40 ha, Làng Nhì 30 ha, Bản Công 50 ha. Ban còn phối hợp với xã Bản Công chỉ đạo nhân dân trồng 2,3 ha rừng thay thế tại thôn Bản Công gồm: 60% cây thông, 40% cây sơn tra. Để rừng phát triển tốt, hàng năm, việc chăm sóc rừng trồng thực hiện 2 lần/năm.
Tuy nhiên, sau trận mưa tuyết xảy ra vào tháng 1/2016 đã gây thiệt hại lớn đến diện tích rừng do đơn vị quản lý. Băng tuyết đã làm cho lớp thực bì dưới mặt đất và nhiều cây cối chết khô, tạo thành lớp mùn dày đặc, vào mùa khô rất dễ gây cháy rừng.
Vì vậy, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và chăm sóc rừng của năm 2016 nặng nề hơn bao giờ hết, lãnh đạo Ban luôn trăn trở phải làm cách nào để phục hồi lại diện tích rừng đã chết và tiếp tục giữ diện tích rừng hiện có qua mùa khô hanh khắc nghiệt. Vì địa bàn huyện rộng, nhiều núi cao, khe sâu với độ dốc lớn, hệ thống đường giao thông bị chia cắt nên việc phục hồi diện tích rừng đã bị chết và chăm sóc, BVR luôn gặp khó khăn.
Ông Phạm Thành Đô - Phó Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Trạm Tấu cho biết, nhớ lời dạy của Bác “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, đơn vị đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phương tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân góp sức tham gia chăm sóc, bảo vệ và trồng rừng mới.
Đồng thời, phân công nhiệm vụ cho từng cán bộ bám sát địa bàn và đôn đốc, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cho bà con. Nhờ vậy, từ đầu năm 2016 đến nay, Ban đã thực hiện tốt công tác quản lý, BVR với tổng diện tích 33.151 ha; trong đó có gần 23.289 ha rừng tự nhiên phòng hộ, trên 2.018 ha rừng tự nhiên sản xuất, trên 6.662 ha rừng trồng phòng hộ và 646,5 ha rừng trồng sản xuất.
Ngoài ra, còn chăm sóc thường xuyên 1.555 ha rừng trồng phòng hộ, trong đó có 375 ha là rừng trồng phòng hộ 2 năm, 680 ha rừng trồng phòng hộ 3 năm, 500 ha rừng trồng phòng hộ 4 năm. Ban còn triển khai, thực hiện tốt việc trồng mới 200 ha rừng phòng hộ được phân bổ cho các xã: Bản Công 70 ha, Túc Đán 60 ha, Làng Nhì 30 ha, Tà Xi Láng 40 ha và trồng 100 ha rừng sản xuất tại 3 xã: Xà Hồ, Bản Công và Tà Xi Láng.
Để có cây giống phục vụ việc trồng rừng mới tại chỗ một cách thuận lợi, Ban đã phối hợp với người dân các địa phương trong vùng dự án tổ chức ươm cây giống, chủ yếu là cây sơn tra và thông mã vĩ đạt trên 1,2 triệu cây/năm. Để tránh sự xâm lấn, Ban đã hoàn thành công tác cắm mốc ranh giới giữa khu vực rừng giáp ranh với khu dân cư; tổ chức phát quang đường ranh giới, thường xuyên phối hợp với các lực lượng, chính quyền địa phương tuần tra, BVR định kỳ.
Các giờ cao điểm, công tác BVR ở cơ sở luôn được cập nhật báo cáo trong ngày theo “đường dây nóng” trực tiếp cho Giám đốc Ban Quản lý, để đơn vị nắm tình hình và có phương án xử lý kịp thời.
Ông Hoàng Minh Thuật - Phó Chủ tịch UBND xã Bản Công cho biết: “Thời gian qua, chúng tôi đã phối hợp chặt chẽ với Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện tích cực tuyên truyền, phổ biến Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đến với người dân nên nhận thức của người dân đã nâng lên. Trong mùa khô, các thôn, bản đã phân công người dân thay phiên nhau trực gác, không để lửa lan vào rừng”.
Nỗ lực đó đã giữ mãi màu xanh của những cánh rừng, góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương. (Báo Yên Bái 22/6) đầu trang(
Ban Quản lý đầu tư xây dựng các công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố cùng các đơn vị liên quan đang triển khai xây mới Trạm quản lý bảo vệ rừng Cà Nhông, dự kiến cuối tháng 7 đưa vào sử dụng.
Trạm xây dựng trên phạm vi 2.000m2 tại lâm phận phía cực tây thành phố Đà Nẵng giáp với xã Tư, huyện Đông Giang (tỉnh Quảng Nam), bao gồm nhà làm việc 1 tầng, kết cấu khung bê-tông cốt thép, tường xây, diện tích sử dụng 149m2; sân nền 350m2 và các công trình phụ trợ. Trạm có bể chứa nước thể tích lớn, hệ thống điện bằng năng lượng mặt trời công suất 4kW. Tổng vốn đầu tư 1,2 tỷ đồng, từ ngân sách thành phố.  (Báo Đà Nẵng 22/6) đầu trang(
Nhiều năm nay, 820 hộ đồng bào dân tộc ở các xã Buôn Tría, Buôn Triết, Đắk Nuê, Nam Ka, Ea R’Bin (huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) có thêm thu nhập ổn định từ việc tham gia nhận giao khoán quản lý, bảo vệ 14.606,8ha rừng của Ban Quản lý rừng đặc dụng Nam Ka.
Đời sống của bà con không ngừng được cải thiện, ý thức và trách nhiệm bảo vệ rừng được nâng cao, giảm tình trạng lấn chiếm đất rừng làm rẫy, khai thác rừng trái phép.
Ông Nguyễn Văn Nhật, Giám đốc BQL rừng đặc dụng Nam Ka cho biết, ban đang quản lý 20.399ha, trong đó được chia làm 3 khu: Khu bảo vệ nghiêm ngặt, khu phục hồi sinh thái, khu hành chính dịch vụ nằm trên địa bàn huyện Lắk và Krông Ana. Trước diễn biến phức tạp của tình trạng luật vi phạm và bảo vệ rừng, các ngành chức năng cũng như đơn vị chủ rừng đã triển khai nhiều giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp vi phạm.
Mặc dù đã được đơn vị triển khai nhiều biện pháp để quản lý và bảo vệ rừng, cũng như các cấp chính quyền địa phương đặt biệt quan tâm trong thời gian qua, trên lâm phần của BQL vẫn còn để xảy ra một số trường hợp người dân phá rừng làm nương rẫy, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.
Cụ thể, năm 2015 đơn vị đã phát hiện và xử lý 15 vụ phát rừng làm làm rẫy và lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép, với diện tích 1,09ha. Đơn vị đã lập biên bản, đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức đốt non, đóng bảng cấm dọn tỉa để rừng tự tái sinh phục hồi.
Với những trường hợp này, đơn vị đã phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành xác minh và mời các đối tượng vi phạm tới để tuyên truyền phổ biến luật bảo vệ và phát triển rừng, vận động không phá rừng làm nương rẫy, đồng thời ký cam kết không vi phạm về lấn chiếm đất lâm nghiệp và di dời dỡ bỏ lán trại ra khỏi khu rừng đặc dụng.
Bên cạnh đó, BQL còn tổ chức được 12 buổi tuyên truyền về công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng, kết hợp với công tác tuần tra đã tuyên truyền 243 lần cho 955 lượt người tham gia và ký 239 bản cam kết với người dân không phá rừng làm nương rẫy, săn bắn động vật rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép. (Nông Nghiệp Việt Nam 22/6) đầu trang(
Lâu nay, việc ngăn chặn và bảo vệ rừng luôn là vấn đề khó cho chính quyền ở các địa phương. Một phần do lực lượng làm công tác bảo vệ thường mỏng, mà tài sản cây rừng luôn kích thích lòng tham của những kẻ phá hoại.
Nguyên nhân khác, do hình thức xử phạt chưa nghiêm, sự buông lỏng của chính quyền các địa phương có diện tích rừng và sự lơ là của các trạm gác dọc đường...
Tính từ đầu năm đến nay, các xã vùng cao thuộc huyện Hàm Thuận Bắc đã xảy ra 11 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Xã La Dạ là địa bàn thường thu hút kẻ phá rừng  hoạt động.
Chưa được nửa năm, đã xảy ra 6  vụ. Xã Đa Mi trước khi thành lập xã, phần lớn diện tích rừng đã bị người dân ở các nơi đến phá để trồng cà phê và cây ăn trái, nay vẫn xảy ra 4 vụ. Đông Giang 1 vụ. Trong đó, diện tích rừng bị phá trái phép 23.483 m2 và số lượng gỗ bị khai thác trái phép là 90,593 m3. Đủ để góp phần gây thiên tai lũ lụt và hạn hán...
Việc xử phạt có 5 trường hợp vượt khung xử phạt hành chính, Hạt Kiểm lâm đang củng cố hồ sơ để chuyển cơ quan điều tra, 6 trường hợp còn lại xử phạt hành chính. Huyện đã ban hành 1 quyết định xử phạt, nhưng đối tượng chưa chịu nộp phạt, 5 trường hợp khác, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm đã có quyết định xử phạt vắng chủ. Do quy định xử phạt của pháp luật đối với việc phá rừng còn nhẹ nên không hiếm những trường hợp bị xử phạt rồi vẫn tái phạm phá rừng.
Như đã nói, trường hợp phá rừng năm nào cũng xảy ra, trách nhiệm đầu tiên là do khâu quản lý. Xã La Dạ có Khu rừng Ông bà với nhiều cây gỗ lâu năm, những năm gần đây thường bị tàn phá. Phá quy mô cũng có mà nhỏ lẻ cũng thường xảy ra. Hiện nay, ngoài việc ngành chức năng đang điều tra đối tượng khai thác trái phép 52 m3 gỗ sao (13 cây) ở khu vực rừng Ông bà, còn có vụ 67 cây gỗ bị chặt phá tại tiểu khu 182A, 191 thuộc lâm phần  của Ban quản lý rừng phòng hộ Hàm Thuận - Đa Mi.
Trường hợp lấn chiếm đất đai, trong đó có nhiều trường hợp lấn chiếm đất nằm trong quy hoạch 3 loại rừng cũng tác động không nhỏ đến việc hạn chế khả năng phát triển rừng. Chỉ riêng địa bàn xã Đông Giang, hiện đã có hàng chục vụ lấn chiếm đất nằm trong và ngoài quy hoạch 3 loại rừng.
Khổ nỗi là hầu hết các trường hợp lấn chiếm sai quy định này đều chỉ xử phạt vi phạm hành chính và thu hồi lại đất. Do nhẹ tay (theo luật) nên có nhiều trường hợp người dân vi phạm không chấp hành. Có nơi còn dùng vũ lực, hung khí để chống đối những người thi hành công vụ nên không thực hiện được (vụ 18 trường hợp vi phạm lấn chiếm đất dự án của Công ty TNHH Đông Giang quản lý).
Rừng là nơi gìn giữ cho lá phổi và cuộc sống của con người. Ai dám nói tình trạng hiện nay nhiều địa bàn không có nước sinh hoạt, nhiều diện tích đất nông nghiệp không được phép sản xuất vì thiếu nước là do trời mà không có bàn tay con người tác động? Nếu luật pháp tăng thêm hình phạt nặng đối với những kẻ phá rừng vì tội tàn phá tài nguyên và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân, chắc nạn phá rừng sẽ giảm nhiều. (Báo Bình Thuận 22/6) đầu trang(
Liên quan tới việc con trai Chủ tịch thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động – Bắc Giang) đang là cán bộ Tư pháp hủy hoại hơn 26.000m2 rừng tự nhiên nhưng cho đến thời điểm này đã hơn 2 năm nhưng không bị các cơ quan tố tụng khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Dư luận có quyền đặt ra câu hỏi “vậy chính quyền địa phương đã ở đâu và làm gì trong suốt thời gian này?”.
Để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức liên quan tới vụ việc này, chúng tôi đã có buổi trao đổi với luật sư Lê Ngọc Hoàng – Trưởng Văn phòng luật sư Long Tâm (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội).
Luật sư Hoàng cho biết, với tư cách là một Luật sư, tôi cho rằng trong vụ việc này cần phải xem xét làm rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương trong công tác quản lý Nhà nước dẫn đến hậu quả hàng chục nghìn m2 rừng tự nhiên bị tàn phá. Bởi công tác quản lý Nhà nước là rất quan trọng, nếu như tội phạm phá rừng đã nguy hiểm, thì hành vi nơi lỏng, thiếu trách nhiệm của những người thực hiện công tác quản lý còn nguy hiểm hơn gấp nhiều lần vì chính những hành động đó sẽ để lại hậu quả rất nặng nề.
Bởi nếu chính quyền địa phương thực hiện không tốt chức năng của mình thì người dân hoàn toàn có quyền nghi ngờ và có thể hiểu chính cơ quan chức năng, cơ quan quản lý Nhà nước địa phương đang “tiếp tay” cho tội phạm phá rừng.
Do vậy, theo tôi trước hàng loạt vụ việc phá rừng đã và đang được tiến hành, điều tra xác minh ở Sơn Động, Bắc Giang thì các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng thuộc tỉnh Bắc Giang, kể cả Chính phủ cũng đồng thời phải tiến hành điều tra, xác định trách nhiệm của chính quyền địa phương tại đây, trách nhiệm đến đâu phải xử lý ngay đến đó.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng tỉnh Bắc Giang cũng cần phải xem xét trách nhiệm đối với Chủ tịch UBND huyện Sơn Động, Bí thư huyện Sơn Động và đặc biệt là Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Động khi để xảy ra tình trạng phá rừng trái phép kéo dài nhưng không có biện pháp xử lý triệt để nhằm bảo đảm tính thượng tôn pháp luật, sự bình đẳng trước pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức và công dân, sai phạm đến đâu cần ngăn chặn và xử lý kịp thời đến đó.
Ngoài ra, theo Điều 2 Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ngày 8/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng cũng quy định rõ Trách nhiệm của của Ủy ban nhân dân các cấp, đặc biêt thông tư cũng quy định rõ: “Địa phương nào để xảy ra tình trạng phá rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng, giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp trái quy định pháp luật, cháy rừng nghiêm trọng, kéo dài mà trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình không có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để, thì lãnh đạo địa phương đó phải kiểm điểm và bị xử lý trách nhiệm quản lý theo quy định của pháp luật”.
Đối với hành vi phá rừng của ông Phạm Văn Cương (cán bộ tư pháp) là con trai của ông Phạm Văn Thắng - Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Sơn mà cơ quan chức năng, cơ quan điều tra công an huyện Sơn Động đang tiến hành xác minh, điều tra làm rõ. Trường hợp này tôi cho rằng cần thiết phải khởi tố vụ án để có căn cứ mở rộng điều tra, xác minh rõ hành vi của ông Phạm Văn Thắng và những người có liên quan.
