Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 23 tháng 04 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ - SỬ DỤNG - PHÁT TRIỂN RỪNG

BẢO VỆ RỪNG
Tại Chương trình quốc gia về bảo tồn hổ giai đoạn 2014 - 2022, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công an tăng cường hiệu quả trong công tác phòng ngừa, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm về bảo tồn hổ và con mồi của hổ; đẩy mạnh công tác điều tra, phát hiện, xử lý dứt điểm các hành vi buôn bán, vận chuyển trái phép hổ và con mồi của hổ; tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các cơ chế hợp tác quốc tế trong điều tra, xử lý các trường hợp buôn bán xuyên biên giới mẫu vật hổ và các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp khác.
Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu thiết lập ít nhất một khu bảo tồn liên biên giới nơi có hổ phân bố tự nhiên giữa Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong nội địa, việc bảo tồn nội vi tập trung vào các khu vực có khả năng còn hổ sinh sống, các khu vực có tiềm năng phục hồi hổ ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó tập trung chủ yếu ở các Vườn quốc gia Vũ Quang (tỉnh Hà Tĩnh), Pù Mát (tỉnh Nghệ An), Yok Đôn (tỉnh Đắk Lắk), Chư Mom Ray (tỉnh Kon Tum) và các Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), Sông Thanh (tỉnh Quảng Nam). (Công An Nhân Dân + Nông Nghiệp VN 23/4) đầu trang(
16/4/2014, Báo điện tử Tầm nhìn có đăng bài “Tan hoang rừng biên giới Ia Jlơi”, phản ánh tình trạng khai thác rừng trái phép kinh hoàng trên đường tuần tra từ phân trường 3 vào phân trường 2 của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ea H’Mơ và tiểu khu 158 (giáp suối Ea Đăng) thuộc sự quản lý của Công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Rừng Xanh đều đóng trên địa bàn huyện Ea Súp – Đắk Lắk.
Sau khi báo đăng, Hạt kiểm lâm huyện Ea Súp nhanh chóng có Công văn số 89/HKL-QLR do ông Nguyễn Văn Thuấn (Hạt trưởng) ký, tham mưu UBND huyện Ea Súp thành lập “Đoàn kiểm tra liên ngành”, kiểm tra công tác QLBVR của các Công ty này.
Nội dung công văn nêu rõ: Ngày 16/4/2014, Báo điện tử Tầm nhìn có đăng bài “Tan hoang rừng biên giới Ia JLơi”, phản ánh tình trạng khai thác rừng trái phép tại các tiểu khu 148,150,157,160, dọc tuyến đường tuần tra từ phân trường 3 vào phân trường 2 của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ea H’Mơ và tiểu khu 158(giáp suối Ea Đăng) thuộc sự quản lý của Công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Rừng Xanh.
Cũng theo công văn này, trước đó trong tháng 4/2014, Hạt kiểm lâm Ea Súp cũng đã phát hiện tại tiểu khu 130 của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ea H’Mơ số lượng gỗ tập kết trái pháp luật gần 30 khối gỗ tròn (gỗ Dầu) và tại Dự án làng thanh niên lập nghiệp biên giới Ia Lốp phát hiện trên 22 mét khối gỗ tròn (gỗDầu, bằng lăng), và đã tiến hành lập hồ sơ xử lý theo quy định.
Công văn cũng nói rõ: Để kịp thời kiểm tra, phát hiện và ngăn chặn tình hình vi phạm quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên lâm phần của các Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp. HKL đề nghị UBND huyện Ea Súp thành lập Đoàn kiểm tra liên nghành kiểm tra công tác QLBVR đối với các Công ty này.
Công văn còn nhấn mạnh, trước hết tiến hành kiểm tra đối với Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ea H’Mơ, tránh tình trạng các chủ rừng buông lỏng công tác QLBVR, để tài nguyên rừng bị xâm hại nghiêm trọng mà không có sự xử lý kịp thời.
Như vậy, trước đó tình trạng khai thác rừng trái phép tại các đơn vị trên đã có xẩy ra, thậm chí số lượng gỗ bị phát hiện, thu giữ  tương đối lớn, vấn đề đặt ra ở đây là. Trách nhiệm của các chủ rừng như thế nào mà để xẩy ra tình trạng khai thác rừng trái phép một cách kinh hoàng như thế? (Tầm Nhìn 23/4) đầu trang(
Tây Ninh có hơn 71.000ha rừng chạy dọc biên giới. Thời gian gần đây, tình trạng phá rừng, khai thác gỗ, lâm sản trái phép không ngừng gia tăng, khiến dư luận địa phương bức xúc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng, trong đó nguyên nhân chính là do người dân lấn chiếm chặt cây lấy đất sản xuất, trồng cao su…
Từ năm 2012 đến nay, nạn phá rừng, khai thác gỗ trái phép ở tỉnh Tây Ninh luôn diễn biến phức tạp. Theo thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tây Ninh, từ năm 2013 trở lại đây, các lực lượng chức năng của tỉnh đã phát hiện, bắt giữ hơn 400 vụ vi phạm quy định bảo vệ rừng với diện tích bị phá lên đến hơn 4,7ha.
Riêng lực lượng kiểm lâm thu giữ hơn 70m3 gỗ tròn, 1,5m3 gỗ quý hiếm và nhiều lâm sản, phương tiện khác. Chỉ trong Quý I-2014, lực lượng Kiểm lâm Tây Ninh đã phát hiện, bắt giữ 89 vụ vi phạm quy định bảo vệ rừng với diện tích rừng bị phá hơn 1,6ha. Lực lượng chức năng thu giữ hơn 13m3 gỗ tròn.
Mới đây nhất, ngày 14-3, tại khu rừng Văn hóa lịch sử Chàng Riệc thuộc địa bàn xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tổ tuần tra của Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh phát hiện 3 cây gỗ tròn, mỗi cây dài khoảng 10 đến 12m, đường kính từ 50 đến 60cm bị lâm tặc cắt đổ giữa rừng. Trước đó, ngày 25-2, tại tiểu khu 20 thuộc khu rừng Quốc gia Lò Gò-Xa Mát, lực lượng chức năng phát hiện thu giữ 13 cây cừ, mỗi cây có đường kính từ 30 đến 40cm, dài từ 5-7m.
Tuy nhiên, con số mà lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ  so với thực tế còn thấp hơn nhiều. Đi dọc các khu rừng, PV bắt gặp đầy dấu vết cắt gỗ, đốt phá. Những khu rừng được xác định là điểm nóng, đó là Vườn Quốc gia Lò Gò-Xa Mát, rừng phòng hộ Hồ Dầu Tiếng...
Chứng kiến những vạt rừng bị đốt cháy nham nhở, nhiều cây lớn bị chặt phá, ông Võ Minh Quân, Phó trưởng phòng Quản lý bảo vệ rừng Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh cho biết: “Do địa bàn rộng, lực lượng mỏng, phương tiện, công cụ hỗ trợ còn hạn chế, nên khó kiểm soát”.
Theo ông Quân, để khai thác gỗ trái phép, bọn lâm tặc lén lút chặt phá, sau đó ngụy trang là gỗ mua từ bên kia biên giới, hoặc chuyển qua biên giới rồi vận chuyển trở lại và tuồn về TP Hồ Chí Minh tiêu thụ.
Ông Nguyễn Chí Nhân, ngụ ở ấp Bầu Bền, xã Thạnh Bắc, huyện Tân Biên nhận khoán 10ha rừng, trăn trở: “Kinh tế gia đình khó khăn, với mức kinh phí bảo vệ rừng thấp, nên tôi cũng không thể thuê nhân công được”.
Ông Mang Văn Thới, Phó chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tây Ninh cho biết thêm, các khu rừng gắn với di tích lịch sử, hoạt động du lịch, có nhiều ban, ngành cùng quản lý, khai thác và việc phối hợp còn chưa chặt chẽ.
Nguyên nhân phá rừng ngày càng gia tăng còn do cánh rừng Tây Ninh có hơn 216ha bị tư nhân bao lấn, chiếm dụng. Họ phá rừng để tiếp tục bao lấn, lấy đất sản xuất và trồng cao su... Có đối tượng còn manh động thuê nhân công lén đốt rừng để dễ bề lấn chiếm. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tây Ninh, từ đầu năm 2014 đến nay, các khu rừng của địa phương đã xảy ra 4 vụ cháy.
Bên cạnh đó, trong bảo vệ, chăm sóc rừng, một số hộ nhận khoán tận dụng thời kỳ cây còn nhỏ để trồng xen canh, ngấm ngầm làm cây rừng chậm phát triển, tàn lụi dẫn đến chết. Tại Khu rừng Lịch sử Văn hóa núi Bà Đen, rừng trồng gần 10 năm, nhưng ngày càng tàn lụi, trong khi đó hoa màu, chuối, mãng cầu…xen canh phát triển tốt.
Trước tình trạng phá rừng, khai thác gỗ trái phép diễn ra phức tạp, ông Tạ Văn Đáo, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tây Ninh khẳng định: Để khắc phục, sở sẽ tham mưu cho UBND tỉnh phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Kiểm lâm - Biên phòng - Công an - Môi trường, đồng thời phối hợp với các ngành chức năng của nước bạn Cam-pu-chia có quy chế phối hợp tuần tra, kiểm soát  để phòng, chống nạn phá rừng, vận chuyển, mua bán gỗ, lâm sản trái phép; tổ chức tốt tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân, nhất người dân gần rừng nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ rừng; đầu tư thêm kinh phí, trang thiết bị, công nghệ; bồi dưỡng nghiệp vụ bảo vệ rừng cho chủ rừng.
Để bảo vệ rừng, giữ vững kỷ cương pháp luật, tỉnh Tây Ninh nên quy hoạch, xác định lâm phận cụ thể; thu hồi dứt điểm diện tích rừng bị bao lấn, chiếm dụng; phát động quần chúng và các đoàn thể tham gia bảo vệ, phát triển rừng; xử lý kiên quyết, đồng thời tổ chức ký cam kết với các chủ rừng, hộ nhận khoán có trách nhiệm bảo vệ, phát triển rừng, làm rõ những hộ nhận khoán thiếu trách nhiệm.
Về lâu dài, tỉnh cần quan tâm bảo đảm việc làm, có chính sách hỗ trợ mở rộng ngành nghề cho người dân gần rừng, nhằm nâng cao đời sống của cán bộ, nhân viên, người dân, chủ nhận khoán để họ hết lòng chăm sóc, bảo vệ rừng. (Quân Đội Nhân Dân 23/4) đầu trang(
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC 46) công an Phú Yên vừa lập biên bản tạm giữ phương tiện và tang vật vụ vận chuyển gần 5,5 m3 gỗ hương trái phép từ Gia Lai về Phú Yên.
Trước đó vào tối ngày 18-4, tại tuyến tránh quốc lộ 1A, đoạn qua xã Hòa Thành, huyện Đông Hòa, Phú Yên, công an đã phát hiện tài xế Phan Minh Châu (SN 1973) ở tổ 12 huyện Phú Thiện, Gia Lai điều khiển xe 81M-1587 vận chuyển 393 khúc gỗ hương (chủ yếu là gỗ họp), tương đương gần 5,5 m3. Khi phát hiện tài xế đã không xuất trình được giấy tờ hợp pháp.
Cơ quan chức năng đang điều tra xử lý. (Nhân Dân 22/4) đầu trang(
Từ đầu năm 2014 đến nay, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã có nhiều giải pháp bảo vệ rừng (BVR), phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR), trong đó chi cục đã chỉ đạo các hạt kiểm lâm tham mưu cho UBND huyện phối hợp với lực lượng công an, quân sự, biên phòng, dân quân tự vệ tuần tra, kiểm tra rừng và đấu tranh chống buôn lậu lâm sản.
Với phương châm “4 tại chỗ” đến nay, Thanh Hoá đã kiện toàn ban chỉ đạo (BCĐ) bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh; 27 BCĐ cấp huyện,  gần 400 BCĐ cấp xã, chủ rừng Nhà nước. Đồng thời chỉ đạo lực lượng PCCCR ở cơ sở, tập trung phát dọn thực bì làm giảm vật liệu cháy của 207 ha ở khu vực trọng điểm cháy rừng; rà soát 554,87 ha rừng thông ở các huyện đồng bằng, tổ chức giao cho hộ gia đình quản lý; phối hợp Cụm bản nước bạn Lào tổ chức 2 lớp huấn luyện chữa cháy rừng tại huyện Mường Lát... Phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy, MTTQ tỉnh thành lập trên 1.000 tổ dân vận thôn, bản làm nòng cốt trong công tác tuyên truyền BVR, PCCCR...
Bên cạnh đó, công tác thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng được chú trọng. 3 tháng đầu năm 2014, lực lượng kiểm lâm tỉnh đã phát hiện, xử lý 224 vụ vi phạm hành chính, tịch thu 157,471 m3 gỗ các loại; 284 kg động vật rừng; thu nộp ngân sách Nhà nước hơn 4,6 tỷ đồng.
Trong đó, phát hiện xử lý hành chính 67 vụ có nguồn gốc tỉnh ngoài vận chuyển qua Thanh Hóa, tịch thu 54,440 m3  gỗ xẻ các loại; 127 kg động vật rừng; thu nộp ngân sách Nhà nước hơn 2,9 tỷ đồng, chiếm 63% số thu toàn lực lượng. (Công An Thanh Hóa 22/4) đầu trang(
Theo tinh thần Công văn số 2702/VPCP-KTN, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã có ý kiến yêu cầu Bộ Công an tăng cường công tác chỉ đạo lực lượng Công an địa phương thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu gỗ, phá rừng, chống người thi hành công vụ, xử lý nghiêm các vụ án vi phạm theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài nguyên và Môi trường có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan địa chính địa phương tăng cường kiểm tra ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ vi phạm về đất đai, chấm dứt tình trạng "hợp thức hóa" đất phá rừng sang nhượng trái pháp luật.
Để bảo vệ rừng, huyện Nông Sơn (Quảng Nam) đã thành lập 30 tổ đội quần chúng bảo vệ rừng với 180 người tham gia. Các huyện vùng cao: Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, Tây Giang, Hiệp Đức..., cũng tăng cường kiểm tra, rà soát việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho các tập thể, cá nhân quản lý và bảo vệ.
UBND tỉnh An Giang vừa công bố Quyết định số 558/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch, Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu nhằm nâng độ che phủ của rừng (bao gồm rừng tập trung và cây lâm nghiệp phân tán) đến năm 2015 và ổn định đến năm 2020 là 22,4%. Bảo vệ và ngăn chặn tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép. Đến năm 2020, phải sử dụng và trồng hết diện tích đất chưa có khả năng trồng rừng, phát triển trồng cây phân tán, vườn rừng.
Tỉnh Quảng Ninh hiện có hơn 25 nghìn ha rừng đặc dụng, trong đó gần 90% diện tích đất có rừng, phần lớn là rừng tự nhiên. Nhờ chính sách bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, đến nay tất cả diện tích trên đã giao cho các đơn vị và đang được quản lý và bảo vệ tốt.
Đến nay, Hạt Kiểm lâm huyện Bù Đốp (Bình Phước) trồng được 8.950 cây rừng với diện tích 15 ha và tuyên truyền vận động 180 cán bộ, công nhân viên chức, đoàn viên thanh niên, học sinh tham gia trồng 1.130 cây rừng các loại. Bên cạnh đó, Hạt còn tổ chức trồng 10 nghìn cây gáo nước và 120 nghìn cây tràm trên diện tích 30 ha vùng bán ngập tại tiểu khu 72; tổ chức các tuyến tuần tra, bảo vệ các tiểu khu rừng phòng hộ, rừng sinh thái. (Nhân Dân 23/4) đầu trang(
Rừng Lim xanh ở huyện Cẩm Thủy là một trong những số ít rừng lim nguyên sinh còn sót lại ở nước ta. Trước tình trạng các rừng nguyên sinh ngày càng bị thu hẹp, các nguồn gien quý hiếm dần mất đi thì một hướng đi mới của hạt Kiểm lâm Cẩm Thủy đang xây dựng hứa hẹn sẽ đem lại những lợi ích trong việc bảo tồn nguồn gien quý hiếm này.
Cẩm Thủy là một huyện núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thanh Hóa. Huyện lỵ cách thành phố Thanh Hóa 70 km, có diện tích 425,03 km2, có dòng sông Mã chảy qua hơn 40 km. Đời sống của đại bộ phận nhân dân nơi đây chủ yếu dựa vào rừng. Hiện nay huyện Cẩm Thủy có hai xã Cẩm Thành và Cẩm Tú có diện tích rừng Lim khá lớn với 60 ha và đang được bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Đây là nơi bảo tồn được rừng lim mà chưa có nơi nào trên đất nước ta làm được.
Muốn bảo tồn được những cánh rừng ngoài việc ngăn cấm chặt phá thì cần phải nâng cao cuộc sống của người dân trong vùng bằng các nghề phụ để nâng cao thu nhập. Đây là cách làm sẽ đem lại hiệu quả bền vững cho những cánh rừng quý giá của Tổ quốc.
Hiểu được lợi ích từ rừng đem lại thời gian gần đây Hạt kiểm lâm Cẩm Thủy đã và đang thực hiện đề tài “ Nghiên cứu nuôi trồng nấm Linh chi cho năng suất cao trên gỗ khúc vùi lấp tại rừng lim xanh ở một số xã thuộc huyện Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa”. Với đề tài này sẽ hứa hẹn sẽ đem lại nghề trồng nấm Linh chi góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ rừng lim quý hiếm của tỉnh.
Theo các tài liệu của Trung Quốc, Linh chi còn gọi là thảo linh chi, thần chi, chi thảo là loại nấm Linh chi đỏ. Ở Trung Quốc được phân bố rộng rãi ở tỉnh Giang Tây, là loại thuốc quý truyền thống có lịch sử mấy nghìn năm, có giá trị dược liệu rất cao. Theo nghiên cứu dược lý hiện đại mấy chục năm của các cơ quan nghiên cứu đã chứng minh, linh chi có hiệu quả điều trị rõ rệt tăng khả năng miễn dịch của cơ thể, điều tiết đường huyết, khống chế áp suất máu, ức chế u bướu, bảo vệ gan, tăng cường trao đổi chất từ đó làm cho con người đạt đến cân bằng sức khỏe.
Hiện nay nấm Linh chi đã được trồng thử nghiệm trên 200 m2 và giao cho chi hội Cựu chiến binh thôn Phương Khánh xã Cẩm Thành tiến hành nuôi trồng thử nghiệm. Nếu thành công mô hình này sẽ được nhân rộng trên 30 ha. Ước tính nấm Linh chi sống trên 100 m2 gỗ sẽ cho thu hoạch 15 kg nấm Linh chi khô và nếu tính như vậy với 1000 m2 gỗ sẽ cho người trồng thu lãi trên 250 triệu đồng/ năm.
Theo giáo sư Trần Mão (Giáo sư đầu ngành nấm của Việt Nam, hiện đang giảng dạy tại Đại học Lâm Nghiệp  Hà Nội) cho biết: “ đây là một địa điểm trồng nấm lý tưởng cho năng suất và thu nhập cao”.
Chia sẻ về những lợi ích khi đề tài này thành công, ông Lê Chí Chiều, Hạt trưởng kiểm lâm huyện Cẩm Thủy( người thực hiện đề tài ) cho biết: “  Với đề tài này tôi đã ấp ủ từ lâu, nhìn thấy thực trạng đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn trong khi đó họ chỉ biết dựa vào rừng để sinh sống chính vì vậy tôi đã trăn trở rất nhiều để làm sao bà con nhân dân có thể gắn bó với rừng, khai thác rừng một cách hợp lý đem lại thu nhập cho bà con. Đây cũng là cách làm giúp nhân dân gắn bó với rừng, yêu và trân trọng rừng lim quý hiếm này còn sót lại ở nước ta”.
Nuôi trồng nấm linh chi có nhiều phương pháp trồng như: trồng vào bình miệng rộng chứa mùn cưa, trồng trên gỗ khúc xếp cũi, trồng vào gỗ khúc vùi đất nhưng một công nghệ mới nuôi trồng nấm Linh chi trên gỗ khúc mà hạt Kiểm lâm Cẩm thủy đang thử nghiệm có nhiều ưu điểm hơn: Thứ nhất sản phẩm nấm linh chi sẽ tốt hơn, dễ tiêu thụ hơn, hàm lượng đường và chất hữu cơ phong phú, tỷ lệ chuyển hóa sinh vật cao. Thứ hai hiệu quả kinh tế giá cả của nấm linh chi trên gỗ khúc đắt hơn trồng trên mùn cưa gấp nhiều lần.
Với những nỗ lực mà Hạt kiểm lâm Cẩm Thủy đã và đang làm để bảo vệ rừng lim quý hiếm của mình, đây là điểm sáng của ngành kiểm lâm Thanh Hóa trong việc bảo vệ và phát triển nguồn gien quý từ rừng. Hy vọng với đề tài mang tính hiệu quả, thiết thực như vậy sẽ đem lại những màu xanh, giúp bà con nhân dân thay đổi cuộc sống gắn bó và trân trọng những cánh rừng mà mình đang có. (Kinh Tế Môi Trường 21/4) đầu trang(
Theo dự báo của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Trung ương, năm 2014 tại Quảng Nam, Quảng Ngãi tình hình nắng nóng, khô hạn kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng rất cao.
Để chủ động đối phó với các vụ cháy rừng và bảo vệ rừng, các địa phương đang tăng tốc triển khai các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR), hạn chế thấp nhất thiệt hại khi có cháy rừng xảy ra.
Ngày 16-4, tại thôn Xuân Hòa, xã Phước Ninh, huyện Nông Sơn (Quảng Nam) đã xảy ra một vụ cháy rừng, làm thiệt hại khoảng gần 6ha rừng. Trước đó, vào khoảng 9 giờ ngày 14-4, tại khu vực Đá Rắn thuộc địa bàn thôn Phú Nham, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, 6 người dân của địa phương trong lúc đi khai thác gỗ để 6 chiếc xe máy cạnh bìa rừng, phủ lá che nắng bị lửa cháy thiêu rụi. Rất may lực lượng phòng cháy chữa cháy rừng của địa phương đã có mặt kịp thời khống chế đám cháy, không để cháy lan sang rừng.
Còn theo thống kê, từ năm 2000 đến nay trên địa bàn Quảng Nam đã xảy ra gần 100 vụ cháy rừng làm thiệt hại gần 500ha rừng. Quảng Ngãi, năm 2013, do tình hình thời tiết nắng nóng kéo dài nên đã xảy ra 7 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 4,9 ha rừng trồng.
Nguyên nhân các vụ cháy rừng nói trên được xác định là do việc sử dụng lửa bất cẩn của con người, thường là trong quá trình đốt thực bì làm rẫy, trồng rừng, đốt ong... Trong khi bước vào mùa nắng nóng, thời tiết hanh khô kéo dài nhiều ngày khiến nguy cơ cháy rừng rất cao.
Ông Đinh Viết Khánh, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Đông Giang (Quảng Nam) cho biết: "Dù đã chuẩn bị nhiều phương án PCCCR, nhưng nguy cơ cháy rừng vẫn luôn lơ lửng, nhất là vào những tháng trọng điểm mùa khô khoảng từ tháng 5 đến tháng 8, do ý thức PCCCR của người dân còn hạn chế.
Ngoài ra, lực lượng mỏng và trang thiết bị lạc hậu, thô sơ. Hạt Kiểm lâm Đông Giang mới chỉ trang bị các phương tiện thủ công như cuốc xẻng, rựa, giày dép, xô nhựa…, các dụng cụ chữa cháy chuyên dụng như máy phun nước, máy thổi gió vẫn chưa có nên rất khó xử lý khi có cháy lớn xảy ra.
Trong khi đó vào mùa khô, hệ thống nước khe suối đều cạn kiệt, việc tìm kiếm nguồn nước để ứng cứu, dập cháy cũng rất khó khăn. Chưa nói nếu xảy ra cháy rừng với địa hình có độ dốc lớn, lực lượng mỏng, trang bị thô sơ thì khó có thể ứng cứu, chữa cháy kịp thời”.
Tỉnh Quảng Nam có trên 500.000/ha diện tích rừng tự nhiên và 120.000ha rừng trồng, rừng phục hồi. Tỉnh Quảng Ngãi có hơn 250.000ha rừng; trong đó gần 120.000ha rừng trồng. Hiện nay 2 địa phương này đã và đang triển khai những biện pháp cấp bách PCCCR.