Một vấn đề pháp lý nữa cũng cần được xem xét tới là hành vi của PCT xã Tuấn Mậu khi đã cấu kết với cha con ông Thắng để làm giả văn bản gọi là “ủy quyền” cho con trai Phạm Văn Cương được toàn quyền quản lý, sử dụng hơn 26.000 m2 rừng đã bị phá có đúng và hợp pháp về cả hình thức lẫn nội dung không?
Nếu việc xác lập “ủy quyền” là bất hợp pháp thì đây là hành vi cố ý làm giả hồ sơ, tài liệu của cơ quan tổ chức để thoái thác trách nhiệm. Do vậy cần phải hủy giấy ủy quyền trái phép đó, đồng thời ông Phạm Văn Thắng phải có trách nhiệm trong việc hủy hoại rừng của người con Phạm Văn Cương bởi nếu văn bản ủy quyền không đúng, không hợp pháp thì đương nhiên ông Thắng phải chịu trách nhiệm bởi khi đó ông này vẫn là chủ quản lý, sử dụng diện tích rừng.
Với tất cả các vấn đề nêu trên, theo tôi đều phải xem xét làm rõ và có chế tài nghiêm minh thì mới “hy vọng” đủ sức răn đe được những đối tượng khác và đẩy lùi vấn nạn phá rừng ở Sơn Động. Bởi nếu pháp luật không nghiêm thì người dân sẽ mất niềm tin vào chính quyền nơi đây khi họ thấy việc phá rừng của con quan thị trấn đang có dấu hiệu chìm xuồng trong khi những vụ việc tương tự đối với người dân, kể cả ở các địa phương khác đều phải đưa ra ánh sáng pháp luật xử lý nghiêm.
Liên quan tới việc phá rừng tự nhiên trái phép cũng tại địa phương này, ngày 16/7/2015, TAND huyện Sơn Động đã đưa vụ án phá rừng tự nhiên trái pháp luật tại xã An Lạc ra xét xử. Hai bị cáo trong vụ án này là Châu Văn Định (SN 1971), Châu Văn Chung (SN 1974) hộ khẩu thường trú tại thôn Biểng, xã An Lạc, huyện Sơn Động bị truy tố với tội danh hủy hoại rừng theo Điều 189 Bộ Luật hình sự.
Nguyên nhân là bởi vào khoảng tháng 3/2014, với lý do thiếu đất canh tác, các bị cáo đã tự ý chặt phá 4 ha rừng tự nhiên đã được Nhà nước giao để bảo vệ. Sau khi phát hiện vụ việc, Hạt Kiểm lâm Sơn Động đã hoàn thiện hồ sơ, chuyển Cơ quan CSĐT huyện Sơn Động đề nghị xử lý.
TAND huyện Sơn Động đã tuyên phạt Châu Văn Chung 3 năm 3 tháng tù giam và 5 triệu đồng; Châu Văn Định 3 năm tù cho hưởng án treo và 5 triệu đồng. Cũng với tội danh phá rừng tự nhiên trái pháp luật tại xã An Lạc ngày 13 - 5 - 2015, TAND huyện Sơn Động đã xử phạt Lê Văn Vinh (SN 1981) thường trú tại thôn Đồng Bây xã An Lạc huyện Sơn Động 3 năm tù giam. (Tài Nguyên Và Môi Trường 22/6) đầu trang(
Qua con đường mòn lồi lõm tại bản Kẻ Tắt, xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông, hàng trăm cây gỗ quý đang được “lâm tặc” ngày đêm vận chuyển ra khỏi rừng một cách công khai. Mặc dù Ban quản lý rừng huyện Con Cuông chỉ cách đó chừng 4 km, thế nhưng, cán bộ nơi đây vẫn chưa nắm được tình hình?
Một ngày đầu tháng 6/2016, chúng tôi có mặt tại bản Kẻ Tắt sau khi vượt qua những con đường lổm chổm đất đá trong thời tiết khắc nghiệt nơi miền Tây xứ Nghệ. Phải mất vài giờ đồng hồ “xâm nhập”, chúng tôi mới tiếp cận được nơi “lâm tặc” phá rừng.
Từ bản Kẻ Tắt, trong vai người buôn gỗ, chúng tôi đi theo con đường mòn của bản Kẻ Tắt dẫn vào rừng sâu. Trên đường đi, chúng tôi gặp một vài người dân đang lượm củi. Họ cho biết: “Để vào được khe Tắt, các anh phải đi theo đường tắt của người dân kéo gỗ, chứ đi theo đường mòn thế này chắc phải mất một ngày may ra mới đến nơi đang khai thác gỗ”.
Theo chỉ dẫn của người dân, chúng tôi men theo con đường nhỏ nằm ngay sau bản Kẻ Tắt. Trước mặt chúng tôi là con đường chỉ dành cho “lâm tặc”, mặt đường bị các khúc gỗ bào mòn thành một vết dài sâu khoảng 1 m; đi sâu vào rừng được một lúc thì bắt đầu xuất hiện những cây gỗ bị chặt hạ tập kết bên đường, trong đó có 2 cây táu vừa bị đốn bịt lại lối đi và những tấm ván đã được xẻ, xếp ngay ngắn chờ người đến kéo về.
Trên đường đi, chúng tôi bắt gặp 1 “lâm tặc” đang dùng trâu kéo gỗ về bản, nhưng người này tỏ ra rất thân thiện. Khi chúng tôi đưa máy ảnh ra để tác nghiệp, biết là phóng viên, người này mới phân trần: “Mấy anh thông cảm, nhà em nghèo nên vào rừng kiếm ít gỗ về dựng nhà”.
Tiếp tục cuộc hành trình “xâm nhập” vào nơi các đối tượng khai thác gỗ, đi được khoảng gần 1 giờ, chúng tôi nghe tiếng máy cưa inh ỏi của “lâm tặc” đang xẻ gỗ rừng. Đi theo thứ tiếng đó, chúng tôi phát hiện nơi các đối tượng khai thác gỗ lậu. Tại đây, có hàng chục cây kích thước lớn đã bị khai thác, nhiều cây có đường kính gần 1 m đã bị đốn hạ, gỗ sau khi được xẻ xếp gọn vào một góc.
Khi phát hiện người lạ, các “lâm tặc” dừng tay và í ới gọi, thông báo cho nhau biết và lập tức rút vào rừng sâu, để lại những tấm gỗ đang xẻ dở, nằm chỏng chơ bên mép suối… Bên cạnh đó là những lán trại tạm bợ được dựng lên để phục vụ việc ăn ở của “lâm tặc,” bên trong bát đũa, chăn màn, thuốc lá… vứt ngổn ngang.
Sau khi ghi nhận thực tế trên, chúng tôi đã có buổi làm việc với ông Thái Minh Hiệp, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Con Cuông. Ông Hiệp cho biết: “Tình trạng khai thác gỗ trên địa bàn xã Thạch Ngàn đã diễn ra nhiều năm nay. Các đối tượng khai thác gỗ hầu hết là người dân địa phương, mục đích là xây dựng nhà ở”.
Ông Hiệp cho biết thêm: “Đơn vị cũng đã có kế hoạch giao nhiệm vụ bảo vệ rừng cho trạm kiểm lâm đóng trên địa bàn xã Thạch Ngàn. Từ đầu năm 2016, qua nhiều lần tuần tra, chúng tôi đã xử lý 2 trường hợp vận chuyển gỗ lậu với tổng khối lượng hơn 3 m3. Về việc “lâm tặc” phá rừng Kẻ Tắt, chúng tôi chưa nắm được vì địa bàn xã Thạch Ngàn tương đối rộng, hơn nữa có thể địa điểm các đối tượng khai thác thuộc khu vực rừng phòng hộ. Chúng tôi sẽ trực tiếp đi kiểm tra”.
Dư luận cho rằng, với thực trạng khai thác gỗ trái phép đang diễn ra tràn lan như chúng tôi đã chứng kiến nhưng cơ quan chức năng chỉ phát hiện, xử lý 2 vụ việc với khối lượng gỗ chỉ vài m3 là quá ít. Sau gần 3 ngày “bám trụ” tại đất rừng khe Tắt, điều chúng tôi ghi nhận được là việc khai thác, vận chuyển gỗ trái phép tại bản Kẻ Tắt đã diễn ra trong một thời gian khá dài.
Điều ngạc nhiên hơn là trong thời gian đó, không thấy bóng dáng cán bộ chức năng nào đi tuần tra bảo vệ rừng. Trong khi đó, Ban quản lý rừng phòng hộ và kiểm lâm nằm cách bản Kẻ Tắt chưa đầy 4 km.
Trước thực trạng trên, đề nghị các lực lượng chức năng tỉnh Nghệ An cần nhanh chóng vào cuộc kiểm tra, xử lý triệt để; đồng thời làm rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý rừng nơi đây, nhằm tránh gây thất thoát nguồn tài nguyên rừng và những hệ lụy về sau. (Công An Nghệ An 22/6) đầu trang(
Dù xác định nguyên nhân chính dẫn tới việc phá rừng là do một lượng lớn người dân di cư tự do “tràn” tới địa bàn huyện Mường Nhé (Điện Biên), nhưng lãnh đạo tỉnh này thừa nhận chưa có cách để ngăn cho “máu” của rừng không tiếp tục chảy.
Theo lãnh đạo huyện này, khi mới chia tách vào năm 2002 huyện có khoảng 25 ngàn dân nhưng đến thời điểm năm 2012, dân số huyện đã tăng lên 61,8 ngàn dân. Sau khi cắt chuyển một phần diện tích, dân số theo nghị quyết của Chính phủ, tính đến tháng 6/2016, dân số trên địa bàn huyện vẫn còn khoảng 36,8 ngàn người. “Dân số Mường Nhé tăng lên là tăng cơ học và chủ yếu là do dân di cư từ nơi khác đến” - Bí thư huyện ủy Mường Nhé Nguyễn Quang Sáng khẳng định.
Trước “làn sóng” di cư ồ ạt về Mường Nhé, vào năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Đề án sắp xếp, ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn huyện này (gọi tắt là Đề án 79).
Tìm hiểu của PLVN cho thấy, trong 4 năm qua đã có 1.100 tỷ đồng đã được Nhà nước giải ngân để thực hiện đề án trên. Nhưng đến thời điểm hiện tại cũng mới chỉ xây dựng, phê duyệt được 24 phương án bố trí dân cư, vẫn còn 7 phương án chưa được phê duyệt do đang chờ điều chỉnh đề án.
“Chúng tôi đã thực hiện di chuyển dân đến nơi ở mới theo quy hoạch. Hiện mới di chuyển và bố trí, sắp xếp ổn định cho 533 hộ/1.079 hộ. UBND huyện cũng đang thực hiện việc chia đất ở (từ 400-600m2/hộ) cho 463 hộ, đã chia đất sản xuất cho 246 hộ và đang tiếp tục thực hiện công tác bồi thường, giải phóng  mặt bằng để chia đất cho số hộ còn lại” - ông Lù Văn Thanh, Chủ tịch UBND huyện Mường Nhé nói.
Tính đến nay, trong 29 điểm bản thành lập mới theo Đề án 79, UBND huyện Mường Nhé cũng đã bắt đầu thực hiện hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ làm nhà, hỗ trợ gạo, dụng cụ sản xuất cho các hộ dân.
Trò chuyện với PLVN, ông Vảng A Vàng nói từ Hà Giang, qua Tuyên Quang, Yên Bái và giờ, ông chọn nơi để cư trú là bản Pá Lùng 2, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé. Ở đây được 4 năm, nhưng việc sản xuất gặp khá nhiều khó khăn, cuộc sống hàng ngày chật vật và vẫn đang trông chờ vào những hỗ trợ từ cán bộ quản lý khu vực. “Năm 2016, tha hồ ăn nhưng mà năm 2017 chưa biết thế nào, không biết Nhà nước có cho gì để ăn không. Tôi đã đăng ký cán bộ đi vào khu ở tập trung mà mãi không thấy được đi” - ông Vàng băn khoăn.
Đây chỉ là một trong số hàng ngàn người dân di cư tự do đang có mặt bất hợp pháp ở Mường Nhé (có mặt sau thời điểm thực hiện Đề án 79) mà chính quyền địa phương chưa biết xử lý ra sao. Trong khi theo UBND huyện Mường Nhé, thời gian từ sau 30/4/2011 đến thời điểm hiện nay, dân di cư tiếp tục đổ về địa bàn huyện. Theo thống kê, đã có 395 hộ với 2.021 dân di cư mới ở các địa phương khác di chuyển về đây để mưu sinh.
Qua rà soát số dân này hầu hết đều thiếu đất ở, đất sản xuất, không thuộc quy hoạch bố trí, sắp xếp theo Đề án 79 đã dẫn đến tình trạng phá rừng làm nương rẫy. Theo UBND tỉnh Điện Biên, nguyên nhân chính để xảy ra phá rừng là do một số lượng lớn người dân di cư tự do từ các địa phương khác đến địa bàn phá rừng để lấy đất trồng cây lượng thực, lấy gỗ để làm nhà ở với thủ đoạn rất tinh vi, có tổ chức.
Khi bị cơ quan chức năng phát hiện thì lẩn trốn vào rừng, dùng số đông để áp đảo, gây sức ép, cản trở. Thậm chí, không ít trường hợp khi bị lập biên bản vi phạm đã khai báo bằng tên, địa chỉ giả dẫn đến việc xác minh thông tin để lập hồ sơ xử lý vi phạm gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình dân di cư tự do vào địa bàn huyện Mường Nhé vẫn diễn biến phức tạp, UBND huyện này đã nỗ lực phối hợp với các lực lượng trên địa bàn vận động bà con quay về nơi ở cũ nhưng mọi chuyện lại không hề đơn giản.
“Bà con khi bỏ chỗ cũ để đến đây sinh sống đa phần đã bán hết nhà cửa ruộng nương nơi ở cũ nên khi chúng tôi vận động, thậm chí đưa về tận nơi, bàn giao lại cho chính quyền ở đó nhưng chỉ ít hôm lại thấy xuất hiện trở lại ở Mường Nhé” - Chủ tịch Thanh phàn nàn.
Có thể nói, “làn sóng” di dân tự do đã, đang nằm ngoài tầm kiểm soát và giải quyết của huyện Mường Nhé, thậm chí của tỉnh Điện Biên. Việc di dân tự do diễn biến phức tạp và được địa phương báo cáo lên trung ương.
Theo ông Lò Văn Tiến - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, thì tỉnh này sẽ kiên quyết trao trả 373 hộ với hơn 2.000 nhân khẩu dân di cư tự do đến địa bàn huyện Mường Nhé sau thời điểm 30/4/2011 về địa bàn xuất cư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bởi số dân này nằm ngoài khả năng dung nạp và sắp xếp bố trí của địa phương. Tuy nhiên, ông Tiến cũng thừa nhận địa phương đang hết sức lúng túng chưa có giải pháp cụ thể nào để thực hiện chủ trương nói trên.