Tại Quảng Ngãi, ở 123/123 xã trọng điểm có nguy cơ cháy rừng đã thành lập các tổ đội bảo vệ rừng (gồm các nhóm hộ có rừng liền kề) và cử ra nhóm trưởng chịu trách nhiệm để khi có xảy ra cháy rừng thì huy động lực lượng chữa cháy nhanh gọn, hiệu quả. Tỉnh Quảng Ngãi đã củng cố hơn 170 Ban chỉ huy và gần 700 tổ, đội phòng chống cháy rừng. Như tại huyện Ba Tơ, ngoài việc phân công hơn 20 kiểm lâm viên về đứng chân tại các xã, Hạt kiểm lâm huyện còn hợp đồng mỗi xã 1 người dân tham gia bảo vệ rừng, chủ yếu là diện tích rừng trồng.
Các địa phương hai tỉnh cũng đã và đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân cư về bảo vệ rừng và PCCCR. Củng cố, tăng cường và duy trì hoạt động của Ban Chỉ đạo về Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng các cấp; nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, cán bộ Lâm nghiệp xã và tổ, đội quần chúng tham gia bảo vệ rừng.
Ông Nguyễn Đại - Phó Chi cục Kiểm lâm Quảng Ngãi cho biết: Bằng các giải pháp thành lập nhóm bảo vệ rừng liền kề và khi có hộ nào đốt thực bì dưới tán rừng thì phải báo với chính quyền địa phương cùng kiểm lâm địa bàn biết trước và phải phát dọn ranh đốt nhằm chống cháy lan. Việc báo trước này tiện lợi cho việc giám sát và kịp thời xử lý các tình huống có thể xảy ra, tiết kiệm được nhân lực, kinh phí.
Tuy nhiên, nếu công tác giám sát, kiểm tra việc đốt thực bì không chặt chẽ cũng như việc tuyên truyền cho người dân về nâng cao ý thức trong việc đốt nương làm rẫy, trồng rừng, bảo vệ rừng không cao thì cháy rừng vẫn là câu chuyện nhãn tiền, là nỗi lo lớn của các địa phương hiện nay. (Đại Đoàn Kết 22/4) đầu trang(
Thông Tin Nhanh Qua Đường Dây Nóng trên báo Nhân Dân phản ánh: Tình trạng đốt, phá rừng làm nương ở xã Tú Nang (Yên Châu, Sơn La) chưa được ngăn chặn dứt điểm, gây cạn kiệt tài nguyên rừng. (Nhân Dân 23/4) đầu trang(
Hàng trăm hộ dân hai xã Phan Sơn, Phan Lâm huyện Bắc Bình tham gia nhận khoán bảo vệ rừng; nhưng việc bảo vệ rừng ngày càng khó khăn do các đối tượng lâm tặc rất manh động. Nhiều hộ dân bị bọn lâm tặc đốt chòi canh, thậm chí cầm hung khí vào khu vực người dân sinh sống “thị uy”…
Ở khu vực giáp ranh giữa hai xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình và xã Ninh Loan (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), tình trạng phá rừng đang diễn ra khá phức tạp. Các đối tượng lâm tặc ngày càng tinh vi trong phương thức hoạt động. Chúng lựa chọn những khu vực rừng sâu, địa hình phức tạp để khai thác nhằm gây khó khăn cho lực lượng chức năng tiếp cận. Các đối tượng lâm tặc đầu tư mua xe kéo công suất lớn để có thể vận chuyển gỗ lậu khỏi nơi khai thác một cách nhanh nhất.
“Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, xã Phan Sơn đã tích cực vận động người dân bảo vệ rừng. Người dân thực sự đã trở thành những người bảo vệ rừng tích cực, cung cấp thông tin chính xác cho các ngành chức năng triệt phá các điểm khai thác gỗ lậu. Nhưng người dân hiện nay đang gặp phải sự “khủng bố” của các đối tượng lâm tặc…” ông Lai A Sang, Chủ tịch UBND xã Phan Sơn cho biết.
Theo một số người dân đang canh tác tại khu vực giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng thì hiện nay các đối tượng khai thác gỗ trái phép rất manh động. Nếu người dân đuổi hay báo chính quyền thì bọn chúng sẵn sàng đốt chòi canh, đe dọa người dân. Thậm chí, một số đối tượng còn mang theo hung khí đến tận khu vực dân cư vào ban đêm để dọa, gây hoang mang cho người dân.
“Hiện nay, muốn ngăn bọn lâm tặc không phá rừng thì người dân phải đi rất đông, áp đảo bọn chúng thì mới đuổi được. Còn lực lượng ngang bằng hay ít hơn là chúng quay lại dùng hung khí, máy cưa tấn công người dân. Những cuộc rượt đuổi như vậy thường xuyên xảy ra… Một số hộ dân thường xuyên chống bọn lâm tặc thì bị chúng đốt rẫy, chòi canh…”, ông K’ Tâm, một hộ dân ở xã Phan Sơn cho biết.
Do đặc điểm rừng giáp giữa Bình Thuận và Lâm Đồng khá đặc biệt nên khó cho các lực lượng chức năng tỉnh Bình Thuận trong việc vây bắt bọn lâm tặc. Địa hình núi cao ở phía Bình Thuận nhưng lại là vùng thấp của Lâm Đồng, do vậy bên kia bìa rừng thuộc các huyện giáp ranh tỉnh Lâm Đồng, tập trung khá đông dân di cư từ các tỉnh phía Bắc vào định cư; chính số dân di cư là đối tượng trực tiếp móc nối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số địa phương để cùng thực hiện phá rừng khu vực giáp ranh. Các đối tượng ngoài khai thác các loại gỗ quý hiếm như gõ, đinh hương, cẩm lai… còn đặt bẫy bắt thú quý hiếm khu vực giáp ranh...
Công tác kiểm tra, truy quét khu vực giáp ranh cũng đang gặp khó khăn do địa hình xa, hiểm trở; nguy hiểm hơn là lâm tặc manh động luôn tìm cách đối phó, thậm chí sẵn sàng chống trả với lực lượng bảo vệ rừng. “
Cùng có rừng giáp ranh với Bình Thuận nhưng phía giáp ranh với huyện Di Linh thì hai bên phối hợp khá tốt. Còn ở vị trí giáp ranh với huyện Đức Trọng thì tình hình phá rừng lại nhiều. Việc phối hợp giữa hai bên ở khu vực này chưa thực sự chặt chẽ. Nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra chưa đến vị trí khai thác gỗ, lâm tặc đã biết và tẩu táng tang vật. Người dân xã Phan Sơn đề nghị chính quyền hai bên cần có những biện pháp phối hợp chặt chẽ hơn. Còn như hiện nay thì rừng giáp ranh chẳng mấy năm nữa là bị xóa…” - ông Lai A Sang đề nghị. (Báo Bình Thuận 21/4) đầu trang(
Nhiều năm liền, một công ty đóng tàu âm thầm lấn đất, phá rừng phòng hộ ở Thái Bình để mở rộng diện tích đất sở hữu. Những hành vi trái phép trên đã được người dân phát hiện và phối hợp với chính quyền chặn đứng.
Đến thăm xã ven biển Thuỵ Hải, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình, chỉ cần nhắc đến hai chữ “Đại Dương”, hầu hết người dân đều bức xúc kể về việc lấn chiếm đất dai dẳng, bất chấp pháp luật cũng như bỏ qua an nguy tính mạng con người của công ty đặt trụ sở Nhà máy đóng tàu Đại Dương trên địa bàn xã.
“Công ty Đại Dương mua 8ha đầm của dân, sau đó, lấn ra bên ngoài 100m. Họ còn lấn vào rừng, ủi những cây to 10 – 15 tuổi, chiều dài lấp có lẽ phải đến 2 km,” ông Lê Đức Kháng, trông coi bãi xe tại cửa rừng ngập mặn Thuỵ Hải ước lượng.
Đối với người bảo vệ có thâm niên 13 năm làm việc tại bãi xe cũng như cộng đồng dân cư và lãnh đạo xã Thuỵ Hải, rừng ngập mặn có vai trò đặc biệt quan trọng, nếu không nói là có ý nghĩa sống còn với người dân địa phương. “Từ ngày có rừng, chúng tôi không sợ bão, dù là bão cấp 12 hay cấp 15”, ông Kháng khẳng định.
600 ha rừng vẹt, bần chạy dài, bao bọc suốt chiều dài bãi biển như con đê xanh mềm, giảm sức công phá dữ dội của sóng biển mỗi khi bão về.
Gần 30 năm về trước, do quai đê lấn biển để mở rộng diện tích đất, Thuỵ Hải đã phá toàn bộ rừng ngập mặn và người dân đã phải chịu trái đắng không lâu sau đó. “Năm 1985, Thuỵ Hải đã phá vẹt thực hiện quai đê lấn biển Xuân Hải. Khoảng hai năm sau, bão lớn phá tan đê và nhấn chìm toàn xã trong biển nước. Do người dân phải gánh bão nên họ hiểu thế nào là mất rừng”, ông Nguyễn Công Nhần, Chủ tịch UBND xã Thuỵ Hải cho biết. “Nếu không có rừng, nước thuỷ triều ra vào tự nhiên, sóng phải cao đến 3,6m.”
Bên cạnh đó, rừng ngập mặn càng phát triển, tôm, cá, don và cáy càng nhiều. Nhờ vậy, mang đến nguồn thu nhập ổn định của người dân trong xã cũng như bà con ở các xã lân cận. Thuỵ Hải không có đất nông nghiệp. Hơn 90% người dân sống phụ thuộc vào nguồn lợi thuỷ hải sản. Gần như 24/24h, lúc nào cũng có người khai thác ven rừng. “Người dân vào rừng ngập mặn kiếm ăn quanh năm. Một ngày bắt tôm cáy cũng kiếm được 100.000 – 150.000 đồng/ngày”, ông Kháng cho biết: “Ngày nào cũng có thức ăn”.
Hiện nay, thu nhập trung bình của người dân trong xã khoảng 24 triệu/năm. Tỷ lệ hộ nghèo trong 10 năm trở lại đây giảm hẳn và đến nay, đạt tỷ lệ 2,4%
Chính vì rừng ngập mặn có lợi ích sát sườn như vậy, ngay khi Công ty cổ phần Đại Dương tiến hành lấn chiếm, người dân chủ động thông tin cho chính quyền xã. “Khi thấy họ dùng máy ủi san lấp, người dân phát hiện và báo cho xã. Trong ba năm liền, công ty cố tính cắm cọc lấn đất nhưng xã không đồng ý.
Ông Nhần, giữ cương vị lãnh đạo xã hơn 10 năm, nhớ lại. “Chúng tôi cung cấp đường dây điện thoại nóng để dân phản ánh”. Được sự hỗ trợ thông tin liên tục của cộng đồng đi biển, chính quyền xã đã phối hợp với các cơ quan chức năng kiên trì giám sát và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trên.
Theo Chi cục Kiểm lâm Thái Bình, tính đến ngày 16/11/2012, công ty đã lấn chiếm 4.310m2, trong đó có 1.290m2 rừng phòng hộ. Ông Đỗ Quang Dương, đại diện Công ty cổ phần Đại Dương đã ký biên bản thừa nhận hành vi trái phép của công ty.
Ngày 19/11/2012, Chi cục đã ra quyết định xử phạt Công ty cổ phần Đại Dương 11 triệu đồng do phá rừng phòng hộ trái pháp luật. Trong quyết định, Chi cục trưởng Phạm Quang Tân khẳng định công ty đã vi phạm điều 17, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 01/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Tuy nhiên, quyết định xử phạt không khiến những người đứng đầu công ty dẹp bớt lòng tham. Họ vẫn âm thầm thuê người dân ở các địa phương khác đến để đóng cọc, san đất lấp vẹt. Do dân Thuỵ Hải đi biển gần như 24/24 nên những hành vi gây hại đến rừng vẹt, bần – nguồn sống của cộng đồng ngư dân đều bị phát hiện và được thông báo đến tổ bảo vệ cũng như những người có trách nhiệm trong xã.
“Chúng tôi nhận được không dưới 10 lần/năm báo cáo của dân liên quan đến rừng ngập mặn, trong đó, chủ yếu là xâm lấn đất rừng”, ông Nhần, lãnh đạo xã gần 20 năm cho biết. “80% thông tin dân cung cấp đúng sự thật.”
Nhờ đó, những biện pháp mạnh đã được đưa ra. Ngày 16/7/2013, UBND xã Thuỵ Hải đã lập đoàn kiểm tra để xác minh ý kiến của nhân dân phản ánh việc công ty Đại Dương san lấp đất rừng ngập mặn, làm ảnh hưởng và chết vẹt giáp ranh với công ty.
Theo đó, “toàn bộ số cột điện của công ty từ lối đi ra biển khu vực 7 đến âu sửa tàu của công ty đã dịch chuyển ra phía rừng vẹt” và “công ty đã san lấp đất vào diện tích đất và rừng ngập mặn do UBND xã quản lý”. UBND xã đã yêu cầu công ty dừng ngay những hoạt động trên và khẳng định “nếu công ty cố tình san lấp ra rừng ngập mặn, gây mất tình hình an ninh trật tự, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân thì công ty hoàn toàn chịu trách nhiệm.”
“Tháng 12. 2013, công ty Đại Dương chôn cọc nhằm mở rộng đất, chúng tôi đã nhổ hết cọc trước sự chứng kiến của nhân dân và các cơ quan có trách nhiệm”, ông Trần Thanh Sơn, trưởng thôn Quang Lang Đoài cho biết. Thôn Quang Lang Đoài có nhiều người dân sống dựa vào rừng ngập mặn nhất trong xã. Ông Sơn cũng là công an viên, tham gia đội bảo vệ rừng.
Từ đó đến nay, theo ghi nhận của người dân và chính quyền xã, công ty Đại Dương đã chấp hành đầy đủ, ngừng việc san lấp trái phép. Tuy nhiên, nhiều người dân chưa thực sự hài lòng, họ mong muốn có thể lấy lại diện tích đất đã mất. “Hầu như trong cuộc họp nào của thôn xã, chúng tôi cũng đề nghị làm rõ diện tích đất đã mất ở gần rừng ngập mặn”, ông Nguyễn Xuân Vinh, một người dân đi biển gần 50 năm cho biết.
Theo thông tin mới nhất, UBND xã Thuỵ Hải đang làm việc với các cơ quan cấp trên về việc khôi phục diện tích rừng đã mất. “Chúng tôi đang đề nghị tỉnh và huyện trồng lại diện tích lấn”, ông Nguyễn Công Nhần, Chủ tịch UBND xã Thuỵ Hải cho biết.
Không chỉ chặn đứng lòng tham đất của doanh nghiệp, cộng đồng địa phương còn thường xuyên cảnh cáo những người đi biển có ý định phá vẹt, bần. Đồng thời, những hành động xâm phạm rừng trái phép cũng thường xuyên được đề cập và đấu tranh đến cùng trong các cuộc họp cấp thôn, xã. Đơn cử như năm 2007, người dân đã đoàn kết đấu tranh di chuyển một nhà máy cá bột ra khỏi địa bàn xã do nhà máy này thải khí bẩn ô nhiễm môi trường và xả nước thải không xử lý ra khu vực biển có rừng.
Người dân đấu tranh thành công nhờ họ nhìn thấy lợi ích thiết thực của rừng ngập mặn và biết đồng lòng trong hành động. Bởi ông Vinh, ông Kháng và những người dân luôn tâm niệm:  “Rừng là của mình, mình bảo vệ nó, nó bảo vệ mình”. Cách đây không lâu, người dân thống nhất không nuôi ngao tư nhân, tất cả mọi cá nhân đều có quyền khai thác thuỷ hải san dọc theo bờ.
“Chúng tôi không đồng ý làm ngao ngoài rừng ngập mặn. Bởi vì, hồi đó, có 13 cơ sở định thuê người rào dây thép gai dọc bờ biển khoảng 4-5km. Nếu rào vậy, người đi biển gặp mưa không thể chạy về kịp”, ông Lê Đức Kháng cho biết.
Người Thuỵ Hải đã thực sự phát huy tinh thần làm chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Và chính quyền địa phương đã thực sự lắng nghe tiếng nói từ cơ sở. Tinh thần trách nhiệm và quyết tâm bảo vệ rừng ngập mặn đến cùng của người dân Thuỵ Hải đã giúp giảm các vụ vi phạm, ổn định diện tích rừng trồng mới, theo ông Đinh Hải Lục, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Thái Bình. (Đài PTTH Hà Nội 23/4) đầu trang(
Vườn chim Bạc Liêu dự báo cháy rừng cấp V - cấp cực kỳ nguy hiểm
Theo ông Nguyễn Trung Chánh, Giám đốc Vườn chim Bạc Liêu, khu vực Vườn chim Bạc Liêu đang dự báo cháy cấp V - cấp cực kỳ nguy hiểm.
Cán bộ, công nhân viên vườn chim đang tăng cường bơm nước vào hệ thống kênh chứa nước trong khu vực vườn chim. Đồng thời, để tạo độ ẩm, cứ cách 3 ngày, lực lượng phòng cháy tại chỗ của vườn chim bơm tưới nước giữ ẩm một số khu vực có nguy cơ cháy cao. Tăng cường công tác canh phòng để kịp thời phát hiện và xử lý, không để xảy ra cháy.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân sống ở khu vực gần vườn chim ý thức hơn trong phòng chống cháy rừng. (VTV Cần Thơ 22/4) đầu trang(
Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội vừa ban hành công văn số 613/SNN-CN gửi UBND các quận, huyện, thị xã và Chi cục Kiểm lâm về việc tăng cường chỉ đạo và thực hiện các biện pháp kiểm soát, bảo tồn các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm.
Theo đó, Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đề nghị:
Với UBND các quận, huyện, thị xã:
Chỉ đạo và quán triệt toàn thể nhân dân trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo tồn loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm theo quy định của Nhà nước và Công ước quốc tế về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES); đặc biệt không mua, bán, sử dụng, cất giữ, tặng cho hay nhận quà biếu là các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm.
Nghiêm cấm săn bắn, bẫy, bắt, nuôi nhốt, giết mổ, vận chuyển, chế biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng trữ động vật hoang dã có nguồn gốc tự nhiên và sản phẩm của chúng. Mọi tổ chức, cá nhân vi phạm tuỳ theo tính chất, mức độ đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định của pháp luật về quản lý và bảo tồn động vật hoang dã, các biện pháp xử lý khi vi phạm qui định về bảo vệ và phát triển động vật hoang dã theo qui định; tổ chức kiểm tra, ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về săn, bắn, mua, bán, vận chuyển, nuôi, giết mổ, kinh doanh, tàng trữ, xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu các loài động vật hoang dã và sản phẩm, dẫn xuất trái pháp luật và các quy định của CITES; động viên, khuyến khích việc thông báo, tố giác các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm lâm tới cơ quan kiểm lâm hoặc UBND các cấp.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tại các nhà hàng, quán ăn, các chợ, các điểm kinh doanh, các khu dân cư, các hộ đang nuôi nhốt các loài hoang dã… để phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm quy định về mua, bán, vận chuyển, nuôi, chế biến, quảng cáo trái phép về các loài hoang dã.
Tích cực phối hợp, hỗ trợ cơ quan Kiểm lâm tăng cường kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo vệ và phát triển động vật hoang dã. Chủ tịch UBND cấp dưới, Trưởng Ban quản lý chợ chịu trách nhiệm trước UBND cấp trên nếu để xảy ra tình trạng mua – bán, vận chuyển, nuôi nhốt, chế biến, kinh doanh trái phép động vật hoang dã và sản phẩm động vật hoang dã trên địa bàn quản lý mà không có biện pháp xử lý kiên quyết.
Với Chi cục Kiểm lâm Hà Nội
Chỉ đạo các hạt kiểm lâm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và ngăn chặn kịp thời tình trạng buôn bán, vận chuyển và nuôi, giữ động vật hoang dã, quý, hiếm trái phép và sản phẩm động vật hoang dã trái phép trên địa bàn phụ trách.
Rà soát, lập danh sách các cơ sở gây nuôi động vật hoang dã được cấp phép và quản lý tốt các hộ nuôi theo Nghị định số 82/2006/NĐ-CP ngày 10/8/2006 của Chính phủ.
Hướng dẫn tổ chức, cá nhân trong việc cấp giấy phép gây nuôi động vật hoang dã theo các quy định của pháp luật.
Phối hợp với UBND quận, huyện, thị xã và các cơ quan hữu quan tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tại các quán ăn, nhà hàng, khách sạn, các tụ điểm kinh doanh, các tuyến đường giao thông, các khu dân cư, các tổ chức, hộ gia đình đang nuôi nhốt, kinh doanh, chế biến, quảng cáo trái phép động vật hoang dã và sản phẩm của chúng.
Phối hợp với cơ quan truyền thông  tuyên truyền sâu rộng các qui định của pháp luật về động vật hoang dã đến cộng đồng; tăng cường tuyên truyền những điển hình tốt về bảo tồn, kiểm soát buôn bán động vật hoang dã; tích cực phát hiện và lên án mạnh mẽ những hành vi, việc làm trái quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế về bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm
Tăng cường kiểm soát các hoạt động săn bắt và buôn bán động vật hoang dã, xây dựng mạng lưới trao đổi thông tin, kiểm soát nguồn gốc, phối hợp với Trung tâm cứu hộ động vật Hà Nội tổ chức cứu hộ, kiểm dịch và thả lại rừng. (Khuyến Nông HN 22/4) đầu trang(
Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 63 vụ vi phạm quy định quản lý và bảo vệ rừng.
Trong đó, 2 vụ vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản khác, 45 vụ vi phạm quy định mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép và vi phạm khác. Tang vật tịch thu 19,60 m3 gỗ, gồm: 2,8 m3 gỗ tròn quý hiếm; 8,74 gỗ tròn các loại; 1,8 m3 gỗ xẻ quý hiếm và 10,86 m3 gỗ xẻ các loại. 15 vụ về phòng cháy chữa cháy rừng gây thiệt hai 9,50 ha rừng phòng hộ và 14,15 ha rừng sản xuất…(Báo Cao Bằng 22/4) đầu trang(
Hàng năm vào tháng 3 tháng 4, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Quảng Nam bước vào mùa phát rẫy làm nương. Để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng cháy rừng do đốt rẫy gây ra, chính quyền và lực lượng kiểm lâm các địa phương đã và đang đẩy mạnh công tác tuần tra giữ rừng kết hợp với tuyên truyền, vận động đồng bào trong công tác quản lý bảo vệ rừng.
Nhờ vậy đến thời điểm này ở Quảng Nam chưa để xảy ra một vụ cháy rừng nào nhiêm trọng.
Sau hơn một tuần phát dọn, hôm nay gia đình ông A Vô Đhươi ở thôn A Ung xã Bha lêê cùng nhiều hộ gia đình người Cơ Tu ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam chính thức đốt rẫy cũ để chuyển sang trồng lúa Ba Trăng - một giống lúa được trồng trên rẫy ở huyện miền núi cao này.  Tuy diện tích lúa nước được mở rộng hàng năm nhưng tập quán “phát-đốt-chọc-tỉa”, sống dựa vào rừng đã có từ lâu đời của người Cơtu nên tình trạng đốt rẫy để sản xuất vẫn còn tồn tại.
Ông A Vô Đhươi ở thôn A Ung xã Bha lêê, huyện Tây Giang, Quảng Nam: Người Cơtu mình ở đây đã quen với phát rẫy, đốt rẫy để tỉa lúa rồi, nếu không làm thì không có cái ăn. Bây giờ nhà nước không cho phát rừng già để làm rẫy nữa, mình chỉ phát lại rẫy cũ, rừng dế thôi, năm nay nhà mình sẽ gieo lúa trên 2 rẫy vừa mới phát dọn đó.
Ông Ria Trao, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Tây Giang, Quảng Nam: Hiện nay các địa phương giao kế hoạch sản xuất nương rẫy giảm hẳn, có một số xã như A Nông không giao chỉ tiêu cho sản xuất nương rẫy nữa, mà chuyển qua trồng cao su, thâm canh lúa nước và một số loại cây hoa màu khác.
Những ngày này, đi trên các tuyến đường về các huyện miền núi Quảng Nam, ở đâu cũng sẽ bắt gặp hình ảnh đồng bào phát nương, đốt rẫy chuẩn bị cho vụ lúa chính trong năm. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động và hỗ trợ kịp thời nên nhiều hộ gia đình đồng bào ở các huyện vùng cao …đã hưởng ứng chủ trương hạn chế phát rừng làm nương rẫy, chuyển qua trồng cây cây cao su, mở rộng diện tích lúa nước.