Mường Nhé là huyện biên giới, miền núi nằm cách thành phố Điện Biên Phủ 200 km về phía Tây Bắc. Đây là huyện nghèo thuộc chương trình 30a của Chính phủ, đời sống của người dân còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn cao chiếm 74,02 %.  (Pháp Luật Việt Nam 23/6) đầu trang(
Những năm qua, nạn khai thác vàng trái phép diễn ra ở nhiều địa phương của tỉnh Kon Tum, nghiêm trọng hơn, “vàng tặc” còn lợi dụng cả việc xin dự án thủy điện để... khai thác vàng sa khoáng.
Tình trạng trên không chỉ xâm chiếm đất rừng, đất rẫy và tác động xấu đến môi trường, song chính quyền địa phương lại chậm trễ, dây dưa trong việc xử lý.
Cơn mưa rào đầu mùa khiến con đường từ xã Đắc Kan (H. Ngọc Hồi, Kon Tum) lên khu vực rừng thông ba lá ở khu vực đồi Sạc Ly trơn trượt, ngập đầy bùn đất. Tuyến đường ranh cản lửa ngoằn ngoèo giữa rừng thông trở thành độc đạo để đến những “mỏ vàng” mà bấy lâu nay “vàng tặc” vẫn hay phao tin trúng đậm.
Chỉ đi chừng hơn 200m, những đống đất, đá bị đào xới chất cao giữa rừng thông đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Người dẫn đường nhìn quanh rồi nói: “Mấy hôm nay “động” (bị lực lượng chức năng kiểm tra) nên “vàng tặc” lánh đi rồi, chứ hầm đang làm dở vì nghe bảo gặp “mỏ” ở dưới đó”.
Chỉ một khoảnh đồi nhỏ nhưng xuất hiện chi chít những hố, hầm mà “vàng tặc” đào xới và những hố nhỏ như đào dế mà những đối tượng khai thác vàng trái phép đi “tăm” vàng. Những lán trại tạm bợ đã được dọn đi, chỉ còn những tấm bạt chứa nước sinh hoạt vẫn để nguyên bên các hầm vàng.
Ngay cạnh đó, một hố vàng sâu cả 40-50m, nhìn xuống dưới tối mịt, người yếu tim chắc không dám lại gần, bởi chỉ cần 1 cái sẩy chân thì khó bảo toàn tính mạng. Thế nhưng, bất chấp những nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, “vàng tặc” vẫn khoét sâu xuống lòng đất, tìm kiếm những quặng vàng lẫn trong đất, đá. Đếm nhẩm, có đến cả gần chục cái hố mà “vàng tặc” đào xuống sâu hoắm như vậy.
Không chỉ đào hố, “vàng tặc” còn khoét đất tạo nên những hầm vàng như địa đạo bên chân đồi. Phía ngoài một bao cát nhỏ được nối sâu hun hút vào bên trong để làm dụng cụ thông hơi vào hầm vẫn được các “vàng tặc” để lại. Len sâu vào bên trong, vai đã chạm nền trần với lớp đất mềm nhũn, phải dùng đèn pin mới thấy rõ đường đi. Lối đi vòng vèo khắp nơi vì “vàng tặc” cứ lần theo “mạch” vàng mà đào, xới. Đi vào khoảng vài chục mét, không khí như cô đặc lại và nền đất bắt đầu thấm nước chảy róc rách, chúng tôi đành quay trở ra.
Qua tìm hiểu của phóng viên, sau khi khai thác phần đất, đá có quặng vàng, “vàng tặc” sẽ dùng xe máy chở số đất, đá này ra khu vực khác dùng máy móc để đãi vàng… Hàng loạt hầm vàng khác bị đào xới khắp cả quả đồi trong suốt thời gian dài trong sự thờ ơ đến khó hiểu của chính quyền địa phương.
Không chỉ ở khu vực này, những khu vực khác xung quanh đồi Sạc Ly cũng bị “vàng tặc” đào xới không thương tiếc. Những hầm, hố băm nát các cánh rừng thông chục năm tuổi thuộc quản lý của Ban trồng rừng nguyên liệu giấy Ngọc Hồi (thuộc Cty nguyên liệu giấy miền Nam).
Vừa qua, đích thân ông Trần Văn Chí, Chủ tịch UBND H. Ngọc Hồi cùng các cơ quan chức năng của huyện đi kiểm tra cũng phát hiện “vàng tặc” vẫn cắm chốt dựng lán trại ở các khu vực khó đi lại để đào xới.
Lý giải vì sao “vàng tặc” lộng hành trong thời gian dài trong lâm phần được giao, ông Vũ Văn Sơn, Trưởng Ban trồng rừng nguyên liệu giấy Ngọc Hồi cho biết: Việc khai thác vàng trái phép diễn ra trên toàn bộ diện tích rừng trồng của Ban, có nơi giáp ranh giữa 3 huyện Ngọc Hồi, Đắc Tô và Sa Thầy (tỉnh Kon Tum) nhưng tập trung chủ yếu ở Tiểu khu 181 (thuộc xã Đắc Kan, H. Ngọc Hồi). Cách đây 2 năm, các đối tượng vào khai thác vàng trái phép đã xuất hiện, Ban cũng đã nhiều lần có báo cáo lên chính quyền địa phương, cơ quan chức năng, nhưng sau khi truy quét, đẩy đuổi thì đâu lại vào đấy.
Cũng theo ông Sơn, mỗi ngày thường có 30-40 xe máy chở “vàng tặc” đua nhau vào băm nát các cánh rừng thông để đào xới tìm vàng. Lúc cao điểm, lên tới cả 100 xe máy chở người cùng dụng cụ vào đây giành bãi vàng. Trong khi đó, “vàng tặc” còn quay sang đe dọa cả cán bộ, nhân viên của Ban khi biết Ban báo cáo vấn đề khai thác vàng trái phép ở đây lên cơ quan chức năng.
Trong chuyến kiểm tra thực tế tại bãi vàng, ông Trần Văn Chí đã truy vấn rất nhiều các cơ quan chức năng về việc để “vàng tặc” lộng hành ở khu vực này. Bởi việc để xảy ra tình trạng khai thác vàng trái phép diễn ra ồ ạt trong 2 năm trời, thế nhưng chính quyền địa phương cũng như cơ quan chức năng không có một biện pháp nào xử lý dứt điểm.
“Dù từ đầu chúng tôi đã có giải pháp nhưng những giải pháp này chưa triệt để và cũng không căn cơ. Để xảy ra tình trạng khai thác vàng trái phép này diễn ra trong thời gian dài và cái này là một phần khuyết điểm  trong công tác quản lý của chúng tôi”, ông Chí thừa nhận.
Cũng trong chuyến kiểm tra này, ông Chí đã chỉ đạo các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương triển khai các biện pháp như: tiến hành lấp các hầm, hố vàng, tăng cường tuần tra kiểm soát, đẩy đuổi các đối tượng “vàng tặc” ra khỏi địa bàn. “Chúng tôi cam kết từ giờ trở đi sẽ không còn các đối tượng khai thác vàng trái phép ở đây nữa”, ông Chí cho biết thêm.
Ở một diễn biến khác, vừa qua UBND tỉnh Kon Tum đã tiến hành thu hồi dự án thủy điện Đắc Brot do Cty CP Phúc Kim Tân (Kon Tum) làm chủ đầu tư tại xã Đắc Nhoong (H. Đắc Glei, Kon Tum). Dự án này dù công suất chỉ có 2MW nhưng được UBND tỉnh Kon Tum cấp phép vào năm 2010, dự kiến đến năm 2012 sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.
Thế nhưng, 6 năm qua, dự án thủy điện chỉ dậm chân tại chỗ, thay vào đó lợi dụng việc làm dự án này, chủ đầu tư đã “hợp đồng” với người khác để đưa máy móc vào đây khai thác vàng trái phép.
Trong năm 2015 và 2016, UBND H. Đắc Glei đã có đến 5 công văn đề nghị tỉnh Kon Tum thu hồi dự án trên. Thế nhưng, chần chừ mãi, chỉ đến khi thông tin được phản ánh trên báo chí, UBND tỉnh Kon Tum mới “chịu” thu hồi dự án này và đẩy đuổi “vàng tặc” ra khỏi vùng dự án. (Công An TP.Đà Nẵng 22/6) đầu trang(
Trao đổi với NTNN, ông Cao Chí Công – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) cho biết, tất cả các khu vực khác đã thực hiện đóng cửa rừng tự nhiên, chỉ còn mỗi khu vực Tây Nguyên là chưa đóng. Nay đóng cửa rừng ở Tây Nguyên tức là đóng cửa rừng cả nước.
Ông cho biết, việc đóng cửa rừng, ngừng khai thác gỗ rừng tự nhiên đã được thực hiện từ năm 2005, lúc đó toàn quốc có hơn 200 lâm trường, công ty lâm nghiệp khai thác. Năm 2005, nhiều địa phương đã chủ động dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên.
Năm 2010, Bộ NNPTNT có đề xuất Chính phủ giảm dần số lượng khai thác rừng tự nhiên, đến ngày 14.12.2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2242 về tăng cường quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên, tạm dừng gần như toàn bộ việc khai thác gỗ rừng tự nhiên trong phạm vi toàn quốc, trừ 3 đơn vị là Chi nhánh Lâm trường Trường Sơn (Quảng Bình), Công ty Lâm nghiệp Đăk Tô (Kon Tum)  và Công ty Đại Thành (Đăk Nông) được xếp vào doanh nghiệp 100% vốn của Nhà nước thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, được kinh doanh rừng sản xuất.
Cả 3 công ty này đều có phương án quản lý rừng tự nhiên được duyệt, có chứng chỉ quốc tế FFC, nên họ được khai thác gỗ rừng tự nhiên với tổng số lượng 18.500m3/năm.
Tuy nhiên đến nay, xuất phát từ tình hình thực tế, Bộ NNPTNT đã đề xuất, đối với địa bàn Tây Nguyên là sẽ đóng cửa rừng, ngừng khai thác gỗ rừng tự nhiên nhằm mục đích thực hiện các biện pháp lâm sinh để nâng chất lượng rừng tự nhiên, 5-10 năm nữa mới tính đến khai thác. Hiện tại chúng ta khai thác rừng sản xuất hoặc nhập khẩu gỗ để chế biến, sử dụng.
Một trong những lý do của việc ngừng triệt để khai thác rừng tự nhiên là tránh được tình trạng các xưởng chế biến lợi dụng việc được khai thác rừng tự nhiên để làm ăn gian dối, lạm dụng để khai thác rừng trái phép. Quyết định đóng cửa rừng sẽ giúp giải quyết được nạn chặt phá rừng trái phép, tràn lan, đồng thời giúp cho cơ quan quản lý có thể kiểm soát chặt chẽ tình trạng này, nếu bây giờ trong xưởng có gỗ rừng tự nhiên, chắc chắn xưởng đó bị vi phạm.
Kế hoạch đóng cửa rừng tự nhiên đã có ở Quyết định 2242, trên địa bàn Tây Nguyên giờ chỉ có 2 đơn vị khai thác đó là Công ty Lâm nghiệp Đăk Tô và Công ty Đại Thành, tuy nhiên thực tế Công ty Đại Thành đã ngừng khai thác từ lâu rồi.
“Chúng tôi sẽ yêu cầu các đơn vị ở địa phương đi kiểm tra, đánh giá xem máy móc thiết bị, người lao động trong lĩnh vực khai thác chế biến dư thừa thế nào, địa phương sẽ sắp xếp công việc cho họ, nếu thấy khó khăn thì báo cáo Bộ NNPTNT để tìm hướng giải quyết. Chúng tôi sẽ thành lập đoàn liên ngành gồm Bộ Tài chính, NNPTNT, Kế hoạch- Đầu tư, Tài nguyên- Môi trường đi đánh giá cả việc tác động môi trường, cả việc sắp xếp lại các công ty lâm nghiệp, đến tháng 8 sẽ có đánh giá kết quả thực hiện.”, ông nói.
Năm 2014, có 56 công ty lâm nghiệp của Tây Nguyên có khai thác gỗ rừng tự nhiên. Tuy nhiên, thực tế toàn bộ các công ty này đã dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên. Bây giờ nếu có ảnh hưởng thì chỉ ảnh hưởng đến Công ty Lâm nghiệp Đăk Tô và Công ty Lâm nghiệp Đại Thành, đó là việc xử lý hệ thống cơ sở máy móc thiết bị, lao động của 2 công ty này như thế nào, quan điểm là nếu các công ty đủ năng lực hoạt động thì sẽ phải sắp xếp lại cho hiệu quả.
Còn vấn đề sắp xếp giải quyết lao động làm việc trong những công ty này, trong Đề án 118 đã có phương án giải quyết lao động dôi dư. Bộ LĐTBXH chủ trì vấn đề này, họ đã có hướng dẫn cụ thể. (Dân Việt 23/6) đầu trang(
Trong cuộc làm việc với các tỉnh Tây Nguyên mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo đóng cửa rừng. Điều này làm người dân cảm kích trong ngậm ngùi.
Cảm kích bởi còn hy vọng cứu những mảnh rừng ít ỏi còn lại. Ngậm ngùi bởi quá muộn màng trước những cánh rừng bạt ngàn đã bị tận diệt trong bao năm qua.
Rừng đã mất. Câu chuyện tưởng chừng xưa cũ nhưng hằng ngày, hằng giờ vẫn luôn được các dự án thủy điện nhắc đi nhắc lại. Những dãy đồi trọc cũng không quên minh chứng bao cỏ cây đã mất và chẳng thể tìm lại được bao giờ. Nó như vết thương bị những kẻ nhẫn tâm đào xới cho lở lói, xốn xang. Đau lòng hơn, câu chuyện trên diễn ra trước mắt, từng ngày với bao nhiêu cơ quan chức năng, lực lượng bảo vệ rừng, chính quyền địa phương... nhưng chẳng có cách gì dừng lại.
Những người có trách nhiệm luôn đổ thừa rừng mất là do người dân di cư. Nhưng bất cứ ai sống gần rừng đều hiểu chẳng có người dân nào có thể phá rừng mà không bị phạt. Lâm tặc là ai? Chỉ có những người giả vờ ngây thơ mới cho rằng đó là người dân thấp cổ bé họng vào rừng kiếm sống.
Lâm tặc bây giờ là những ông chủ lắm tiền, nhiều của luôn nhăm nhe lấy rừng xây thủy điện hoành tráng; là những cán bộ có trong tay hàng trăm hécta trang trại mọc lên giữa rừng; là những doanh nghiệp trồng cây công nghiệp trá hình trên đất rừng màu mỡ; là những xưởng cưa ngày đêm xẻ gỗ của chính những người khoác áo bảo vệ rừng... Đó cũng là lý do giải thích tại sao số liệu rừng trong báo cáo từ những địa phương ở miền Trung, Tây Nguyên luôn xa rời thực tế, lấp liếm cho những vùng đất bị tàn phá nặng nề.
Trong sách Thánh Thư cũng như các câu chuyện cổ tích, thiên đường là nơi cây trái đâm chồi nảy lộc, hoa cỏ khoe sắc nở hoa, thú rừng vui đùa bên suối. Hình ảnh đó không xa lạ với chúng ta mà luôn hiện hữu trong rừng núi bạt ngàn ở thời quá vãng. Tiếc thay, thiên đường đó đã bị tận diệt bởi những kẻ ích kỷ bất chấp lợi ích của cộng đồng để tạo dựng thiên đường của riêng mình là những đồng tiền nhẫn tâm, biệt thự vô cảm và sự huênh hoang dối trá. Rừng đối với họ là tiền, không hơn không kém.
Trong những đoạn phim khoa học, chúng ta vẫn luôn nhớ cô bé Tippi Degré, con của đôi vợ chồng nhà khoa học người Pháp. Từ nhỏ cô đã sống giữa rừng châu Phi, giữa đàn voi, ngựa vằn và bao con thú hiền hòa khác. Khi lớn lên, cô phải trở về Pháp để học. Ở giữa những khối bê-tông của đô thị mà chân trời luôn bị chắn bởi những tòa nhà cao ốc, cô sầu muộn hoảng hốt và lạc lõng từng ngày.
Hình ảnh ấy nào có xa lạ! Đó chính là tâm trạng của con cái chúng ta khi được sinh ra và tách rời khỏi thiên nhiên trù phú, bao dung. Chúng thích thú dưới những bóng cây nhưng e dè hoảng sợ khi chạm vào nó. Thú vật không còn được nhìn như những loài cộng sinh mà thay vào đó là ánh mắt cảnh giác đến tội nghiệp, trong giấc mơ không có nổi một ngọn gió hiền hòa.
Mọi việc chưa đến nỗi quá muộn để không còn có thể cứu vãn nếu ngay từ bây giờ mạnh tay trừng trị những kẻ phá rừng. (Người Lao Động 22/6) đầu trang(
Nói đến Tây Nguyên là nói đến đất đỏ bazan, là nói đến màu xanh ngút ngàn của cây rừng, của suối reo, thác chảy.
Vẻ đẹp kiêu sa của núi rừng Tây Nguyên không phải quốc gia nào cũng có được. Chúng ta giữ gìn, khai thác ra sao để rừng mãi xanh, để cà phê, cao su, hồ tiêu… những sản vật quý từ rừng núi Tây Nguyên đem lại sự giàu có xứng với những gì thiên nhiên ban tặng.
Không ai phủ nhận kinh tế bạc tiền đem lại từ đất Tây Nguyên bao la với tỷ USD nọ, tỷ USD kia từ cà phê, hồ tiêu và cao su hàng năm. Nhưng rõ ràng những con số bạc tiền về kinh tế ấy khai thác như người ăn vội, cũng đang gây ra những bất cập không hề nhỏ cho Tây Nguyên.
Đã đến lúc phải giật mình về khai thác vùng đất này quá mức, khai thác thiếu quy hoạch, báo động những hậu quả khôn lường. Còn không những cánh rừng bát ngát màu xanh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum? Còn không những suối reo, thác đổ, những dòng sông Sê San, Sa Thầy, Đak Bla, Krong AnNa, sông Ba… nước chảy dọc các vùng đất Tây Nguyên len lỏi tưới mát cho màu xanh của rừng, của cà phê, hồ tiêu, cao su? Một Tây Nguyên đang trong cơn khát. Nhìn những miệt vườn cà phê, hồ tiêu khô héo, lòng người Tây Nguyên ai cũng như quặn thắt.
Thiếu nước cho trồng trọt, thiếu cả nước cho sinh hoạt con người! Chưa bao giờ đất Tây Nguyên, người Tây Nguyên phải đối mặt với cái hạn khát khô cháy đất thế này. Rõ ràng là hệ lụy do El Nino đến quá sớm không lường trước được chăng? Trời đất sinh “trái tính trái nết” biết làm sao? Nhưng Tây Nguyên hạn nặng cần nhìn kỹ lại từ con người.
Nhìn xem: Bây giờ đất rừng trơ cả ra. Người ta tàn phá rừng không thương tiếc. Thôi thì đủ cách phá rừng, đốt rừng. Thôi thì đủ kiểu sang nhượng trao tay đất rừng, bán mua loạn xạ. Thôi thì quản lý rừng kiểu “phát canh thu tô” cũng chả ít. Những cánh rừng già, rừng ruột, những cánh rừng đặc chủng mà bọn lâm tặc phá bất chấp “qua mặt” cả bảo vệ rừng nghe có lạ không?
Người ta biện minh cho lực lượng bảo vệ rừng quá mỏng. Người ta đổ lỗi cho phương tiện, thu nhập của kiểm lâm không đủ sống. Người ta dồn cái lỗi không quản xuể do tình trạng di dân quá đông, nên chả cản được dân phá rừng, đốt rẫy lấy đất tra bắp, trồng mì.
Nhưng có không chuyện kiểm lâm bảo vệ rừng “ngoắc tay” với lâm tặc phá rừng? Nói gì ở rừng phòng hộ Đức Cơ, Gia Lai, những thân gỗ bị lâm tặc ngả đốn loạn xa kia? Nói gì khi nhiều khu rừng giao cho lâm trường giữ, nghĩa là rừng có chủ, mà vẫn không quản nổi, vẫn bị mất rừng? Hơn 4 năm mà cả Tây Nguyên mất tới 180.000ha rừng, nghe có giật mình và xót xa không? Bộ NN - PTNT nói gì trước thực trạng quản lý đất rừng ở Tây Nguyên từ 3,3 triệu hecta giờ chỉ còn 2,5 triệu hecta?
Rừng biến hóa, “phù phép” kiểu gì mà teo tóp đi nhanh thế? Lại dồn tội cho rừng nghèo kiệt nên chuyển sang trồng cao su, cây công nghiệp, cây ăn quả? Rừng có thật nghèo không, hay chỉ là kiếm cớ để “làm xiếc” giết dần rừng Tây Nguyên? Bao cây gỗ to, gỗ quý nằm khuất nẻo trong rừng sâu vẫn bị đốn hạ? Lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên nói gì về tình trạng phá rừng, lấn chiếm rừng tới hơn 123.000ha? Có hay không chuyện “nồi canh chung không ai chịu bỏ muối”? Cứ đà phá rừng đêm, phá rừng ngày thế này, thì rừng Tây Nguyên mai này còn đâu nữa?
Giữ lấy rừng Tây Nguyên là mệnh lệnh, là tiếng kêu khẩn thiết. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã quyết định đóng tất cả cửa rừng tự nhiên, nghiêm cấm phá rừng, chặn đứng cả các cơ sở buôn bán gỗ tự nhiên quanh rừng. Nhưng cần hơn thế là dừng ngay cả cấp phép các dự án thủy điện, rà soát lại các dự án đã cấp trước đó. Đây là một quyết định dứt khoát và kiên quyết để cứu rừng Tây Nguyên.
Đó cũng là thái độ quyết liệt của Chính phủ với việc các địa phương cứ lấy cớ rừng nghèo kiệt xin phá rừng, chuyển đổi sang làm cà phê, hồ tiêu, cao su nhăm nhăm chỉ nhìn cái lợi trước mắt, mà thiếu chiến lược dài xa.
Từ một Tây Nguyên xanh, một Tây Nguyên bát ngát, giờ đang là một Tây Nguyên quằn mình trong cơn khát. Đất khát, người khát, hỏi có gì xót xa hơn!
Vì một Tây Nguyên xanh! Không gì khác mỗi con người chúng ta hãy hành xử khác đi để cứu lấy rừng, giữ lấy rừng, giữ lấy “tiếng suối reo thác đổ”, như khúc nhạc rừng, từng một thời vút lên trong cái bát ngát Tây Nguyên, như những bản tình ca không phải vùng đất nào cũng có.
Tây Nguyên hùng vĩ đẹp mê hồn đang cất tiếng gọi hết thảy con người hãy chung tay giữ lấy màu xanh Tây Nguyên cho tương lai con cháu. (Đại Biểu Nhân Dân 22/6) đầu trang(
Tự cho mình có “quyền sinh quyền sát” trong tay đối với giới buôn gỗ lậu, Đoàn Văn Tùng (SN 1962, tức Tùng "huế", còn có tên gọi khác là Đoàn Văn Dương, ngụ tại số 8 đường Nguyễn Khuyến, TP.Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) thu nạp hàng chục đàn em máu mặt, nhiều tiền án tiền sự nuôi giấc mộng “ông trùm”.
Bất cứ chỗ nào gỗ lậu đi qua "chốt" của Tùng "huế" đều phải chịu sự bảo kê của hắn. Khi các xe gỗ bị cơ quan chức năng kiểm tra, Tùng "huế" sẵn sàng chỉ đạo đàn em tấn công thẳng vào trụ sở kiểm lâm để cướp lại. Hành vi táo tợn của băng nhóm xã hội đen này gây nhức nhối khắp Tây Nguyên. Đặc biệt, Tùng còn nổi tiếng ngang tàng, không kiêng nể ai khi in danh thiếp hình cây búa và tên mình để lại hiện trường sau mỗi vụ cướp gỗ.
Từ cuối năm 1999 đến đầu năm 2000, hoạt động buôn bán gỗ lậu tuy không công khai nhưng trong thế giới ngầm lại vô cùng sôi nổi khắp các huyện lỵ của tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là các huyện Ea Sup, Buôn Đôn (giáp biên giới Campuchia), Lắk, Cư M'gar...
Để ngăn chặn tình trạng phá rừng tràn lan và trái phép, lực lượng kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk đồng loạt ra quân, triển khai nhiều biện pháp trấn áp. Thời gian này, tuy cánh lâm tặc hoạt động kín đáo hơn nhưng chúng ỷ vào việc có đại ca Tùng "huế" bảo kê nên chỉ một thời gian ngắn sau đó, hoạt động vận chuyển gỗ lại diễn ra ngang nhiên, thậm chí có lúc còn công khai rầm rộ.
Tùng "huế" được xem như chỗ dựa để đám lâm tặc “tác oai tác quái” khắp các khu vực khai thác gỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk bởi sự liều lĩnh và coi thường pháp luật.
Tùng thường mặc bộ quần áo rằn ri, đeo kính đen, miệng lúc nào cũng như cười khiến nhiều người đồn rằng, chỉ cần hắn không cười là y như rằng sắp có chuyện xảy ra, thường đó là ám hiệu mà mấy chục đàn em của hắn ai cũng hiểu đồng nghĩa với việc lập tức lao vào đánh nạn nhân thừa sống thiếu chết.
Thông thường, Tùng "huế" cắt cử đám đàn em đi theo các xe chở gỗ lậu để bảo kê cho các xe này chạy qua các trạm kiểm soát. Từ chốt kiểm lâm số 6 (thuộc địa bàn huyện Buôn Đôn) ra đến đường chạy về TP.Buôn Ma Thuột còn hai chốt khác của hạt kiểm lâm đều được các đàn em của Tùng "huế" đón lõng sẵn. Khi bị lực lượng kiểm lâm kiểm tra, hàng chục tên côn đồ mang theo vũ khí nhảy xuống từ xe chở gỗ sẵn sàng “ăn thua”.
Ngày 21/12/2001, khi xe chở gỗ lậu của Đào Văn Hải đi qua chốt số 6 thì tổ công tác kiểm lâm trong trạm nhận được tin báo trên xe có 3m3 gỗ cẩm lai vừa khai thác đang được lâm tặc vận chuyển ra ngoài. Khi tổ công tác yêu cầu Hải cho kiểm tra thì lái xe không những không chấp hành mà gọi điện thoại cho Tùng "huế".
Chỉ hơn mười phút sau, hàng chục xe gắn máy chở vài chục đàn em của Tùng xuất hiện với đủ các loại dao, mác và cả súng tự chế chĩa thẳng vào nhóm ba cán bộ kiểm lâm trạm số 6. Cả ba người không ai dám nhúc nhích vì sợ nguy hiểm đến tính mạng. Sau đó, nhóm đàn em của Tùng dồn ba người vào một nhà công vụ, khóa trái cửa bỏ đi.
Sau phi vụ áp tải gỗ trót lọt, hàng chục đầu lậu gỗ tại Đắk Lắk lần lượt "quy thuận" Tùng "huế" khiến hắn càng vênh váo, tự đắc. Tùng vỗ ngực nói lớn với các đầu lậu: "Có thằng Tùng này, bọn mày cứ chuyển gỗ khỏi rừng thoải mái".
Chưa dừng lại ở việc bảo kê các xe gỗ lậu qua các trạm kiểm soát, nhiều xe gỗ bị bắt và lập biên bản đưa vào trạm chờ xử lý cũng bị Tùng "huế" chỉ đạo đàn em tấn công thẳng vào trạm kiểm lâm để cướp lại.
Điển hình là vụ việc xảy ra ngày 29/1/2002. Lúc này trời còn chưa sáng rõ, các cán bộ thuộc lực lượng kiểm lâm TP.Buôn Ma Thuột đột ngột bị đánh thức bởi hàng loạt tiếng la hét và tiếng hô "chém, giết bọn nó" khắp nơi khiến ai cũng hoảng hồn không hiểu chuyện gì xảy ra.
Trước đó, xe tải chở 3,2m3 cẩm lai BKS 47K-6074 do lâm tặc Hồ Trọng Dũng lái. Khi xe gỗ lậu này chở gỗ từ huyện Ea Sup ra đến phường Ea Tam (thuộc TP.Buôn Ma Thuột) thì bị lực lượng kiểm lâm bắt giữ. Lái xe Dũng không chấp hành việc đánh xe về trạm. Trước khi bỏ đi còn đe dọa nói sẽ có người xử lý nhóm công tác.
Một lúc sau, Tùng "huế" cùng ba đàn em thân tín là Bùi Thanh Vinh (tức Vinh “tồ”, SN 1967); Ngô Quang Thoại (SN 1965, tức Thoại “gà”) và Nguyễn Văn Hùng (tức Hùng “râu”, SN 1967) đến trạm kiểm lâm xin lại xe gỗ vừa bị bắt. Khi lực lượng kiểm lâm kiên quyết từ chối, Tùng "huế" lớn tiếng: "Bọn mày chưa thấy quan tài chưa đổ lệ hả? Chúng mày chưa biết tao là ai phải không? Rồi, chúng mày sẽ biết ngay thôi". Tùng "huế" mở điện thoại di động gọi cho đám đàn em của mình.