Ông Blúp Xấu - thôn A Giốc, xã Bha lêê, Tây Giang, Quảng Nam: Mình đốt rẫy, có làm đường băng cản lửa, có đứng xem chừng nên cũng không lo cháy rừng. Từ đầu vụ đốt rẫy đến nay ở xã Bha lêê chưa xảy ra vụ cháy rừng nào. Tuy vậy nếu có nhiều người cùng đốt rẫy cùng lúc thì cũng nguy hiểm nên phải cảnh giác.
Ông Ria Trao, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Tây Giang, Quảng Nam: Là tháng cao điểm trong mùa đốt rẫy, đến hôm nay hơn 90% hộ dân đã đốt rẫy rồi nhưng không ảnh hưởng xảy ra cháy rừng do sự chuẩn bị công tác phòng cháy chữa cháy rừng của kiểm lâm địa bàn, tham mưu đắc lực cho chính quyền địa phương tốt, hầu như tại các địa phương, phát đốt nương rẫy là không cháy lan vào rừng già, rừng phòng hộ đầu nguồn.
Phát rừng làm nương rẫy từ lâu đã là một tập quán canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Nam, tập quán này không những gây nguy cơ cháy rừng cao mà còn gây mất cân bằng sinh thái, tận diện hệ động thực vật rừng. Vì vậy phát triển diện tích lúa nước và phát triển cây công nghiệp là giải pháp cơ bản nhất để ngăn chặn nạn cháy rừng do đốt rẫy gây ra. (Đài PTTH Lâm Đồng 22/4) đầu trang(
Diện tích 7,8 ha đất điều nằm tại ấp 7, xã Bom Bo (Bù Đăng) được ông Đinh Văn Thành thu hoạch hơn 10 năm nay. Nhưng cũng nhiều năm qua, cứ vài năm lại xảy ra một trận ẩu đả “tranh chấp chủ quyền” giữa ông Thành và ông Phạm Duy Khải, ngụ khu Tân Hưng, thị trấn Đức Phong (Bù Đăng).
Thế nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa giải quyết dứt điểm khiến mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng bị khoét sâu. đặc biệt, khu đất của hai ông Khải và Thành tranh chấp lại là… đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước.
Đến khu đất đang tranh chấp, PV không khỏi đồng cảm với cảm giác xót xa của chính quyền xã, những người tranh chấp khi trái điều có hạt rụng đầy mặt đất mà không người nhặt. Nhiều quả điều đã khô chỉ trơ lại hạt nằm trên đất. Các lối đi vào rẫy cũng thấy điều rụng còn trơ hạt.
Trước năm 2000, ông Phạm Ngọc Thức (54 tuổi), ngụ ấp 7, xã Bom Bo (nay ông Thức đã chuyển đến Đắk Nông sinh sống) kết nghĩa anh em với ông Phạm Duy Khải (43 tuổi), ngụ khu Tân Hưng, thị trấn Đức Phong (Bù Đăng). Sau đó, ông Thức giới thiệu cho ông Khải làm quen với ông Đinh Văn Thành (45 tuổi), ngụ cùng ấp 7 và họ đã cùng khai phá 11,7 ha đất rừng phòng hộ (RPH) Bom Bo.
Sau nhiều năm hợp tác làm ăn, ngày 1-6-2005, ông Khải đưa người vào phần đất mà ông Thành và ông Thức đang canh tác chung rồi đốt căn nhà vách ván lợp tôn mà gia đình ông Thành đang ở. Tất cả tài sản của ông Thành bay theo tàn tro. Lý giải với Công an xã Bom Bo về việc đốt nhà, ông Khải trình bày là do ông Thành dựng nhà trên đất của ông.
Ông Khải còn cho biết: Từ năm 1999 đến 2001, ông đã khai phá và sang nhượng thêm của các hộ dân khoảng 30 ha đất tại các tiểu khu 151 và 154. Ngày 1-12-2001, ông đã cho ông Thành mượn 7,8 ha (trong tổng 30 ha) để trồng mì. Thời hạn 3 năm cho mượn đã hết mà ông Thành không trả đất như thỏa thuận.
Ông Thành thì một mực khẳng định: “Tôi, ông Thức và ông Khải đã thỏa thuận cùng phá rừng rồi chia ba. Khi khai phá, chủ yếu tôi và ông Thức làm trực tiếp, còn ông Khải hỗ trợ 300 ngàn đồng/ha và canh chừng kiểm lâm. Tổng diện tích 3 người phát được là 11,7 ha. Nghe thông tin phần đất khai phá sẽ bị Nhà nước thu hồi giao Công ty cao su Phú Riềng trồng cao su, nếu có sổ xanh (sổ giao khoán) sẽ được đền bù nên ông Khải bảo tôi và ông Thức ký vào giấy tờ ông Khải đã soạn sẵn với nội dung mượn đất của ông Khải thì mới làm được sổ xanh. Tôi nghe theo nên đã ký nhưng ông Thức thì không chịu. Chờ mãi vẫn không thấy ông Khải làm được sổ xanh nên tôi và ông Thức đã chia cho ông Khải 4 ha, còn 8,7 ha chúng tôi làm chung. Đã được chia phần nhưng sau khi sang nhượng cho người khác, ông Khải lại nổi lòng tham muốn chiếm luôn đất này”.
Đây là vụ việc làm đau đầu chính quyền xã Bom Bo suốt 10 năm qua. Ông Lê Đức Đặng, Phó chủ tịch UBND xã Bom Bo khẳng định: “Từ 2005 đến nay, năm nào xã cũng phải hòa giải việc tranh chấp này, nhưng đều không thành”.
Trao đổi về việc tranh chấp đất giữa ông Khải và ông Thành, luật sư Dương Vĩnh Tuyến, Trưởng văn phòng luật sư Dương Chí khẳng định: “Tờ giấy mà ông Thành ký mượn đất với ông Khải không có giá trị pháp lý. Bởi vì thời điểm đó, ông Khải không có đất cho ông Thành mượn. Trên góc độ pháp luật thì hai ông đều là những người lấn chiếm đất RPH do Ban quản lý RPH Bom Bo (nay thuộc Ban quản lý RPH Bù Đăng) quản lý.
Ông Khải khẳng định mình khai phá và sang nhượng của người dân xung quanh gần 30 ha. Sau khi “lỡ” làm mất rừng và chưa xử lý theo quy định của pháp luật thì khi UBND tỉnh quy hoạch chuyển đổi 3 loại rừng, Ban quản lý RPH Bom Bo lại làm điều khó hiểu là lập hợp đồng giao khoán cho ông Khải và các ông Ngộ, Phúng theo số 01/2008, 02/2008 và 01/2009.
Và đây chính là nguồn cơn dẫn tới việc ông Thành quyết tâm theo đuổi khiếu nại tới cùng. Bởi lẽ, ông Khải thường trú tại thị trấn Đức Phong thì được ưu tiên giao khoán, còn ông Đinh Văn Thành là người có hộ khẩu tại ấp 7, xã Bom Bo (nơi có diện tích đất đang tranh chấp) lại không được giao khoán. Đáng nói hơn là gia đình ông Thành phải dựng tạm nhà trên chính khu đất tranh chấp để sinh sống vì không có đất nào khác.
Ngày 24-3-2011, UBND tỉnh ra Quyết định số 610/QĐ-UBND nêu rõ: Công nhận Quyết định số 2568, ngày 24-8-2010 của Chủ tịch UBND huyện Bù Đăng về giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Phạm Duy Khải (đại diện ba hộ trên) với ông Đinh Văn Thành là đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, ông Khải không căn cứ vào nội dung Quyết định số 610 mà chỉ căn cứ vào một nội dung nhỏ trong phần kết luận điều tra khẳng định ông Khải đã được Ban quản lý RPH Bom Bo ký hợp đồng giao khoán để đòi quyền lợi.
Thửa đất 7,8 ha trong thực tế không được cơ quan có thẩm quyền quản lý nên cả ông Khải và ông Thành ra sức giành giật về mình. Từ đó dẫn tới nhiều lần xô xát. Gần đây nhất là sáng 6-3-2014, ông Khải đưa trên 10 người tới nhặt điều trên phần đất tranh chấp. Khi ông Khải và nhóm người nhặt được khoảng 1 tạ hạt thì Công an xã Bom Bo cùng đại diện thôn 7 đến lập biên bản đưa về xã. Kể từ ngày 6-3 đến nay, ông Khải đã đưa một nhóm người vào mắc võng, ăn ngủ ngay tại vườn điều để canh giữ không cho ông Thành nhặt điều. (Báo Bình Phước 23/4) đầu trang(
Hơn 20 gắn bó với đất rừng U Minh, cũng ngần ấy thời gian ông Hai Thi (Nguyễn Chánh Thi, ấp 14, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh đồng hành với công tác phòng, chống cháy rừng.
Kinh nghiệm phòng, chống cháy và đã từng tham gia nhiều vụ chữa cháy rừng giúp ông Hai Thi luôn tin tưởng vào những phán đoán của mình về mức độ an toàn trong những mùa khô đã qua.
Ông Hai Thi đang là Tổ phó Tổ phản ứng nhanh phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) của ấp. Ông luôn gương mẫu trong công tác phòng, chống cháy rừng đối với diện tích rừng thuộc gia đình quản lý.
Ông Hai Thi cho biết, ông không bao giờ quên được trận cháy lớn vào năm 1992. Khi đó ông mới chân ướt chân ráo từ xã Tân Hưng, huyện Cái Nước đến nhận đất nhận rừng ở đây. Trận cháy đã thiêu rụi hoàn toàn gần 5 ha rừng của gia đình ông cũng như hàng ngàn héc-ta đất rừng của các hộ khác.
Ông Hai Thi trần tình: “Thật kinh khủng. Chứng kiến cảnh cháy năm đó, tôi bị ám ảnh cho đến bây giờ. Toàn bộ cây rừng bị cháy đen, chỉ còn làm chất đốt. Gia đình tôi phải bắt tay trồng lại tràm, tốn chi phí rất lớn”. Từ vụ cháy gây thiệt hại tài nguyên rừng năm đó, ông Hai Thi luôn tự nhủ, không bao giờ để xảy ra cháy diện tích rừng của gia đình cũng như luôn có ý thức bảo vệ cho đất rừng của những hộ xung quanh.
Tổ phản ứng nhanh PCCCR của ông Hai Thi đã từng được tăng cường giúp sức chữa nhiều vụ cháy ở các khu vực khác những năm trước. Ông Hai Thi bộc bạch: “Tốt nhất không nên để xảy ra cháy rừng. Các vụ cháy mà tôi tham gia chữa đều đã gây thiệt hại rất lớn đến tài sản của hộ dân. Cây rừng bị cháy thì chỉ còn đem đi hầm than chớ bán cho xây dựng đâu có được, như vậy thiệt hại thuộc về người dân”.
Theo ông Hai Thi, việc bảo vệ rừng khỏi cháy phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức của người dân. Người dân phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về phòng, chống cháy mỗi khi vào rừng, sử dụng lửa phải đúng quy định và mỗi hộ dân phải bảo vệ an toàn cho đất rừng của mình trước và cùng cộng đồng trách nhiệm quản lý với mọi người.
Đưa chúng tôi đi xem 3 ha rừng thâm canh đã đến chu kỳ khai thác, ông Hai Thi cho biết, nhờ đám mưa lớn của mấy ngày trước nên dưới kinh có nước bơi được xuồng, chứ trước đó toàn bộ kinh mương đã khô cạn đáy, chỉ có đi bộ để kiểm tra. Qua quan sát, những liếp tràm đến chu kỳ khai thác của ông Hai Thi đã nằm ở nguy cơ cháy cấp 5, tức là ở cấp cực kỳ nguy hiểm, nhưng khó có khả năng cháy do hầu như không có lớp thực bì và nếu có xảy ra cháy thì chỉ cần dùng thao hoặc xô hất nước từ dưới kinh lên cũng có thể dập tắt được đám cháy.
Ông Hai Thi đúc kết: “Trồng tràm thâm canh sẽ hạn chế tối đa được lớp thực bì dưới chân. Bởi khi cây tràm đã khép tán thì toàn bộ lớp thực bì là các loại dây leo sẽ chết (do thiếu ánh sáng để quang hợp). Theo tôi, trồng rừng thâm canh sẽ rất hiệu quả về mặt kinh tế và thuận lợi trong việc phòng chống cháy”.
Điều ông Hai Thi phấn khởi là, 3 ha tràm thâm canh của ông đã được cấp phép khai thác. Qua 8 năm trồng và bảo vệ, ông Hai Thi sẽ thu về gần 100 triệu đồng sau khi khai thác. (B áo Cà Mau 23/4) đầu trang(
Xã Trường Thủy nằm ở vùng tây nam huyện Lệ Thủy, là địa phương có diện tích rừng trồng lớn và người dân nơi đây sống chủ yếu nhờ vào cây lâm nghiệp và cây cao su. Chính vì vậy, công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) luôn được chính quyền và nhân dân xã Trường Thủy quan tâm thực hiện.
Là địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, trong những năm qua, người dân ở xã Trường Thủy đã phát triển mạnh nghề trồng và khai thác cây lâm nghiệp và nghề này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho người dân trong xã.
Xã Trường Thủy có tổng diện tích gần 3.000 ha, trong đó hiện đất lâm nghiệp có trên 1.200 ha và khoảng 200 ha cây cao su được trồng theo chương trình “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” vùng gò đồi và các dự án trồng rừng như: Việt Đức, dự án 5 triệu ha rừng, dự án 661... Diện tích cây lâm nghiệp chủ yếu gồm các loại: cây thông nhựa, cây keo, tràm và trầm hương, còn lại là các loại cây lâm nghiệp khác.
Mặc dù cây công nghiệp và cây lâm nghiệp chiếm diện tích khá lớn, đặc biệt đây là các loại cây có trữ lượng dầu dễ gây cháy nhưng trong năm qua trên địa bàn xã đã không để xảy ra vụ cháy rừng nào. Điều đó cho thấy công tác trồng, PCCCR của người dân nơi đây thực sự đã và đang mang lại hiệu quả, làm thay đổi nhận thức của người dân về phát triển kinh tế lâm nghiệp và ngày càng nhận được sự quan tâm, hưởng ứng của các hộ gia đình tham gia trồng rừng.
Đáng kể, từ đầu năm đến nay, bà con nông dân trong xã đã trồng mới được gần 400 ha trên tổng số 500 ha rừng theo kế hoạch, trong đó chủ yếu là cây keo và cây tràm. Cùng với việc trồng và phát triển rừng, công tác bảo vệ rừng (BVR) cũng được địa phương và các ngành đoàn thể, chủ rừng và bà con nhân dân chú trọng.
Ngay sau Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014, xã Trường Thủy đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng, đặc biệt là kiểm lâm địa bàn tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, vận động nhân dân thông qua các hình thức như phát tờ rơi, lồng ghép các buổi họp thôn, kết hợp với các trưởng thôn nhằm làm tốt công tác trồng rừng, quản lý BVR và PCCCR.
Theo đó, để chủ động ứng phó với các tình huống cháy rừng có thể xảy ra trong mùa khô năm nay, chính quyền và lực lượng kiểm lâm đã về từng hộ dân, đến từng diện tích rừng để đôn đốc, hướng dẫn người dân thực hiện công tác phát thực bì và cách trồng, chăm sóc các diện tích rừng mới trồng.
Bà Nguyễn Thị Thanh ở thôn Lục Sơn, xã Trường Thủy chia sẻ, đời sống người dân nơi đây tất cả đều nhờ trồng rừng và cây cao su nên mọi người đều nhận thức, đồng thời duy trì thực hiện tốt việc bảo vệ phát triển rừng, PCCCR.
Cùng với đó, địa phương cũng đã thường xuyên kiểm tra các biện pháp phòng-chống cháy rừng, ứng cứu cháy rừng khi có cháy rừng xảy ra, chủ động theo dõi cấp dự báo cháy rừng, cập nhật thông tin về nguy cơ xảy ra cháy rừng gắn với việc giám sát hoạt động sản xuất của bà con nhân dân và các chủ rừng để kịp thời ngăn chặn tình trạng đốt rẫy cũ có thể gây ra cháy rừng.
Mặt khác, lực lượng kiểm lâm phụ trách địa bàn đã tham mưu cho UBND xã Trường Thủy và các chủ rừng tổ chức kiểm tra, kiểm soát các khu sản xuất, tuyên truyền người dân về những tác hại của việc chặt phá rừng để ngăn chặn các hành vi phá rừng, lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy trái phép. Nhờ đó, ý thức của người dân đã chuyển biến tích cực.
Song song với  trồng rừng, tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân về ý thức BVR và PCCCR, xã Trường Thủy đã tăng cường công tác phối hợp với kiểm lâm địa bàn duy trì các hoạt động nắm bắt tình hình, kịp thời kiểm tra khai thác và vận chuyển lâm sản trên địa bàn. Đến nay, xã Trường Thủy đã thành lập Ban chỉ huy và 9 tổ chỉ huy về các vấn đề cấp bách trong công tác BVR, PCCCR bao gồm các lực lượng kiểm lâm, dân quân tự vệ, quân đội, công an và đoàn viên thanh niên.
Ông Phan Hữu Tình, Phó chủ tịch UBND xã Trường Thủy cho biết, xác định tiềm năng và thế mạnh của địa phương là phát triển rừng trồng và cây cao su, nên bước vào đầu mùa khô 2014, chính quyền xã đã phối hợp với lực lượng kiểm lâm chỉ đạo, đôn đốc các hộ trồng rừng chủ động triển khai các phương án phòng chống cháy rừng hiệu quả.
Cùng với đó, để đời sống của bà con từng bước được nâng lên, xã tiếp tục tuyên truyền, vận động các ban, ngành, các tổ chức Hội, đoàn thể của xã và các hộ gia đình đẩy mạnh công tác trồng rừng gắn với bảo vệ phát triển rừng và PCCCR. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan chuyên môn để hướng dẫn cho người dân hiểu biết và nắm chắc kỹ thuật trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng sao cho phù hợp với điều kiện của từng hộ gia đình.
Với việc quan tâm, chú trọng đến công tác PCCCR và nâng cao ý thức BVR cho người dân, Ban chỉ huy PCCCR xã Trường Thủy luôn được Hạt kiểm lâm huyện Lệ Thủy đánh giá cao và thường xuyên có chỉ đạo, phối hợp đến tận cơ sở trong công tác quản lý, BVR theo phương châm 4 tại chỗ.
Có thể nói rằng, việc duy trì hoạt động của Ban chỉ huy PCCCR xã Trường Thủy và công tác phối hợp giữa các lực lượng kiểm lâm, quân đội, công an đã mang lại hiệu quả cao trong công tác bảo vệ, PCCCR, đồng thời giúp các lực lượng chủ động xây dựng kế hoạch, biện pháp ngăn chặn và xử lý các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng một cách kịp thời, góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn. (Báo Quảng Binh 22/4) đầu trang(
Cảnh báo 8 địa phương có nguy cơ cháy rừng cao
Theo tin từ Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), tính đến ngày 20/4, cả nước có 8 địa phương đang có nguy cơ cháy rừng cao.
Theo đó, có 6 địa phương đang ở cấp V, cấp cực kỳ nguy hiểm, nếu cháy rừng xảy ra thì hầu hết các kiểu rừng đều dễ bắt lửa với tốc độ lan tràn rất nhanh, gồm: Bình Định (Khu vực An Nhơn, Phù Cát, TP. Quy Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn, Vân Canh); Bà Rịa (Khu vực Côn Đảo, Long Điền, Tân Thành, Xuyên Mộc), Bình Thuận (Khu vực Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, Tuy Phong); Gia Lai (Khu vực Krông Pa, TX. Ayun Pa); Khánh Hoà (Khu vực Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Ninh Hòa, Vạn Ninh) và Ninh Thuận (Khu vực Bác ái, Ninh Phước, Ninh Sơn).
Ngoài ra, còn có 2 địa phương đang ở cấp IV, cấp nguy hiểm gồm: Khánh Hoà (Khu vực TX. Cam Ranh, Khánh Sơn); Nghệ An (Khu vực Kỳ Sơn, Tương Dương)...
Nguyên nhân của thực trạng trên, Cục Kiểm lâm nhận định là do các khu vực thuộc các địa phương trên đã có nhiều ngày không mưa, thời tiết khô hanh kéo dài, có nguy cơ xảy ra cháy rừng.
Trước thực tế này, Ban chỉ đạo Nhà nước về Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 yêu cầu UBND các cấp và chủ rừng thuộc các địa phương trên thực hiện ngay các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng. (Đảng Cộng Sản VN 21/4) đầu trang(

QUẢN LÝ - SỬ DỤNG - PHÁT TRIỂN RỪNG
Nhiều mô hình rừng cộng đồng đã thành công ở các nước trên thế giới. Hiện Việt Nam cũng đang thí điểm nhiều mô hình khác nhau để chọn ra mô hình tích cực nhất nhằm quản lý rừng có hiệu quả và bền vững.
Trong 2 ngày 23 và 24/4, Tổng cục Lâm nghiệp phối hợp với Trung tâm vì con người và rừng (RECOFTC, thuộc Tổ chức Nông Lương LHQ - FAO) và Đại học Nông lâm Thái Nguyên tổ chức Diễn đàn quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng.
Diễn đàn thu hút sự tham gia của hơn 60 đại biểu từ khu vực công, khu vực tư nhân và khu vực phát triển cùng với đại diện các cơ quan nghiên cứu và đào tạo cũng như các cộng đồng lĩnh vực lâm nghiệp, những người muốn chia sẻ thành tựu và bày tỏ nhu cầu cũng như nguyện vọng của bản thân về vấn đề lâm nghiệp cộng đồng.
Tại Diễn đàn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Bá Ngãi cho biết quản lý rừng cộng đồng đang trở thành phương pháp phổ biến trong lâm nghiệp tại Việt Nam. Trong hai thập kỷ qua, nhiều mô hình rừng cộng đồng đã được thử nghiệm trên cả nước, trong đó có dự án thí điểm “Lâm nghiệp cộng đồng quốc gia” được thực hiện trong 2 giai đoạn (giai đoạn 1 từ 2006-2009 ở 10 tỉnh và giai đoạn 2 từ 2012-2013 tại 9 tỉnh).
Thành công và bài học kinh nghiệm của những mô hình này chứng minh rằng lâm nghiệp cộng đồng có thể là mô hình quản trị rừng hiệu quả, công bằng và bền vững nhờ huy động được sự tham gia tích cực và quan tâm đến nhu cầu cũng như kiến thức của người dân.
Kể từ những năm 1990, rất nhiều mô hình lâm nghiệp cộng đồng khác nhau đã được thực hiện thí điểm tại Việt Nam. Thông qua cải cách quyền sử dụng đất, Chính phủ đã tạo nền móng vững chắc cho việc phát triển mô hình quản lý rừng cộng đồng và từ đó tăng cường sự tham  gia của cộng đồng địa phương vào quá trình quản lý rừng.
Cho đến nay, có gần 4 triệu ha rừng đã được giao cho các cộng đồng, hộ gia đình khác nhau thực hiện mô hình trên. Tuy nhiên, làm thế nào để cộng đồng địa phương có thể thực hiện được quyền lợi hợp pháp mà họ được hưởng theo luật định để tạo ra lợi ích từ rừng, cách tiếp cận đổi mới nào có thể giúp liên kết cộng đồng với các hình thức quản trị rừng mới, có liên quan đến việc chi trả dịch vụ hệ sinh thái rừng cũng như cần thiết phải có sự tham gia của cộng đồng vào trong các quá trình ra quyết định và thực thi, là những vấn đề quan trọng cần được quan tâm thích đáng.
Trong bối cảnh phát triển mới của lâm nghiệp cộng đồng, diễn đàn quốc gia đầu tiên này hướng tới việc tập hợp các bên liên quan để chia sẻ kinh nghiệm, rút ra bài học và cùng lập kế hoạch cho tương lai.
Diễn đàn trong 2 ngày sẽ là cơ hội để đại biểu tham dự đánh giá thành công và bài học kinh nghiệm chính của lâm nghiệp cộng đồng trong nước; thảo luận phương thức triển khai lâm nghiệp cộng đồng ra toàn quốc; bàn đến các vấn đề, thách thức, cơ hội chủ yếu.
Cùng với đó xác định và củng cố vai trò của các tác nhân chính tham gia làm lâm nghiệp cộng đồng và khuyến khích hài hòa hóa các nỗ lực và chiến lược trong tương lai; Xây dựng tập hợp những khuyến nghị có tính thiết thực cho việc thực hiện lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam, quan tâm đến những khía cạnh như quy trình thủ tục, phương pháp điều tiết, cân nhắc thể chế, với sự hiện diện của tất cả các bên có lợi ích liên quan.