Sau tiếng “alô” của đại ca, đám đàn em lập tức đi xe mô tô với kìm, búa, dao, mác kéo đến. Chúng phá cửa và dấu niêm phong xe tải vi phạm, tạo điều kiện để Hải vào điều khiển xe chạy ra ngoài. Cả 5 cán bộ kiểm lâm bị chúng dồn vào một góc, nhốt không cho gọi tiếp viện. Sau đó, nhóm côn đồ lên xe máy rời khỏi hiện trường. Biết thể nào lực lượng kiểm lâm cũng gọi người tới ứng cứu, trong đó có lực lượng công an nên Tùng "huế" cử vài đàn em ở lại, trà trộn vào dân chúng đến xem.
Thượng tá Văn Ngọc Thi (Nguyên Trưởng phòng Cảnh sát Hình sự - PC45, Công an tỉnh Đắk Lắk), nhớ lại: "Ngay sau khi nhận được tin báo, tôi lập tức cử anh em trinh sát xuống nắm tình hình. Qua nhận định ban đầu, xe tải chở gỗ đã bị Tùng "huế" cùng đàn em đánh tháo, lực lượng kiểm lâm bị giam đã được giải cứu. Tùng và đồng bọn rất gian xảo khi cử đàn em ở lại nhằm mục đích dằn mặt những người chứng kiến. Họ nói nhỏ với chúng tôi cho được làm bản tường trình để tránh bị trả thù".
Để thu thập bằng chứng về hành vi phạm tội của Tùng "huế" cùng đồng bọn, Thượng tá Thi cùng hàng chục trinh sát hình sự phải đóng giả là lái buôn gỗ từ ngoài Bắc vào tìm mua với số lượng lớn để tiếp cận.
Bên cạnh đó, các vụ cướp gỗ, bảo kê cũng được lần lượt tìm hiểu bằng cách bí mật tiếp cận các nạn nhân bởi khi đó nhiều người không dám cung cấp thông tin về vụ việc, sợ bị Tùng và đồng bọn trả thù.
Trong số các vụ bảo kê gỗ của Tùng "huế", nổi cộm nhất là vụ Cư Jut (nay thuộc tỉnh Đắk Nông) năm 1999. Hồ sơ vụ việc còn ghi lại như sau. Khoảng trung tuần tháng 4/1999, hạt kiểm lâm Cư Jut phát hiện xe tải BKS 47L-2473 vận chuyển lâm sản lậu gồm nhiều m3 gỗ quý và lâm sản quý hiếm chạy từ hướng Đắk Min qua địa bàn Cư Jut về TP.Buôn Ma Thuột nên ra lệnh truy bắt.
Khi xe tải này chạy qua hạt, dù đã ra lệnh dừng xe nhưng chúng không chấp hành. Hạt kiểm lâm đã lường trước tình huống này nên đã chuẩn bị sẵn phương tiện (xe U oát - PV) để truy đuổi. Tổ công tác gồm 5 đồng chí kiểm lâm do anh Bùi Văn Hương cầm lái đuổi theo.
Đến trạm thu phí Cư Jut thuộc quốc lộ 14, xe chở gỗ lậu tông thẳng vào barie kiểm soát, mở hết tốc độ chạy trốn. Quá trình truy đuổi, xe U oát của lực lượng chức năng bị xe tải liên tục chèn ép, đồng thời bị lực lượng đàn em của Tùng "huế" liên tục cản đường. Chúng tìm mọi cách để xe chở gỗ chạy thoát khỏi địa bàn hạt kiểm lâm Cư Jut khiến lực lượng kiểm lâm địa phương này đành phải quay về.
Sáng hôm sau, khi tổ công tác kiểm lâm đang ngồi ăn sáng trước cơ quan thì bất ngờ Tùng "huế" dẫn theo hàng chục đàn em mặt đằng đằng sát khí xuất hiện. Khi mọi người còn chưa hiểu chuyện gì, Tùng hất hàm hỏi: "Thằng nào là thằng Hương hôm qua dám đuổi theo xe gỗ của tao?". Anh Hương đứng lên nói: "Tôi là Hương đây, xe tải chở gỗ lậu và lâm sản vi phạm nên chúng tôi truy đuổi".
Tùng chỉ chờ có thế để xem ai là tài xế đuổi xe gỗ của hắn liền xông thẳng vào anh Hương đánh đấm túi bụi. Thấy quán có con dao gọt hoa quả, gã vớ lấy đâm anh Hương nhưng không trúng. Sau đó, mọi người can ngăn, đưa anh Hương vào hạt để tránh xảy ra chuyện không hay.
Vụ việc thứ hai xảy ra vào tháng 11/2000. Đây là vụ việc cho thấy sự ngang ngược, táo tợn, thách thức các cơ quan pháp luật của Tùng "huế". Nhận được tin báo có xe chở gỗ lậu số lượng lớn từ huyện Ea Sup qua địa bàn huyện Buôn Đôn, hạt kiểm lâm Buôn Đôn cử tổ công tác do đồng chí Đỗ Minh Kha làm tổ trưởng có biện pháp ngăn chặn.
Khi thấy xe chở gỗ đi đến, tổ công tác lập tức yêu cầu dừng xe kiểm tra. Phát hiện nhiều loại gỗ quý, lực lượng kiểm lâm tiến hành lập biên bản thu giữ. Lúc này, 4 thanh niên trên xe lập tức "nài nỉ" xin được bỏ qua nhưng anh Kha cùng đồng đội kiên quyết từ chối.
Sử dụng tiền mua chuộc không được, lập tức hai trong số bọn chúng rút mã tấu nhảy xuống khống chế tổ công tác để đồng bọn đánh xe tẩu thoát. Do lúc này là 2h sáng, đoạn đường vắng không có khu dân cư xung quanh nên không có ai ứng cứu lực lượng làm nhiệm vụ.
Khi xe tải chở gỗ đi khuất, hai tên có vũ khí cũng chạy vào vườn cafe gần đó trốn thoát. Anh Kha lập tức điện báo về cho hạt kiểm lâm Buôn Ma Thuột chặn bắt nhưng chỉ vài tiếng đồng hồ sau sự việc, Tùng "huế" đã xuất hiện.
Hắn gặp anh Kha nói to: "Xe gỗ hôm qua là của tao. Mấy thằng đàn em nó hiền đấy, rút mã tấu mà chỉ kề cổ chứ phải tao, tao cho dao liếm thử da cổ mấy thằng mày rồi". Nói xong, Tùng "huế" thản nhiên lên xe ra về như thách thức cơ quan chức năng.
Tùng "huế" làm mưa làm gió suốt nhiều năm liền tại Đắk Lắk và các tỉnh lân cận, chủ yếu liên quan đến hoạt động bảo kê gỗ lậu. Tuy nhiên do hoạt động táo tợn, không có người đứng ra tố cáo nên hành vi của bọn chúng không bị các cơ quan chức năng xử lý khiến y càng ngông cuồng.
Thượng tá Thi nhớ lại một vụ việc mà Tùng "huế" ra oai với đám đàn em của hắn đến nỗi các nhà xe chở khách các tuyến qua Buôn Ma Thuột đều nghe lời Tùng răm rắp.
Nhận được tin một ông anh đi xe khách từ Nha Trang về Buôn Ma Thuột bị móc túi lấy một 2,6 triệu đồng. Người này và nhà xe cãi nhau mà không phân định được nguyên nhân do ai nên đã điện cho Tùng "huế" đến giúp.
"Một nhân chứng kể lại cho chúng tôi hay, Tùng đến ban đầu nói chuyện vài ba câu, cười nói bình thường nhưng khi y vừa quay lưng đi, đám đàn em lao thẳng vào lái xe đánh túi bụi khiến tài xế phải nhập viện. Vụ đó, nhà xe phải đền toàn bộ tiền cho hành khách - là ông anh của Tùng bị mất của", Thượng tá Thi kể.
Sau vụ đó, hàng loạt nhà xe chở khách các tuyến khi được Tùng gọi điện nhờ vả, dù không hề muốn vẫn phải tìm cách vận chuyển cho hắn ít thì vài tấc gỗ, khi thì những món đồ gỗ, lâm sản trái phép đến địa chỉ Tùng yêu cầu. Có nhà xe bị lực lượng chức năng thu giữ gỗ, lâm sản không dám nói của Tùng "huế" vì sợ hắn "hỏi thăm" nên đành cắn răng chịu phạt số tiền lớn.
Điều đặc biệt ở Tùng "huế", tuy hắn là giang hồ, thu nạp hàng chục đàn em nhưng rất thích ra oai và ăn diện. Gã in danh thiếp riêng có hình tam giác xanh và lưỡi búa, thậm chí còn in đầy đủ cả số điện thoại và địa chỉ nhà ở của mình để tiện trao đổi, làm ăn với đối tác mà không cần khiêng dè.
Sau này khi bị bắt, Tùng khai nhận, sở dĩ hắn làm danh thiếp vì muốn được oai như các giám đốc nhà nước khi đi làm ăn, đồng thời có danh thiếp để khẳng định tên tuổi của mình.
Hình tam giác xanh, theo cách giải thích của Tùng là biểu tượng cho núi rừng, cho vùng đất đại ngàn Tây Nguyên mà hắn bảo kê. Còn cây búa tượng trưng cho sức mạnh giang hồ của hắn. Các loại gỗ từ rừng ra phải có dấu búa của kiểm lâm mới được mua bán nên Tùng nghĩ rằng, dấu búa trên danh thiếp của hắn cũng có sức mạnh như pháp luật. Tất cả gỗ trên địa bàn Đắk Lắk nếu có "búa" của hắn sẽ được an toàn và hợp pháp.
Sau khi thu thập được rất nhiều bằng chứng về hành vi phạm pháp của Tùng "huế", Thượng tá Văn Ngọc Thi cùng đồng đội tiếp tục truy tìm chiếc xe tải bị Tùng "huế" cùng đồng bọn giải cứu từ trạm kiểm lâm Buôn Đôn.
Sau khi chạy ra khỏi hạt kiểm lâm Buôn Ma Thuột, tài xế xe tải đổi BKS từ 47K-6047 sang 81K-2197 (biển giả) chạy về thôn 2, phường Khánh Xuân, TP.Buôn Ma Thuột. Chúng đổ gỗ lậu vào nhà đồng bọn của Tùng là Ngô Quang Thoại rồi chạy về phường Tự An thì bị các trinh sát hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk bắt giữ.
Ngày 4/2/2002, sau khi đầy đủ chứng cứ vụ việc và hàng loạt các vụ bảo kê gỗ trên địa bàn trong 1 thời gian dài, Thượng tá Thi cùng đồng đội quyết định cất lưới. Lần lượt Tùng "huế", Ngô Quang Thoại bị bắt giữ.
Tiếp đó, lực lượng hình sự bắt giữ Đoàn Văn Lộc (SN 1972, em ruột Tùng); Đoàn Văn Tuấn (SN 1980, con trai Tùng) cùng hàng chục đàn em của Tùng có liên quan. Đáng kể trong số này có Nguyễn Thị Hà (SN 1972, ngụ thôn 13, thị trấn Ea Sup, huyện Ea Sup) vốn là trùm buôn gỗ lậu.
Qua lời khai của Hà, các trinh sát nắm được, Hà cùng 15 đầu lậu gỗ khác tại Đắk Lắk và các địa bàn lân cận phải nộp "phí" bảo kê là 1,5 triệu đồng/m3 gỗ lậu qua băng nhóm xã hội đen của Tùng. Nếu ai không nộp sẽ bị bắt chẹt, dọa nạt hoặc gây khó dễ không thể làm ăn bình thường được.
Liên quan đến băng nhóm Tùng "huế", nhiều cán bộ kiểm lâm bị Tùng mua chuộc để nhắm mắt cho qua nhiều phi vụ gỗ lậu cũng bị lực lượng điều tra làm rõ. Đây được coi là một trong những nguyên nhân khách quan khiến Tùng làm mưa làm gió, vỗ ngực xưng oai suốt một thời gian dài.
Ngay sau khi băng nhóm Tùng "huế" bị xóa sổ, tình hình an ninh trật tự đã được lập lại trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tình trạng vận chuyển gỗ trái phép và nhiều lâm sản quý đã giảm hẳn. Sau đó không lâu, tháng 8/2002, Tùng "huế" cùng nhiều đàn em đã bị đưa ra xét xử công khai trước pháp luật, trả giá về hành vi ngông cuồng, coi thường kỷ cương phép nước của chúng bằng những bản án đích đáng. (Pháp Luật Việt Nam 22/6) đầu trang(
Sáng 22.6, tại UBND tỉnh Quảng Bình, ông Howard Limbert – Trưởng đoàn thám hiểm hang động thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đã công bố kết quả đợt tìm kiếm, thám hiểm hang động trong mùa hè năm 2016 của đoàn.
Ông Howard Limbert cho biết, trong đợt tìm kiếm này, đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh bao gồm các chuyên gia hang động Hoàng gia Anh, các nhà khoa học đến từ ĐHQG Hà Nội và rất nhiều người dân địa phương ở Phong Nha (Bố Trạch) và Tân Hóa (Minh Hóa) làm nhiệm vụ hoa tiêu…
Đây là những khu vực xa xôi, hẻo lánh nên rất khó khăn trong vấn đề thám hiểm nhưng với kinh nghiệm và sử dụng nhiều thiết bị chuyên dụng, đoàn đã thám hiểm, khảo sát và chinh phục thành công 57 hang động nói trên.
Theo ông Howard Limbert, những hang động đoàn thám hiểm phần lớn trước đó chưa có dấu chân người và có một số hang vẫn chưa khảo sát hết chiều dài của hang. Đặc biệt có nhiều nơi không có nước uống, đoàn thám hiểm phải đục cây chuối và lấy nước từ cây dây rừng để uống. “Những kinh nghiệm quý này chúng tôi học được những người dân địa phương, những người đã cùng chúng tôi tìm kiếm, khám phá hang động trong 20 năm qua” - ông Howard Limbert nói.
Hiện đoàn đã tiến hành đo vẽ, chụp ảnh và ghi chép lại các thông số của các hang động được khảo sát. Đáng chú ý như hang Hòa Hương có chiều dài 2.876m; hang Tiên 2 dài 2.519m; hang Bom dài 1.500m; hang Dinh 1 dài 1.430m; hang Rục Ma Rinh 2 dài 1.360m; hang Cây Sanh dài 850m…
Đặc biệt, trong lần thám hiểm này, đoàn đã phát hiện nhiều hố sụt lớn trong các hang như hang km 17 là 150m; hang Leo là 133m; hang Cây Mọc là 129m; hang Bang là 121m; hang Hòa Hương là 121; hang Vực Chuột là111m; hang Lui là 96m; hang Nôi Đong là 93m. Nhiều hang động có dòng chảy ngầm khác biệt như hang Hòa Hương, hang Khe Rung..
Điều đáng lưu ý là trong các hang động mà đoàn khảo sát, đoàn đã phát hiện ra nhiều động vật quý hiếm và khác lạ như các loài cá, giáp xác có thân hình trong suốt.