Lần đầu tiên việc thành lập mạng lưới lâm nghiệp cộng đồng sẽ được đưa lên bàn thảo luận. Tại đây, các đại biểu sẽ đóng góp ý tưởng để xây dựng một mạng lưới trong đó các bên liên quan có thể hợp tác để mang lại sự đổi thay. Trong bối cảnh như vậy, một mạng lưới lâm nghiệp cộng đồng quốc gia có thể đóng vai trò như một hệ thống giúp các tác nhân thực hành lâm nghiệp cộng đồng thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm và thông tin, hướng tới vận động chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững cho lâm nghiệp cộng đồng. (Chính Phủ 23/4) đầu trang(
22/4, Hội đồng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Hà Giang đã tổ chức họp nhằm đánh giá kết quả thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng quý I, triển khai nhiệm vụ quý II năm 2014.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ chủ trì cuộc họp. Cùng dự có các cơ quan là thành viên Hội đồng quản lý Quỹ.
Trong quý I năm 2014, Hội đồng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh đã đôn đốc, điều hành quỹ kiểm tra hồ sơ, chứng từ diện tích cung ứng dịch vụ môi trường rừng năm 2013. Theo đó, tổng số tiền quỹ tính đến hết tháng 3 năm 2014 còn trên 17 tỷ đồng, trong đó vốn ban đầu tỉnh cấp 3 tỷ đồng, tiền các đơn vị sử dụng dịch vụ môi trường rừng ủy thác chi trả trên 14 tỷ đồng. Lãi các nguồn vốn trên 326 triệu đồng. Số tiền các đơn vị sử dụng dịch vụ môi trường rừng ủy thác về Sở Nông nghiệp & PTNN hết tháng 3 năm 2014 trên 30 tỷ đồng, đạt 47,5% kế hoạch thu.
Tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2014 chưa thu do chưa đến kỳ hạn chuyển trả ủy thác theo quy định trong hợp đồng. Đối với việc thanh toán tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2013, trên cơ sở tiền ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng và kết quả nghiệm thu bảo vệ rừng của các huyện, thành phố, các ban quản lý rừng đặc dụng, Ban điều hành quỹ tạm thời điều phối số tiền gần 10 tỷ đồng; Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Hội đồng quản lý Quỹ.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ còn có những khó khăn tồn tại như: Hầu hết các Công ty sản xuất thủy điện chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, hoặc cố tình chây ỳ không ủy thác tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng theo đúng thời gian như hợp đồng đã ký kết. Công tác lập hồ sơ, hoàn thiện thủ tục chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng của một số huyện còn chậm ảnh hưởng đến việc điều phối tiền dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn toàn tỉnh.
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là chính sách mới, bên cạnh đó trình độ của các cán bộ thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cấp huyện, thành phố không đồng đều nên trong quá trình tổ chức thực hiện còn lúng túng.
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng quản lý quỹ đã tập trung thảo luận đề ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn để triển khai trong công tác thu tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng của các Nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh năm 2011 - 2013. Xem xét một số Tờ trình, kiến nghị của Ban điều hành Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh.
Kết luận tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch Hội đồng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh ghi nhận sự nỗ lực của cơ quan thường trực và các thành viên Hội đồng quản lý Quỹ trong thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, đồng thời chỉ ra nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong việc triển khai thực hiện Quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch Hội đồng Quỹ yêu cầu: Cơ quan thường trực cần tham mưu cho Chủ tịch Hội đồng Quỹ phối hợp với các Sở, ngành liên quan, các huyện, thành phố tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các công ty, doanh nghiệp trong việc thực hiện việc chi trả dịch vụ môi trường rừng. Xây dựng văn bản tham mưu cho UBND tỉnh gửi cho Đảng ủy khối Doanh nghiệp, các thủy điện về việc chi trả quỹ còn nợ đọng.
Tăng cương ý thức trách nhiệm của các công ty, Nhà máy thủy điện trong việc quản lý bảo vệ, phát triển rừng. Phối hợp với các huyện, thành phố, các Ban quản lý rừng đặc dụng, các tổ chức chi trả cấp huyện xây dựng kế hoạch tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật năm 2014.
Xây dựng kế hoạch tổ chức hội nghị đối thoại với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và thống nhất giải pháp thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đảm bảo hiệu quả và đúng quy định của Nhà nước. Phối hợp với Báo, Đài PT- TH tỉnh tăng cường công tác tuyên truyền về việc thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng. Giao cho các Sở Công thương, Nông nghiệp tham mưu cho UBND tỉnh khi trình cấp giấy phép phải có cam kết chi trả dịch vụ môi trường rừng theo quy định. (Hagiang.gov.vn 23/4) đầu trang(
Khoảng 5 giờ 40, tại nhà máy chê biến gỗ FORIMEX –Long Bình, trực thuộc công ty Lâm nghiệp Sài Gòn (576 Hoàng Hữu Nam, P. Long Bình, Q. 9, TP.HCM) đã xảy ra một vụ cháy lớn.
Lửa và khói bốc lên cao ngút. Nhiều người dân xung quanh hoảng loạn. Hơn 30 phút sau lực lượng PCCC công an Q. 9 đã có mặt kịp thời để dập đám cháy.
Đến 9 giờ, đám cháy đã cơ bản được khống chế. Hiện cơ quan công an đang tiến hành điều tra và làm rõ nguy nhân vụ hỏa hoạn này.
Khi PV vào tác nghiệp thì bị lực lượng bảo vệ công ty không cho vào và đóng kín cửa lại. Ban lãnh đạo công ty kêu đây chỉ là vụ diễn tập PCCC. (Pháp Luật TPHCM + Sài Gòn Giải Phóng 23/4) đầu trang(
Dù được đánh giá là mang lai hiệu quả thiết thực cả về mặt kỉnh tế lẫn xã hội nhưng chính sách giao đất giao rừng (GĐGR) vẫn còn chậm, chưa phù hợp với thực tế của nhiều địa phương, đòi hỏi phải có những thay đổi toàn diện, nhất là trong bối cảnh ngành lâm nghiệp đang đấy mạnh tái cơ cấu.
Tính đến ngày 1/1/2012, cả nước có gần 15,4 triệu hecta đất lâm nghiệp, được chia làm 3 loại phân theo các chức năng khác nhau, bao gồm đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng. Trong đó, gần 79% (12,1 triệu hecta) diện tích đất lâm nghiệp của cả nước được giao cho các đối tượng để sử dụng; phần còn lại (21%, tưong đương trên 3,2 triệu hecta) chưa được giao mà đang được quản lý bởi cộng đồng và UBND xã.
Trong báo cáo “Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội và thách thức”, TS.Tô Xuân Phúc, chuyên gia phân tích chính sách của tổ chức Forest Trends và ThS. Trần Hữu Nghị, đại diện tổ chức Tropenbos International Việt Nam đã chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của chính sách GĐGR đến với người dân.
Theo dó, GĐGR đã làm cho rừng có chủ thực sự, gắn quyền lợi với trách nhiệm, tạo điều kiện để người dân bảo vệ được rừng, yên tâm quản lý, đầu tư phát triển rừng trên diện tích rừng được giao, từ đó góp phần làm tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Đã có 470.874 hộ gia đình nhận khoán, bảo vệ hơn 2,2 triệu hecta rừng trồng, trồng mới 1,32 triệu hecta, bình quân mỗi hộ thu 5,55 triệu đổng/năm.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, lợi ích mà GĐGR mang lại không phải lúc nào cũng được chia sẻ công bằng giữa các nhóm hộ khác nhau trong cùng một cộng đồng và giữa những cộng đồng với nhau. Nghiên cứu của TS.Tô Xuân Phúc tại một số thôn người Dao thuộc hai tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ cho thấy, kết quả GĐGR phụ thuộc nhiều vào cấu trúc quyền lực của cộng đồng.
Cụ thể, trước khi GĐGR được thực hiện ở thôn, các hộ có thành viên làm trong hệ thống chính quyền do nắm bắt được thông tin về GĐGR đã có sự chuẩn bị từ trước, do vậy họ thường là những người nhận được những phần đất tốt hơn, diện tích đất nhiều hơn, ở những vị trí thuận lợi về giao thông hơn so với các hộ khác. Nguyên tắc chia đất dựa trên số' lượng lao động chính sẵn có của hộ đã làm cho các hộ mới tách, thường là có điều kiện khó khăn, ở vị thế bất lợi. Sự không rõ ràng cả vể chính sách cũng như quá trình thực hiện đã tạo cơ hội cho các lâm trường quốc doanh và một số cán bộ lâm trường, cán bộ địa phương trong việc tích tụ đất đai, điểu này gây bất lợi cho các hộ, đặc biệt là hộ nghèo.
Dù được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích về kinh tế, môi trường và xã hội của nhiều vùng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa nhưng ở nhiều nơi, sau khi quá trình GĐGR được thực hiện, nhiều gia đinh được nhận đất nhưng lại không có điều kiện đâu tư vào đất đai, do vậy không được hưởng lợi từ GĐGR. Đây chính là lý do khiến nhiều gia đình nghèo đã chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ diện tích đất được giao cho các hộ khá giả. Theo TS.Tô Xuân Phúc, điều này đã làm hình thành thị trường đất đai nhưng cũng đẩy các hộ nghèo vào tình trạng không có đất sản xuất.
Việc thực hiện chính sách tại một số địa phưong bị sai trình tự theo quy định của Nhà nước, bỏ qua một số bước nhằm tiết kiệm thời gian và kinh phí. Một số nơi, đất được giao cho cả cộng đồng thôn bản, rồi thôn bản tự chia “tay vo” cho các hộ dân, không đo đạc và vẽ ranh giới thực địa, làm phát sinh mâu thuẫn đất đai ở một số địa phương.
Tại các tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ, mâu thuẫn phổ biến là tranh chấp ranh giới đất được giao giữa các hộ sống trong cùng một thôn, do đất chỉ được giao trên giấy tờ mà không được đo đạc cắm mốc tại thực địa nên ranh giới đất giữa hộ này với hộ khác không rõ ràng, đồng thời làm tãng khoảng cách về quyền giữa các nhóm dân tộc khác nhau.
Có một thực tế là, Chính phủ không giao những phần đất có rừng còn trữ lượng cho hộ gia đình mà hầu hết các diện tích đó được giao cho các công ty lâm nghiệp và ban quản lý. Điều này làm phát sinh quan niệm “rừng của nhà nước”, không phải của dân và đã tác động trực tiếp đến kết quả của công tác bảo vệ rừng ở nhiều địa phương, trong đó có vấn nạn khai thác gỗ bất hợp pháp. Điểu này lý giải tại sao rừng tự nhiên của Việt Nam đang bị suy thoái.
Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, khoảng 75% diện tích rừng tự nhiên hiện còn của Việt Nam là rừng có chất lượng nghèo, chủ yếu là rừng tái sinh và rừng hỗn giao. Đặc biệt, tại Tây Nguyên, xu hướng mất rừng vẫn đang diễn ra với tốc độ khoảng 0,2%/năm. Tại đây, rừng không chỉ suy giảm về diện tích mà cả về chất lượng, theo đó, trong giai đoạn từ 1998 đến 2011, đã có khoảng 297.000ha rừng ở Tây Nguyên mất đi và một trong những nguyên nhân gây mất rừng là do hình thức quản lý rừng như hiện nay với các công ty lâm nghiệp (CTLN), ban quản lý (BQL) làm chủ đạo đã không tạo động lực khuyến khích người dân tham gia bảo vệ rừng.
Còn một nghịch lý trong vấn đề GĐGR nữa là, nhiều CTLN, BQL sử dụng đất rừng không hiệu quả nhưng lại giữ một diện tích đất tương đối lớn trong khi người dân lại không có nơi để canh tác, điểu này đã và đang nảy sinh tranh chấp đất đai giữa CTLN, BQL rừng và người dân. Hiện, cả nước còn 148 CTLN đang được giao khoảng 1,9 triệu hecta đất lâm nghiệp, trong đó có tới 1,5 triệu hecta là đất rừng sản xuất. Diện tích đất tranh chấp, lấn chiếm, xâm canh mà các CTLN đang quản lý lên đến 7.600ha, tuy nhiên, con sổ thực tê' lớn hơn nhiều.