Đây là những thông tin quý giá về mặt khoa học trong việc nghiên cứu địa chất, địa mạo và đa dạng sinh học tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Nhiều hang động có giá trị về cảnh quan (thạch nhũ, trần hang, dòng chảy ngầm, bãi cát, vách đá, vòm hang…) có nhiều tiềm năng cho việc phát triển du lịch khám phá như hang Hòa Hương, hang Báng, hang Cây Sanh, hang Ma Rinh, hang Tu Lu…Tuy nhiên, việc phát triển du lịch hang động cũng cần chú trọng đến công tác bảo tồn và hạn chế lượng khách- ông Howard khuyến cáo.
Cũng theo ông Howard Limbert, trong đợt thảm hiểm lần này, đoàn đã phát hiện ra một số vấn đề vô cùng đặc biệt ẩn chứa trong hang Hòa Hương (được đặt tên theo tên của một người dân địa phương phát hiện ra nó) đó là việc hang động này được hình thành ngay dưới lòng nước của một hồ nước rộng lớn, chứ không phải theo cách thông thường là dòng nước chảy qua vùng núi đá mới tạo thành hang động. Cũng từ hang Hòa Hương, ông Howard Limbert cho rằng cách đây hàng triệu nằm dòng nước có thể chảy từ phía Việt Nam qua Lào chứ không phải ngược lại như hiện nay.
Được biết đây là lần thứ 17 đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh tiến hành khảo sát và thám hiểm hang động tại Phong Nha-Kẻ Bàng tính từ năm 1990. Đến nay, đoàn đã khảo sát tổng cộng 311 hang động lớn nhỏ với tổng chiều dài thám hiểm trên 200km.
Ngoài các hang động Phong Nha (khảo sát các năm 1990, 1992 và 1994), hang Thiên Đường (năm 2006) và đặc biệt là hang Sơn Đòong (năm 2009) đang phát huy giá trị về du lịch thì kết quả thám hiểm của đoàn có ý nghĩa lớn trong công tác nghiên cứu khoa học, nhất là vấn đề bảo tồn hang động, địa chất, địa mạo và đa dạng sinh học. (Dân Việt 22/6) đầu trang(
Thông tin từ Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) tối 22/6 cho biết, trong vài năm trở lại đây, hoạt động buôn bán động vật hoang dã quý, hiếm trên Internet đang gia tăng với tốc độ chóng mặt.
Trên các trang mạng xã hội, các website, các diễn đàn, nhiều loài động vật hoang dã từ sóc, nhím, trăn, rắn, kỳ đà, cá sấu, chuột đến những loài nguy cấp, quý, hiếm như hổ, culi, rái cá được rao bán ngày càng thường xuyên và công khai, thậm chí kèm theo đầy đủ thông tin của người bán.
Trước thực trạng đáng báo động trên, từ năm 2008, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên đã kêu gọi sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng và cả cộng đồng tố giác tội phạm buôn bán động vật hoang dã thông qua đường dây nóng miễn phí 1800-1522 và qua các chiến dịch loại bỏ vi phạm về động vật hoang dã trên Internet.
Nhờ đó, tính đến tháng 6/2016, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên đã hỗ trợ các cơ quan chức năng xử lý thành công 1.130 trên tổng số 1.551 vụ vi phạm về động vật hoang dã trên mạng Internet, gỡ bỏ nhiều đường link vi phạm cũng như hỗ trợ cơ quan chức năng tịch thu nhiều cá thể động vật hoang dã còn sống.
Cũng từ những thông tin được Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên chuyển giao cho cơ quan chức năng, nhiều đối tượng “sừng sỏ” về buôn bán động vật hoang dã trên mạng đã sa lưới pháp luật.
Gần đây nhất, chiều 21/6/2016, Tòa án Nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt đối tượng Phan Huỳnh Anh Khoa (sinh năm 1993, cư trú tại quận Gò Vấp) 5 năm tù giam và phạt bổ sung 50 triệu đồng do hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm.
Trong tháng 5/2016, sau khi nhân được thông tin về một đối tượng giao bán một cá thể mèo rừng trên mạng, Phòng Cảnh sát Môi trường - Công an tinh Thừa Thiên Huế cũng đã đã bắt quả tang đối tượng Phạm Minh Hưng khi đang thực hiện hành vi buôn bán. Sau khi vụ án được xử lý, cá thể mèo rừng đã được thả về môi trường tự nhiên. Và, đối tượng Hưng bị xử phạt 20 triệu đồng.
Trước đó, vào tháng 12/2015,  Lê Đức Minh ở Hà Nội cũng đã bị cơ quan chức năng tuyên phạt 27 tháng tù giam, do hành vi rao bán 3 cá thể cu li trên mạng, bị người dân tố giác...
Chia sẻ về việc tố giác tội phạm vi phạm động vật hoang dã thông qua mạng Internet, bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên cho rằng, buôn bán động vật hoang dã qua mạng là một loại tội phạm mới và rất nguy hiểm, cần bị ngăn chặn. Tuy nhiên, do bản chất mạng Internet là một môi trường ảo, các đối tượng lại thường xuyên thay đổi tài khoản, thông tin đăng tải lại có thể thay đổi nên việc xác định đối tượng và thu thập chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn.
Bà Hà cũng nhận định, với tốc độ lan truyền chóng mặt của internet, những thông tin rao bán các cá thể động vật hoang dã lại càng dễ tiếp cận với những người có nhu cầu. Vì vậy, vai trò của cộng đồng là hết sức quan trọng trong việc đẩy lùi loại tội phạm mới này. (Vietnam + 22/6) đầu trang(
Ngày 22-6, thông tin từ Hạt Kiểm lâm huyện Ia Grai (Gia Lai) cho biết hiện đơn vị đang tiến hành liên hệ và làm các thủ tục cần thiết để bàn giao cho Vườn quốc gia Cúc Phương nuôi dưỡng bảo tồn một cá thể Voọc Chà vá.
Đây là con Voọc Chà vá còn nhỏ, cân nặng khoảng 470g, do gia đình ông Tống Ngọc Đăng, thôn 4 xã Ia Krái đã tự nguyện giao nộp cho Hạt vào sáng ngày 21-6.
Ông Tống Ngọc Đăng cho biết, đây là voọc chân nâu do con gái anh Đăng là Tống Khánh Linh tình cờ phát hiện tại xóm 9, thôn 4 xã Ia Krái đem về chăm sóc, nuôi dưỡng và qua tìm hiểu trên mạng, được biết đây là loài Voọc có tên khoa học là pygathrix cinerea, thuộc nhóm 1B hoang dã, cực kỳ quý hiếm và nguy cấp cần được bảo tồn loài, nên gia đình ông Đăng đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng. (Nhân Dân 22/6) đầu trang(
Là tỉnh đồng bằng, diện tích đồi núi không lớn nhưng hệ động vật hoang dã trên địa bàn Hải Dương tương đối phong phú. Tuy vậy, nạn săn bắn trộm và tình trạng ô nhiễm môi trường đã tác động tiêu cực tới hệ động vật này.
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài "Điều tra, đánh giá thực trạng đa dạng sinh học, xây dựng kế hoạch hành động đa dạng sinh học tỉnh Hải Dương đến năm 2020, định hướng đến năm 2030".
Hiện nay, Hải Dương có 47 loài thú thuộc 18 họ của 7 bộ, trong đó có 42 loài thú hoang dã và 5 loài thú nuôi. Nhìn chung, thú hoang dã sinh sống trên địa bàn chủ yếu là những loài có kích thước vừa và nhỏ, dễ thích nghi với môi trường sống. Đó là, các loài thú thuộc bộ ăn thịt như mèo rừng, cầy gấm, cầy vòi hương, cầy vòi mốc, chồn bạc má bắc, sóc các loại, cu li loại nhỏ, các loài thuộc bộ dơi, các loài sóc, chuột thuộc bộ gặm nhấm...
Theo ông Hoàng Đức Lưu, Trưởng Ban Quản lý rừng, tỉnh Hải Dương hiện có khoảng 2.300 ha rừng tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các xã Hoàng Hoa Thám, Bắc An, Hoàng Tiến và phường Hoàng Tân, thị xã Chí Linh. Trong đó, các cánh rừng tự nhiên ở đây là vùng quan trọng về phân bố thú hoang dã của tỉnh, nhất là những loài thú có giá trị bảo tồn nguồn gien như: Hoẵng, lợn rừng, cu li, cầy vòi hương, cầy vòi mốc, cầy gấm, chồn bạc má bắc, các loài sóc...
Có 3 loài quý hiếm được xếp vào nhóm nguy cấp, cấm săn bắn, sử dụng là cu li nhỏ, cầy gấm và mèo rừng. Ngoài các loài thú hoang dã, những khu rừng tự nhiên thuộc các xã Hoàng Hoa Thám, Bắc An, thị xã Chí Linh một số núi đá vôi trên địa bàn thị trấn Minh Tân, huyện Kinh Môn còn có nhiều loài bò sát, lưỡng cư có giá trị như: tắc kè, rồng đất, rắn ráo thường, ráo trâu, cạp nong, cạp nia, hổ mang bành, hổ chúa...
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy, trên địa bàn có 161 loài chim thuộc 44 họ của 14 bộ. Khu rừng Đồng Châu, rừng chùa Thanh Mai, xã Hoàng Hoa Thám, vùng đồi núi xã Bắc An và khu vực núi đá vôi của thị trấn Minh Tân, huyện Kinh Môn tập trung nhiều loài chim tự nhiên.
Đặc biệt, các cánh rừng tự nhiên của thị xã Chí Linh có nhiều loài chim có giá trị bảo tồn nguồn gien như: gà lôi trắng, cú lợn lưng nâu, dù dì phương Đông, diều hoa Miến Điện, chích chòe lửa... Đảo Cò ở xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện là nơi tập trung nhiều loài chim nước, chủ yếu là các loài cò, vạc...
Theo nghiên cứu, khu vực này có thành phần chim đa dạng và phong phú hơn nhiều so với các khu vực khác của đồng bằng sông Hồng, với khoảng 51 loài, thuộc 12 bộ, 30 họ và 42 giống. Trong đó có nhiều loài chim quý như bồ nông, le le, mòng, két, cú mèo… Đặc biệt, Đảo Cò xuất hiện loài cò ốc, một loài chim quý đã được ghi trong Sách đỏ của Việt Nam.
Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn, các loài động vật hoang dã trên địa bàn tỉnh Hải Dương đang có xu hướng suy giảm mạnh về số lượng và chất lượng. Tình trạng người dân vào rừng bẫy thú, săn bắn vẫn thường xuyên xảy ra cũng khiến cho số lượng các loài động vật hoang dã trong rừng ngày càng suy giảm.
Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm môi trường do phát triển công nghiệp, khai thác khoáng sản, đặc biệt là khai thác đá vôi trên địa bàn huyện Kinh Môn đã làm biến đổi hoặc mất hoàn toàn môi trường sống tự nhiên của nhiều loài động vật hoang dã. Biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân khiến nhiều loài động vật hoang dã suy giảm về số lượng do môi trường sống bị thay đổi.
Ông Nguyễn Công Quân, Trưởng Phòng Thanh tra pháp chế, Chi cục Kiểm lâm (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Dương) cho biết: Các cấp, ngành thực hiện tuyên truyền tại cửa rừng bằng cách treo biển cấm, tuần tra, canh gác và tuyên truyền trực tiếp tại các hộ nuôi động vật hoang dã là biện pháp để góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc nuôi nhốt, bảo vệ động vật hoang dã.
Bên cạnh đó, Chi cục Kiểm lâm tỉnh phối hợp với các lực lượng chức năng kiểm tra trực tiếp phương tiện vận chuyển cũng làm giảm tình trạng buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã.
Tỉnh Hải Dương đang thực hiện quyết liệt các giải pháp, huy động nỗ lực của toàn thể cộng đồng ngăn chặn tình trạng buôn bán trái phép động vật hoang dã. Bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ động vật hoang dã cũng góp phần vào nỗ lực phát triển kinh tế bền vững và an sinh xã hội. (Tài Nguyên Và Môi Trường 22/6) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Chỉ trong vòng 5 năm (2010 - 2014), trữ lượng rừng khu vực Tây nguyên giảm hơn 57 triệu m3, tương đương 17,4%, trong đó có 20 triệu m3 ở khu vực rừng giàu và 12 triệu m3 ở rừng trung bình.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho biết như vậy khi trao đổi với Tuổi Trẻ ngày 
21-6.
“Tại Tây nguyên thời gian qua đã có gần 38.000ha rừng được chuyển đổi mục đích sang xây dựng thủy điện, hạ tầng giao thông, 110.000ha chuyển sang trồng cao su, cây ăn quả, cây công nghiệp, gần 123.000ha bị lấn chiếm, bị phá để lấy đất canh tác và sản xuất nông nghiệp. Cần một cơ chế đặc thù để khôi phục và phát triển rừng Tây nguyên” - ông Tuấn cho biết.
Theo đó, “cơ chế đặc biệt” sẽ bao gồm hai nhóm hoạt động và đã bắt đầu thực hiện từ năm 2016. Bộ đã đề xuất Chính phủ và được Thủ tướng chấp thuận đóng cửa rừng tự nhiên, dừng toàn bộ việc khai thác gỗ rừng và chuyển đổi mục đích rừng tự nhiên sang các công trình khác.
Gần nhất là dừng chuyển đổi rừng để xây dựng thủy điện Đrăng Phốk mà nếu xây dựng sẽ dùng đến 63ha đất rừng thuộc Vườn quốc gia Yok Đôn, Đắk Lắk, 53/63ha là chuyển đổi vĩnh viễn, kéo theo nhiều hệ lụy tổn hại đến sinh cảnh sống của nhiều loài động, thực vật.
Bên cạnh đó, bộ đề xuất có các cơ chế chính sách cho người bảo vệ rừng: tăng mức khoán bảo vệ rừng Tây nguyên lên 400.000 đồng/ha/năm, bổ sung kinh phí cho các tỉnh thực hiện các dự án ổn định di cư tự do, quy định trách nhiệm của chủ rừng, của người đứng đầu chính quyền các cấp khi để xảy ra cháy rừng, mất rừng, suy giảm chất lượng rừng...
Mục tiêu là đến năm 2020 rừng Tây nguyên đạt độ che phủ bằng... cách đây 5 năm. (Tuổi Trẻ 22/6) đầu trang(
Trong 6 tháng đầu năm 2016, toàn tỉnh đã trồng mới được trên 5.000 ha rừng, trong đó nhân dân tự bỏ vốn trồng 25 ha, trồng cây phân tán gần 54.000 cây, tương đương với gần 36 ha. Đó là một trong những kết quả nổi bật của công tác bảo vệ và phát triển rừng 6 tháng đầu năm 2016 của chi cục Kiểm lâm tỉnh.
Cũng trong 6 tháng đầu năm chi cục kiểm lâm tỉnh đã cấp phép và giám sát khai thác rừng được trên 86.000 m3 gỗ; xử lý 286 vụ vi phạm luật bảo vệ rừng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước. Tịch thu 322 m3 gỗ, tăng 26% so với năm 2015; tịch thu 48 phương tiện các loại, thu nộp ngân sách trên 2 tỷ 300 triệu đồng. Bên cạnh đó nhiều chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới đã được lồng ghép với công tác bảo vệ và phát triển rừng, qua đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, giảm áp lực vào rừng, thực hiện hiệu quả mục tiêu bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
Tại Hội nghị sơ kết công tác bảo vệ và phát triển rừng 6 tháng đầu năm 2016 của chi cục Kiểm lâm tỉnh tổ chức ngày 21/6, lực lượng Kiểm lâm đã đề xuất với tỉnh quan tâm hơn nữa nâng mức hỗ trợ cho người dân nhận giao khoán bảo vệ rừng và có cơ chế đặc thù cho cán bộ kiểm lâm thực hiện nhiệm vụ tại một số khu vực khó khăn.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Đoàn Văn Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đánh giá cao công tác chỉ đạo cũng như triển khai nhiệm vụ bảo vệ rừng của lực lượng kiểm lâm trong thời gian vừa qua.
Đồng chí cũng yêu cầu lực lượng kiểm lâm trong thời gian tới báo cáo với tỉnh về kết quả các mô hình trồng, sản xuất cây lâm nghiệp; tổng hợp các nguồn thu từ lâm nghiệp. Trong thời gian tới, kinh doanh và chế biến lâm sản cũng cần phải quy hoạch cụ thể để nâng cao hiệu quả. Với các đề xuất đưa ra, chi cục kiểm lâm cần xây dựng báo cáo chi tiết và có phương án cụ thể, từ đó tỉnh sẽ có phương án giải quyết phù hợp. (Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Nguyên 22/6) đầu trang(
Cùng với thu hoạch lúa xuân, tranh thủ những ngày trời mưa, người dân huyện Bạch Thông đang tiến hành trồng rừng. Đến thời điểm này, toàn huyện đã trồng được trên 60% diện tích đăng ký.
Thời điểm này, Phương Linh là xã triển khai trồng rừng sớm nhất của huyện Bạch Thông. Đến nay, toàn xã đã trồng được hơn 80% diện tích đăng ký, tiến độ trồng rừng của các xã còn lại đạt hơn 60%. Theo kế hoạch năm 2016, huyện Bạch Thông trồng mới  500ha rừng, Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng của huyện đã cung ứng hơn 80 vạn cây giống cho người dân.
Về cơ cấu giống cây trồngchủ yếu là keo và mỡ vì đây là hai loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn, đầu ra ổn định. Để đảm bảo tiến độ trồng rừng, cơ quan chuyên môn huyện Bạch Thông đã chỉ đạo người dân đẩy nhanh tiến độ xử lý thực bì và giao cây giống đúng thời gian quy định cho bà con. Dự kiến đến giữa tháng 7, người dân Bạch Thông sẽ trồng rừng xong toàn bộ diện tích đã đăng ký trong năm nay. (Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Bắc Kạn 22/6) đầu trang(
“Ông Năm rừng bần” là biệt danh do cư dân vùng ven biển huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) đặt cho ông Trầm Thanh Vân, cán bộ hưu trí, nguyên Bí thư Huyện ủy Cầu Ngang để tỏ lòng tri ân đối với vị cán bộ lãnh đạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, góp phần bảo vệ và đem lại cuộc sống ngày càng no ấm cho người dân sống ở vùng ven biển huyện này.
Huyện Cầu Ngang có bờ biển dài khoảng 15 km nằm trên địa bàn hai xã Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long. Đây là bờ hữu ngạn cửa Cung Hầu, nhìn đối diện sang cù lao Long Hòa thuộc huyện Châu Thành (Trà Vinh) và huyện Thạnh Phú (Bến Tre).
Hàng năm, vào mùa gió chướng và gió bắc, các cơn sóng biển nối đuôi nhau tiến thẳng vào bờ gây sạt lở nghiêm trọng, đe dọa cuộc sống và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất của cư dân sống ở vùng ven biển của huyện. Chỉ tính trong giai đoạn 1975 - 1990, sóng biển đã khoét sâu vào đất liền có chiều ngang hơn 100 m, chạy dài gần 10 km, cuốn trôi hàng trăm ha đất và nhiều tài sản của người dân ra biển…
Vào thời điểm đó, ông Trầm Thanh Vân là Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang, phụ trách khối nông nghiệp. Hàng ngày đi cơ sở chứng kiến cảnh nhiều người dân địa phương phải rời quê hương đi mưu sinh, đất ven biển bị sóng biển xói mòn, khiến ông Vân biếng ăn, mất ngủ. Làm sao giữ đất, làm sao để người dân không còn bỏ xứ ra đi. Những câu hỏi ấy trở thành suy tư, trăn trở ngay cả trong giấc ngủ của ông.
Ông nhớ lời Bác dạy phải trồng cây, gây rừng và kinh nghiệm trồng cây, gây rừng trong thời kháng chiến chống Mỹ của quân dân huyện Duyên Hải - Cầu Ngang (Trà Vinh). Với suy nghĩ và trách nhiệm của mình, ông Vân đã đề xuất và được tập thể Huyện ủy, UBND huyện Cầu Ngang thống nhất đề nghị UBND tỉnh Trà Vinh hỗ trợ kinh phí trồng rừng phòng hộ ven biển xã Mỹ Long (nay tách thành xã Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long).
Lúc đó mới tái lập tỉnh được vài năm, ngân sách địa phương còn gặp không ít khó khăn, thu không đủ bù chi, nhưng UBND tỉnh Trà Vinh vẫn chi 30 triệu đồng cho huyện Cầu Ngang trồng rừng ở bãi biển Mỹ Long. Ông Vân được phân công làm chỉ huy trực tiếp triển khai thực hiện dự án này. Vấn đề đặt ra khi đi vào thực hiện là trồng cây gì cho phù hợp vùng đất bãi bồi, lại chịu được sóng to, gió lớn.
Cây bần được chọn để trồng ở bãi biển Mỹ Long. Ông Vân cùng một số cán bộ của huyện sang tỉnh Bến Tre mua 27.000 cây bần giống, đủ để phủ kín diện tích bãi biển, chiều ngang 100 m, chạy từ Bến Đáy xuống tận vàm Thâu Râu dài khoảng 7 km. Hàng trăm lao động địa phương được huy động, đóng góp cả ngàn ngày công, tranh thủ lúc nước ròng phơi bãi tiến hành trồng cây.
Cẩn trọng hơn, ông Vân còn chỉ đạo mua tre cắt thành từng đoạn cắm sâu xuống đất cột giữ thân bần để chống chọi với sóng to, gió lớn. Thế nhưng, chỉ qua một đêm, nước biển dâng cao cộng thêm sóng biển đã cuốn trôi toàn bộ số bần mới vừa trồng ngày hôm trước.
Vượt qua mọi gièm pha, ông Vân cùng tập thể lãnh đạo huyện Cầu Ngang không nản chí, vẫn kiên định mục tiêu trồng cây, gây rừng ở bãi biển Mỹ Long. Ông Triệu Văn Bé, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh lúc ấy đã xuống tận hiện trường kiểm tra. Sau khi làm việc với lãnh đạo huyện Cầu Ngang, ông Triệu Văn Bé đồng tình và cho Cầu Ngang tiếp tục đầu tư trồng rừng ở xã Mỹ Long. Lần này, cây đước được nhiều ý kiến đề xuất đưa vào trồng thay thế cây bần nhưng trồng đước lần này cũng không thành công.
Ông Vân chia sẻ: “Thất bại lần này, tôi tự nhận trách nhiệm, thiếu sót về mình nhưng vẫn kiên quyết giữ quan điểm phải tiếp tục trồng rừng ở bãi biển Mỹ Long. Không ít ý kiến phản bác, nhưng cũng có nhiều người ủng hộ tôi, nhất là các vị đứng đầu Huyện ủy, UBND huyện và đặc biệt là Chủ tịch UBND tỉnh Triệu Văn Bé. Tôi đi khắp vùng ven biển tìm đến những người cao niên, nhiều đời bám biển trình bày ý tưởng và lắng nghe ý kiến đóng góp của họ”.
Rút kinh nghiệm sau hai lần thất bại, cùng sự góp ý tận tình của các bậc cao niên, ông Vân chủ động bàn bạc với tập thể lãnh đạo huyện đi đến thống nhất quay lại trồng cây bần. Bởi vì, ở bãi biển Trà Vinh, bần mọc khắp nơi, ở đâu có bần, ở nơi đó không xảy ra xói lở mà còn được phù sa bồi đắp.
Nhớ lời dạy của ông bà ta từ xa xưa “thuận theo chiều gió”, ông Vân chỉ đạo nhân công khi bứng bần giống phải bứng luôn cả rễ lẫn đất, sau đó bỏ vào sọt tre, rồi mang về trồng cả sọt đất xuống bãi bùn. Chiếc sọt đất giữ gốc bần cố định tại chỗ, còn thân bần “thuận theo chiều gió” tự do ngả nghiêng theo chiều sóng biển. Qua từng ngày, cây bần bén rễ ăn sâu vào đất bãi bùn, vươn mình đứng thẳng, bất chấp phong ba, bão táp.
Từ vùng đất ven biển 100 m bề ngang và 7.000 m chiều dài do ông Vân chỉ huy trồng cây khoảng 25 năm về trước, đến nay, các cây bần đã to cao, sinh sôi nảy nở nhiều thế hệ đang lấn ra biển, có nơi rộng ra hơn 500 m, chạy dọc suốt 15 km bờ biển, tạo thành “bức tường” xanh bảo vệ cư dân ven biển ở xã Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long.
Ở đây, các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua… sinh sống ngày một nhiều. Người dân ven biển nơi đây thường nói vui là “lộc của rừng” ban cho và họ không bao giờ quên ơn “Ông Năm rừng bần”, người có công lớn giúp họ có cuộc sống như ngày hôm nay. (Tin Tức 23/6) đầu trang(
Từ một xóm nghèo, làm lụng vất vả quanh năm nhưng cuộc sống vẫn thiếu trước hụt sau. Thậm chí, nhiều gia đình đành bỏ làng ra đi.
Nhưng giờ đây, cuộc sống của người dân xóm núi ấy không chỉ đủ đầy, mà còn vươn lên khá, giàu. Những đổi thay ấy là nhờ người dân nơi đây gắn bó với nghề trồng rừng nguyên liệu…
Chúng tôi về xóm 10, xã Lăng Thành, huyện Yên Thành vào những ngày cuối tháng 5 trời nắng như đổ lửa. Nhìn xóm làng khang trang sau những ngọn đồi, sườn núi phủ một màu xanh tít tắp, ai cũng mừng về sự đổi thay ấy. Vùng đất năm xưa được mệnh danh là ốc đảo nghèo khó giờ trở thành vùng trồng rừng trọng điểm của huyện.
Trong ngôi nhà gỗ khang trang của xóm trưởng Nguyễn Bá Nghĩa, những người đàn ông địa phương rắn rỏi, nước da ngăm đen trải lòng về những câu chuyện cuộc đời gắn liền với mảnh đất chơi vơi giữa rừng núi trập trùng này. Nhấp ngụm nước chè xanh, bí thư chi bộ Trần Nguyên Hảo hồi tưởng, trước những năm 60 của thế kỷ trước, xóm chúng tôi cũng đông đúc lắm, nhưng sau đó, do điều kiện thiên nhiên quá khắc nghiệt, cuộc sống quá khó khăn nên  người làng dứt áo ra đi.
Tiếp lời, xóm trưởng Nguyễn Bá Nghĩa cho biết, suốt thời gian dài, cuộc sống của mấy chục hộ dân cứ trôi qua trong khốn khó. Đường đất mùa mưa lầy lội, mùa nắng bụi phủ mờ, đi lại vô cùng khó khăn. Làng chỉ cách trung tâm xã khoảng 13 km, nhưng đó là cả hai thế giới đối lập nhiều mặt. Ruộng lúa nước cũng chỉ được 50 ha nhưng chỉ làm được một vụ. Lúc đó, mọi người chỉ trông vào những cánh rừng của dãy núi Mồng Gà.
Nhưng “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, cuộc sống sung túc vẫn cứ xa vời vợi… Tất cả những thay đổi chỉ đến khi người dân xóm núi được giao đất, giao rừng. Có tư liệu sản xuất là hàng chục ha đất chia cho mỗi gia đình, những người nông dân cần cù, lam lũ năng động bắt tay làm kinh tế. Những sườn đồi bạt ngàn dứa, đồng mía xanh ngút ngàn tầm mắt cho đến những vườn bạch đàn mạnh mẽ dần dần chinh phục đất cằn. Nhưng màu của sung túc, no ấm vẫn chưa hiện hữu khi điệp khúc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” bao phen đưa những người nông dân vào tình cảnh lao đao. Và thay đổi chỉ đến khi cây keo nguyên liệu bén duyên trên vùng đất này.
Nhắc đến câu chuyện trồng keo sau bao phen thất bại với các loại cây trồng khác, ánh mắt của bí thư Hảo lại sáng lên một cách đầy tự hào. Gắn bó gần như cả cuộc đời với mảnh đất này, ông có hàng chục năm làm cán bộ xóm, từ đội trưởng hợp tác xã trong những tháng ngày bao cấp đến xóm trưởng, rồi đảm nhận vị trí Bí thư Chi bộ xóm 10. Chính ông là người đầu tiên đưa cây keo vào trồng trên diện tích đất sản xuất được giao của gia đình.
Làm rồi, ông lại tích cực vận động người dân trong xóm làm theo. Đến bây giờ thì cả xóm 10 đã có đến 2.000 ha rừng keo. Giờ đây, sau hơn 2 chu kỳ khai thác, giá trị kinh tế mà cây keo mang lại đã được khẳng định. Chỉ tính riêng gia đình bí thư Hảo có trên 60 ha đất rừng đều trồng keo, gia đình xóm trưởng Nghĩa cũng có hơn 35 ha. Dẫn chúng tôi về thăm ngôi nhà hai tầng đang được thi công, bí thư Hảo phấn khởi cho biết: “Từ đầu năm đến nay gia đình bán 20 ha keo thu lãi được khoảng 1,2 tỷ đồng. Cái nhà này làm từ tiền bán keo đó. Trước đây có khi nào dám mơ mình có ngôi nhà thế này”.
Gắn bó với cây keo, không chỉ gia đình bí thư Hảo mà đại đa số trong 187 hộ với 678 nhân khẩu thuộc xóm 10 đã có của ăn, của để. Thậm chí xóm có 17 gia đình mua được cả ô tô để phục vụ đi lại và vận chuyển keo nguyên liệu. Gia đình ông Nguyễn Hồng Tháí là một trong số đó. Gia đình ông chỉ có 10 ha keo, thu hoạch chu kỳ thứ nhất có chút lưng vốn, ông mạnh dạn đầu tư mua xe ô tô tải trị giá hơn 400 triệu đồng.