Một cán bộ xã ở Sơn La nêu vấn đề: “Tưduy GĐGR lẽ ra phải đồng bộ. Nhưng quản lý đất có rừng và cây rừng trên đất đó lại thuộc hai bộ khác nhau. Việc giao rừng là nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp, còn giao đất lâm nghiệp là trách nhiệm của ngành tài nguyên- môi trường. Nhưng hai ngành này làm việc độc lập nhau nên đã xảy ra nhiều trường hợp người dân tranh chấp vì trên cùng một diện tích đất rừng, môt hộ dân có “sổ xanh” giao rừng do ngành lâm nghiệp cấp, nhưng hộ khác lại trình sổ đỏ chứng nhận quyển sử dụng đất do phòng tài nguyên - môi trường huyện cấp".
GS.Đặng Hùng Võ, cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, băn khoăn, tại sao việc “đụng chạm'' vào các nông - lâm trường quốc doanh lại có phần khẽ khàng và chậm chạp đến vậy? Phải chăng do ý thức hệ của chúng ta ngại động chạm đến khối kinh tế nhà nước nên mới để tổn tại nhiều đơn vị hoạt động không hiệu quả nhưng lại chiếm giữ diện tích đất lớn.
TS. Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng nêu một thực trạng, tại các địa bàn thuận lợi về mặt giao thông, có những hộ dân sau khi được GĐGR đã không đầu tư vào trồng rừng mà sang nhượng đất lâm nghiệp cho người nơi khác đến.
Ở các tỉnh Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Bình có hàng nghìn hecta đất đã được các công ty tư nhân mua lại. Tuy nhiên, hiện phẩn lớn diện tích này giao cho các hộ mà chưa được cấp sổ đỏ, mới chỉ có sổ xanh do ngành lâm nghiêp cấp nên việc chuyển nhượng đầy rủi ro cho người mua đất để đầu tư trồng rừng, thiếu cơ sở pháp lý về quyền sử dụng đất. Việc GĐGR ở nhiều nơi chưa đến đúng đối tượng.
“Vì vậy, cẩn phải giao cho chủ có năng lực quản lý đầu tư sản xuất, những người lao động trực tiếp. Hiện nay, nhức nhối nhất là hơn 2 triệu hecta rừng dang do UBND các xã quản lý, chưa giao cho dân, ai hưởng lợi với diện tích rừng này, trong khi rừng cứ mất dẩn mất mòn”, ông Lung nhấn mạnh. (Kinh Tế Nông Thôn 18/4) đầu trang(
Thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-BNNPTNT-BCA ngày 20/01/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công an quy định về trang bị, quản lý, sử dụng VKQD, CCHT của lực lượng Kiểm lâm và lực lượng BVR chuyên trách.
Từ ngày 14/4 đến ngày 18/4/2014 Chi cục Kiểm lâm đã phối hợp với Công an tỉnh (Phòng PC 64) tổ chức hai lớp tập huấn về quản lý, sử dụng, bảo quản súng quân dụng, công cụ hỗ trợ cho cán bộ chủ chốt và một số cán bộ công chức, viên chức Kiểm lâm trên địa bàn tỉnh.
Ông Lê Quốc Việt - Phó Chi cục trưởng Kiểm lâm; ông Nguyễn Đình Thịnh – Phó Trưởng phòng cảnh sát về Quản lý hành chính, trật tự xã hội (PC64) - Công an tỉnh chỉ đạo lớp tập huấn.
Trong thời gian tập huấn CBCC, VC Kiểm lâm đã được nghe các đồng chí báo cáo viên của Phòng PC64 giới thiệu các nội dung cơ bản của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; các nghị định của Chính phủ; Thông tư hướng dẫn của Bộ Công an về chế độ quản lý, sử dụng VK, VLN, CCHT.
Các học viên cũng đã được giới thiệu về tính năng, tác dụng của từng loại VKQD, CCHT được trang cấp cho lực lượng Kiểm lâm, chế độ bảo dưỡng định kỳ, đột xuất; việc nổ súng khi thực hiện nhiệm vụ; trách nhiệm của người quản lý, người sử dụng VKQD, CCHT; chế độ thông tin, báo cáo…
Kết thúc lớp tập huấn, các học viên viết thu hoạch nhằm đánh giá nhận thức và khả năng quản lý, sử dụng VKQD, CCHT. Kết quả có 62% đạt loại giỏi, 28% đạt loại khá, không có học viên không đạt yêu cầu. Các học viên đã được Công an tỉnh cấp giấy chứng nhận sử dụng VKQD, CCHT. (Trang Tin Điện Tử Kiểm Lâm Tỉnh Thanh Hóa 21/4) đầu trang(
Năm 2011, tỉnh Yên Bái bắt đầu thực hiện chính sách chi trả phí dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) với gần 200 nghìn héc ta rừng nằm trong khu vực được chi trả. Qua đó, đã có hàng ngàn chủ rừng được hưởng lợi, góp phần nâng cao thu nhập, bảo vệ tốt rừng đầu nguồn.
Để nhanh chóng đưa chính sách vào cuộc sống, trên cơ sở các hướng dẫn của trung ương, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng (BV&PTR) của tỉnh đã tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các chủ rừng, Ban chi trả DVMTR rừng cấp huyện chi trả cho các chủ rừng đảm bảo đúng tiến độ, đúng quy định.
Ông Kiều Tư Giang - Chi cục trưởng Chi cục Phát triển lâm nghiệp cho biết: “Đây đang là giai đoạn đầu thực hiện chính sách, nhằm triển khai sâu rộng đến các tổ chức, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân hiểu và nắm rõ về chính sách chi trả DVMTR, Quỹ BV&PTR đã phối hợp với các cơ quan truyền thông của tỉnh xây dựng các chuyên mục để tuyên truyền.
Cụ thể, phối hợp thực hiện 16 bài viết đăng tải trên Báo Yên Bái, 1 phóng sự phát trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh. Ngoài ra, đơn vị còn xây dựng 10 bảng tuyên truyền về chính sách tại huyện Mù Cang Chải, in 20.000 bộ tài liệu tuyên truyền để cấp phát cho các chủ rừng”.
Công tác đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác chi trả tại các địa phương cũng được quan tâm. Trong năm 2013, Quỹ BV&PTR đã tổ chức 2 hội nghị triển khai hướng dẫn các chủ rừng về công tác lập kế hoạch chi trả tiền DVMTR và hướng dẫn nghiệm thu, thanh toán nhằm nâng cao năng lực cho các chủ rừng đảm bảo đúng quy định.
Cuối năm 2013 và trong quý I năm 2014, Quỹ đã thanh toán tiền DVMTR cho 100% đơn vị chủ rừng nằm trong diện chính sách được chi trả với tổng số tiền trên 29 tỷ đồng. Cũng trong quý I năm 2014, Quỹ đã thu trên 900 triệu đồng còn nợ đọng năm 2013 của Thủy điện Hồ Bốn, Thủy điện Mường Kim và Công ty TNHH Một thành viên Cấp nước Yên Bái.
Tuy nhiên, số nợ từ các năm trước của các đơn vị vẫn còn trên 11 tỷ đồng, điều này gây nhiều khó khăn cho công tác thanh quyết toán cũng như lợi ích của chủ rừng.
Theo lãnh đạo Chi cục Phát triển lâm nghiệp, năm 2011 và 2012, giá mua điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không xác định tiền DVMTR mặc dù Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo Bộ Công thương yêu cầu EVN điều chỉnh lại hợp đồng mua bán điện với các doanh nghiệp sản xuất thủy điện và hoàn thành việc chi trả tiền DVMTR năm 2011, 2012.
Song đến nay, EVN vẫn chưa thực hiện, dẫn đến các nhà máy thủy điện trên địa bàn chưa có nguồn để trả cho Quỹ BV&PTR. Cũng do chưa có chế tài xử lý vi phạm đối với các đơn vị không nộp hoặc chậm nộp tiền DVMTR theo quy định, dẫn đến việc thu tiền Quỹ gặp nhiều khó khăn.
Năm 2014, kế hoạch của Quỹ BV&PTR tiếp nhận và thu ủy thác tiền DVMTR là 33,3 tỷ đồng. Để hoàn thành và nâng nâng cao chất lượng hoạt động trong công tác chi trả DVMTR, các Bộ, ngành Trung ương cần sớm xây dựng chế tài xử lý đối với các doanh nghiệp chậm chi trả tiền DVMTR.
Đồng thời, tỉnh Yên Bái cũng cần kiện toàn bộ máy của Quỹ BV&PTR sang hoạt động chuyên trách, tránh mô hình hoạt động theo chế độ cán bộ kiêm nhiệm như hiện nay, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chuyên môn của Quỹ. (Báo Yên Bái 22/4) đầu trang(
UBND tỉnh vừa phê duyệt Quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng đặc dụng tỉnh đến năm 2020 với mục tiêu xác lập các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh phù hợp với tiêu chí, phân loại theo quy định, phù hợp với Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020.
Theo đó, tổng diện tích khu vực bảo tồn và phát triển rừng đặc dụng là 19.559ha, gồm Khu bảo tồn thiên nhiên Krông Trai và Khu văn hóa, lịch sử, môi trường Đèo Cả.
Trong đó, Khu bảo tồn thiên nhiên Krông Trai có diện tích tự nhiên là 13.775ha được phân chia thành 3 phân khu: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 7.882,2ha, phân khu phục hồi sinh thái 5.890,6ha và phân khu hành chính dịch vụ 2,2ha; Khu văn hóa, lịch sử, môi trường Đèo Cả có diện tích tự nhiên là 5.784ha. (Tài Nguyên Môi Trường + Đại Biểu Nhân Dân 22/4) đầu trang(
UBND TP Hà Nội đã thành lập đoàn thanh tra liên ngành thanh tra việc quản lý, sử dụng đất của các nông, lâm trường, trạm trại trên địa bàn.
Đoàn thanh tra liên ngành do Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường và Phó Giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc làm Phó trưởng đoàn, có sự tham gia của lãnh đạo UBND các huyện, thị xã, Chi cục Quản lý công sản… Đoàn có nhiệm vụ thanh tra việc quản lý, sử dụng đất của các nông, lâm trường, trạm trại; trên cơ sở kết quả thanh tra, đề xuất các biện pháp xử lý vi phạm, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, báo cáo UBND TP Hà Nội xem xét chỉ đạo giải quyết, xử lý theo quy định.
Sở Tài nguyên - Môi trường là cơ quan thường trực, xây dựng kế hoạch thanh tra cụ thể, đôn đốc thực hiện và tổng hợp báo cáo kết quả, dự thảo kết luận.
Trường hợp đã được Bộ Tài nguyên - Môi trường thanh tra, kết luận, không đưa vào kế hoạch thanh tra, chỉ kiểm tra đôn đốc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng. Kết quả chung và đề xuất phương án xử lý báo cáo UBND thành phố trong tháng 9-2014. (Lao Động 23/4; HN Mới 22/4) đầu trang(
18 tháng 4 năm 2014, Vườn Quốc gia Hoàng Liên đã tổ chức Hội thi “Tìm hiểu kiến thức luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2014”, tham dự hội thi có 5 đội đến từ 5 xã vùng lõi và vùng đệm của Vườn Quốc gia Hoàng Liên.
Tại hội thi, các đội đã trải qua 4 phần thi: Màn chào hỏi, phần thi kiến thức, phần thi tài năng và phần hùng biện. Nội dung các phần thi chủ yếu xoay quanh những kiến thức về Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; các chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến rừng; phòng cháy, chữa cháy rừng; bảo vệ hệ sinh thái và tài nguyên rừng.
Nhìn chung các đội dự thi đã có sự chuẩn bị chu đáo nên đều hoàn thành tốt các phần thi đề ra. Đặc biệt tiểu phẩm dự thi của các đội có nội dung đa dạng phong phú truyền tải được những thông tin và hiểu biết về Luật bảo vệ và phát triển rừng đến đông đảo người xem.
Qua hội thi là một dịp tuyên truyền nhằm tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể người dân địa phương về một số điều luật, nghị định có liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển rừng; Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và phát huy sức mạnh của quần chúng trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước về bảo vệ rừng, PCCCR; Tạo mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa cán bộ Vườn quốc gia với người dân địa phương, từ đó xây dựng lòng tin vững chắc của nhân dân vào lực lượng bảo vệ rừng.
Kết thúc hội thi, Ban tổ chức đã trao giải nhất toàn đoàn cho đội thi xã San Xả Hồ, giải nhì toàn đoàn cho đội thi xã Tả Van, giải ba cho đội thi xã Sử Pán, giải khuyến khích cho đội thi xã Lao Chải và Bản Hồ. (Laocai.gov.vn 21/4) đầu trang(./.
Biên tập: Hương Giang