Có được xe không những chủ động vận chuyển keo nguyên liệu của gia đình vào kỳ thu hoạch mà còn thường xuyên vận chuyển keo từ xóm 10 về nhà máy. Ông Thái cho biết: Mô hình trồng rừng và dịch vụ vận tải đã thực sự có hiệu quả, tạo thu nhập thường xuyên ổn định cho gia đình ông.
Đi một vòng quanh ngôi làng nhỏ, dưới những ngọn núi, sườn đồi xanh thẳm của rừng, những ngôi nhà lụp xụp xưa kia nay nhường lại cho những ngôi nhà kiên cố khang trang, nằm gọn ghẽ bên con đường bê tông trục chính vừa hoàn thành. “Con đường này được làm với sự hỗ trợ 60 tấn xi măng của Nhà nước, người dân trong xóm cũng đóng góp 300.000 đồng/khẩu để làm.
Tổng chiều dài đã hoàn thành hơn 1,3 km. Hiện nay, tính về hệ thống giao thông, xóm chúng tôi được đánh giá là nhất xã. Nghị quyết chi bộ có rồi, mục tiêu là đến năm 2020 sẽ hoàn thành làm đường bê tông 4 km đường giao thông nội xóm” - ông Nghĩa phấn khởi nói. Bên cạnh đó, do điều kiện đường sá xa xôi so với trung tâm xã, nhân dân trong xóm cũng đã đóng góp 200 triệu đồng để mua một căn nhà ba gian làm cơ sở y tế cho xóm. Điều này, ắt hẳn chỉ có nhân dân xóm 10 mới làm được.
Trời về chiều, cơn mưa rừng nặng hạt đổ bất ngời xuống xóm núi, quây quần bên chén nước, xóm trưởng Nghĩa và bí thư Hảo không giấu được niềm vui khi cho chúng tôi xem tấm ảnh những người con của các ông đang du học công nghệ thông tin ở Nhật Bản… Ngoài kia, những chuyến xe chở keo đang rầm rập vào ra mang đến màu xanh no ấm cho người dân nơi xóm núi. Câu chuyện đổi đời của những người nông dân tỷ phú ở xóm núi miền Tây Yên Thành mà minh chứng tràn đầy sức sống về hiệu quả của nghề trồng rừng.
Chính những người nông dân lam lũ ở xóm 10, xã Lăng Thành đã góp phần đánh thức tiềm năng vùng miền Tây rộng lớn nhưng điều kiện địa hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt của địa phương này. Hiệu quả từ việc trồng rừng nguyên liệu đem lại cuộc sống đổi đời cho xóm núi đã được khẳng định qua vài vụ, nhưng hiệu quả sẽ còn tăng lên, giá trị từ đất rừng sẽ thu về xứng đáng một khi bà con tiếp thu và áp dụng kỹ thuật trồng, chăm sóc, lựa chọn giống chuẩn khép kín quy trình trồng- chăm sóc- thu hoạch.
Và núi Mồng Gà sẽ trở thành "rương tiền" theo một màu xanh bền vững, theo đúng nghĩa đen câu nói mà mỗi người dân quê lúa đều đã quen: “Phía trước kho lương, phía sau rương tiền”.
Ông Nguyễn Công Vĩnh - Tổng Giám đốc Công ty CP Lâm nghiệp Tháng Năm cho biết: Đối với những vùng, địa phương trong vùng quy hoạch phát triển nguyên liệu của Nhà máy chế biến gỗ MDF Nghệ An đã được UBND tỉnh phê duyệt như xóm 10 xã Lăng Thành, công ty sẽ khảo sát cụ thể, có sự phối hợp với địa phương, có chính sách hỗ trợ một số hộ trồng rừng tiêu biểu làm mô hình trồng rừng kỹ thuật cao.
Theo đó, công ty sẽ đồng hành hỗ trợ không lãi suất giống, phân bón, thuốc diệt mối, kỹ thuật trồng, chăm sóc trong chu kỳ phát triển của cây nguyên liệu và cam kết thu mua toàn bộ nguyên liệu đến kỳ thu hoạch. (Báo Nghệ An 22/6) đầu trang(
Ngày 22/6, ông Lò Văn Tiến, Phó chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, chủ trì cuộc họp bàn giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc quyết toán các dự án trồng rừng thuộc Chương trình 327, Dự án 661.
Chương trình trồng rừng 327 là chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc được thực hiện từ năm 1993 - 1998 và Dự án 661 là dự án trồng mới 5 triệu héc - ta rừng được kế thừa từ Chương trình 327. Cả 2 dự án đều thực hiện mục tiêu chung; tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được hưởng lợi từ rừng.
Tuy nhiên, sau thời gian dài thực hiện, nhiều diện tích rừng ở Điện Biên đã đủ thời gian khai thác. Nhưng đến nay, các chủ rừng vẫn chưa thể khai thác vì vướng mắc trong công tác quyết toán dự án.
Trong thời gian qua, UBND tỉnh Điện Biên đã chỉ đạo các sở, ngành liên quan, các đơn vị chủ đầu tư, đơn vị được giao thực hiện quyết toán dự án tập trung giải quyết dứt điểm, thực hiện công tác quyết toán và ban hành các cơ chế xử lý những tồn tại, vướng mắc xoay quanh việc quyết toán tại 2 dự án nêu trên.
Đến nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỉnh Điện Biên đã thực hiện rà soát, xác định diện tích rừng hiện có ngoài thực địa của các chủ đầu tư thuộc Chương trình 327, Dự án 661 trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Trong đó, có 2 chủ đầu tư đã thực hiện xong việc rà soát với tổng diện tích 63.118,3ha, tuy nhiên, diện tích đất có rừng chỉ còn 35.225,3ha, chiếm 55,8%.
Theo Báo cáo số 987/STC-ĐT, ngày 13/6/2016 của Sở Tài chính, tính đến thời điểm 31/12/2008, có 58 Dự án Chương trình 327 và chi phí Ban chỉ đạo (BCĐ) Dự án 327 thuộc thẩm quyền phê duyệt quyết toán của UBND tỉnh Điện Biên chưa phê duyệt quyết toán. Trong đó, 45 dự án và chi phí BCĐ do UBND tỉnh Điện Biên quản lý và 13 dự án của UBND tỉnh Lai Châu.
Trong số 45 dự án trồng rừng của tỉnh Điện Biên đã phê duyệt và quyết toán được 4 dự án, với tổng giá trị trên 4,3 tỷ đồng và đã có báo cáo quyết toán. Hiện nay, còn 4 chủ đầu tư đang hoàn tất các hồ sơ thủ tục để thực hiện quyết toán trong thời gian tới. Các đơn vị còn lại chưa nộp báo cáo quyết toán dự án.
Còn đối với Dự án 661, đến thời điểm này Sở Tài chính đã phê duyệt, quyết toán 4 dự án và 1 hạng mục, với số tiền trên 65 tỷ đồng; 1 dự án của BQL rừng phòng hộ, huyện Điện Biên hiện đang trong giai đoạn thẩm tra quyết toán và 2 dự án của BQL rừng phòng hộ, huyện Tuần Giáo đang tiến hành giao nhận hồ sơ; 3 dự án và 1 hạng mục, các chủ đầu tư chưa nộp báo cáo quyết toán hoặc báo cáo quyết toán chưa đầy đủ.
Phát biểu chỉ đạo cuộc họp, ông Lò Văn Tiến, khẳng định: Công  tác quyết toán Chương trình 327, 661 còn nhiều vướng mắc. Các đơn vị chưa nghiêm túc thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh; có nhiều đơn vị mới chỉ xem xét đến mặc dù UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt từ cuối năm 2013.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh, yêu cầu các chủ đầu tư, các huyện, thị đối chiếu, rà soát diện tích rừng đã quyết toán.
Các hộ dân và các cộng đồng có nhu cầu khai thác thì chỉ đạo hướng dẫn để người dân được khai thác và trồng bù rừng theo quy định; đối với diện tích rừng chưa quyết toán nếu người dân thực sự có nhu cầu khai thác, phục vụ nhà máy giấy thì yêu cầu tổng hợp danh sách, báo cáo UBND tỉnh xem xét chỉ đạo để đảm bảo nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất của nhà máy, đảm bảo lợi ích của người dân. Các dự án chưa quyết toán, đề nghị các chủ đầu tư, các sở ngành tập trung giải quyết dứt điểm trong 2 tháng 7, 8/2016. (Tài Nguyên Và Môi Trường 22/6) đầu trang(
UBND tỉnh ban hành Công văn số 4516/UBND-NNMT, ngày 09/6/2016 gửi UBND huyện Krông Năng về việc giải quyết kiến nghị của Công ty Cổ phần Trồng rừng Trường Thành liên quan đến các hộ dân tại xã Cư Klông, xã Tam Giang, huyện Krông Năng chiếm đoạt tài sản của Công ty.
UBND tỉnh giao huyện Krông Năng xem xét nội dung Công ty Cổ phần Trồng rừng Trường Thành phản ánh; kiểm tra thực tế, chỉ đạo các cơ quan liên quan xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật (nếu có). Nếu vướng mắc, vượt thẩm quyền thi kịp thời báo cáo, đề xuất UBND tỉnh. (Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Đắk Lắk 22/6) đầu trang(
Trồng rừng nguyên liệu là thế mạnh của Nghệ An. Những năm qua, các chủ rừng và người dân đã tích cực trồng rừng, với tổng diện tích trên 191 nghìn ha.
Những năm qua, ngành lâm nghiệp Nghệ An có bước chuyển mạnh mẽ từ khai thác rừng tự nhiên sang khoanh nuôi bảo vệ, trồng mới, làm giàu rừng và phát triển rừng trồng nguyên liệu theo hướng phát triển bền vững, góp phần đưa Nghệ An trở thành một trong những địa phương có độ che phủ rừng cao nhất cả nước. Từ năm 2011 đến nay, diện tích trồng mới luôn đạt trên 15.000 ha/năm.
Diện tích rừng trồng của Nghệ An hiện có hơn 191 nghìn ha, trong đó, diện tích rừng trồng gỗ nguyên liệu là 145.526 ha. Hàng năm, sản lượng khai thác đạt khoảng 1.000.000m3/năm. Năm 2015 Nghệ An đã xuất khẩu được 115,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng hơn 25% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh còn 166.745 ha đất chưa có rừng thuộc quy hoạch rừng sản xuất. Đây là tiềm năng lớn để phát triển rừng nguyên liệu gỗ phục vụ nhu cầu chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh.
Hiện trên địa bàn tỉnh có nhiều nhà máy chế biến gỗ rừng trồng đang hoạt động và tiếp tục đầu tư xây dựng mới ở các khu công nghiệp Nam Cấm, Hoàng Mai, Thanh Chương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn… Cùng với đó, nhu cầu gỗ cho sản xuất các mặt hàng khác như: Gỗ phục vụ sản xuất hàng mỹ nghệ khoảng 7.000 m3/năm, gỗ gia dụng khoảng 10.000 m3/năm, mộc nội, ngoài thất… khoảng 110.000 m3/năm, do đó, nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ rừng trồng tăng cao.
Theo tính toán, nhu cầu nguyên liệu gỗ rừng trồng trên địa bàn tỉnh năm 2016 cần 1,0 triệu m3; năm 2020 cần 1,7 triệu m3; năm 2025 cần 2,5 triệu m3 và năm 2030 cần khoảng 3,0 triệu m3, tương đương sản lượng khai thác của 20 nghìn ha rừng trồng gỗ nguyên liệu/năm.
Để đáp ứng nguyên liệu gỗ rừng trồng cho các nhà máy, Nghệ An đặt mục tiêu đến năm 2020 có 210.614 ha rừng trồng nguyên liệu; đến năm 2025 có 257.490 ha rừng trồng nguyên liệu. Phấn đấu đến năm 2020, Xuất khẩu các sản phẩm từ gỗ rừng trồng đạt 130 triệu USD (năm 2020) và 170 triệu USD vào năm 2025. (Báo Nghệ An 22/6) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Trong danh sách những thảm họa môi trường do con người gây ra, tờ Jakarta Globe cho rằng cháy rừng ở Indonesia có thể là thảm họa nghiêm trọng nhất thế kỷ XXI.
“Airpocalypse” - “bầu không khí của ngày tận thế” là cách chơi chữ mà nhiều người sử dụng để nói về hiện tượng ô nhiễm môi trường do cháy rừng tại Indonesia. Khói từ cháy rừng không chỉ gây ô nhiễm tại đường phố Indonesia mà còn lan sang cả nhiều quốc gia láng giềng ở Đông Nam Á như Singapore, Malaysia.
Tình hình thời tiết khô nóng khắc nghiệt do biến đổi khí hậu đã khiến cho hàng trăm vụ cháy rừng xảy ra trên khắp thế giới trong vài năm gần đây. Đáng nói nhất là những vụ cháy rừng ở Indonesia.
Để chống lại những ngọn lửa này, những chiến sĩ cứu hỏa, kiểm lâm vô cùng dũng cảm và tận tâm đóng vai trò vô cùng quan trọng. Những người am hiểu về rừng luôn hiểu rằng những đám cháy sẽ còn âm ỉ và có thể lại bùng lên bất cứ khi nào nên họ luôn trong trạng thái sẵn sàng ứng phó. (Đài Truyền Hình Việt Nam 22/6) đầu trang(
Họ là những người đang ngày đêm cống hiến công sức của mình bảo vệ những cánh rừng, bảo vệ muông thú để Trái đất luôn là hành tinh xanh.
Những cánh rừng che phủ 31% diện tích bề mặt trên trái đất. Hiện tượng chặt phá rừng, làm hại các loài sinh vật của rừng xanh đang gây nhiều nguy hiểm cho Mẹ Trái đất và cũng sẽ làm ảnh hưởng đến cả tương lai của thế hệ mai sau.
Ông Lemeki Toutou và bộ tộc của ông quan niệm rừng là nhà, cây cối trong rừng là thuốc cứu người và mọi thứ trong rừng đều quý giá. Chính vì thế, ông cùng gia đình cũng như mọi người trong bộ tộc, luôn là những thành viên tích cực chăm sóc và bảo vệ cho sự đa dạng sinh học của cánh rừng trên đảo Fiji.
Mặc dù những người trong bộ tộc của ông Toutou đã từng nhận được rất nhiều lời đề nghị để cho các công ty chặt cây, phá rừng, làm kinh tế tại đấy nhưng họ nhất quyết không chấp nhận vì thế hệ tương lai sẽ chẳng còn gì nếu rừng bị phá hủy.
Mặc dù rất nỗ lực giữ rừng, tuy nhiên, sức của họ khó có thể chống lại việc xâm hại rừng trên diện rộng. Thế nên, giải pháp của họ là ươm những mầm sống mới để vài chục năm sau, cánh rừng sẽ mãi xanh. (Đài Truyền Hình Việt Nam 22/6) đầu trang(./.