Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 17 tháng 12 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Theo Cục Kiểm lâm (Tổng cục Lâm nghiệp) cho biết: Hiện nay, ở một số địa phương đã nhiều ngày không mưa, thời tiết khô hanh kéo dài, nguy cơ xảy ra cháy rừng cao.
Cụ thể một số diện tích rừng trên địa bàn các tỉnh: Bắc Giang, Bình Thuận, Điện Biên, Hòa Bình, Sơn La đang có nguy cơ cháy cấp 4-cấp nguy hiểm.
Vì vậy, Ban chỉ đạo Nhà nước về Kế hoạch Bảo vệ và Phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 yêu cầu UBND các cấp và chủ rừng thuộc các địa phương trên thực hiện ngay các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng. (Quân Đội Nhân Dân 17/12, tr4) đầu trang(
Chỉ tính riêng từ năm 2007 đến hết 2013, tại Việt Nam có tới hơn 12.600ha rừng bị phá trái phép, trung bình mỗi năm 1.894ha rừng bị phá. Tuy nhiên, điều đáng nói là số lượng vụ án xử lý hình sự xâm phạm tài nguyên rừng có tổ chức chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số 2.299 vụ án hình sự đã được đưa ra xét xử.
Theo Viện trưởng Viện Khoa học xét xử (TAND Tối cao) Lê Văn Minh, hiện Đông Nam Á là khu vực có diện tích rừng bị tàn phá nhanh nhất trên toàn cầu, bởi nạn khai thác gỗ trái phép. Đánh giá của cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm của LHQ (UNODC), thì nhu cầu nhập khẩu gỗ được khai thác bất hợp pháp ở khu vực châu Á và châu Âu chiếm hơn 50% nhu cầu thế giới. "Ước tính năm 2010, có khoảng 10 triệu m3 gỗ bất hợp pháp được nhập khẩu vào Trung Quốc và châu Âu từ Đông Nam Á, với giá trị khoảng 3,5 tỷ USD...”, ông Minh dẫn chứng.
Cũng theo ông Minh, chỉ tính riêng từ 2007 đến hết 2013, tại Việt Nam có tới hơn 12.600ha rừng bị phá trái phép, trung bình mỗi năm là 1.894ha rừng bị phá. Tuy nhiên, điều đáng nói là số lượng vụ án xử lý hình sự xâm phạm tài nguyên rừng có tổ chức chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số 2.299 vụ án hình sự đã được đưa ra xét xử.
Ông Minh lý giải: "Một trong những nguyên nhân là việc bắt giữ để điều tra, truy tố những tên tội phạm chủ mưu, cầm đầu hết sức khó khăn vì những đối tượng này không bị tố giác hoặc có những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nên đã che giấu được hành vi phạm tội của mình...”.
Theo Phó Chánh tòa Tòa hành chính (TAND Tối cao) Đàm Văn Đạo, thống kê của Cục Kiểm lâm (Bộ NN&PTNT) cho thấy, hành vi vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã trên cả nước trong 5 năm qua đã xảy ra 5.376 vụ, bình quân mỗi năm xảy ra khoảng 1.095 vụ.
Số động vật rừng hoang dã và động vật rừng nguy cấp, quý hiếm tịch thu từ các vụ vi phạm bị phát hiện trên cả nước trong vòng 5 năm khoảng 59.326 con, trong đó động vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm khoảng 3.267 con.
Như vậy, bình quân hàng năm có khoảng hơn 600 động vật quý hiếm các loại được các cơ quan chức năng tịch thu trong các vụ vi phạm bị phát hiện. Số liệu này chưa hoàn toàn chính xác, bởi còn nhiều vụ buôn bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã không bị phát hiện và bắt giữ.
Ông Đạo còn đưa ra số liệu thống kê của Cục Thống kê tội phạm (VKS Tối cao) để khẳng định số vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đạt tỷ lệ thấp so với thực tế.
Cụ thể, năm 2013: Khởi tố 113 vụ/153 bị can; truy tố: 83 vụ/130 bị can; xét xử: 76 vụ/135 bị cáo. Còn theo số liệu của Vụ Thống kê tổng hợp (TAND Tối cao) năm 2014 cả nước đã thụ lý 51 vụ 72 bị cáo, trong đó trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung 11 vụ 15 bị cáo; xét xử 39 vụ 56 bị cáo, 1 vụ chưa xét xử...
"Theo các chuyên gia trong nước và quốc tế thì việc buôn bán động vật hoang dã đem lại lợi nhuận khổng lồ, ước tính chỉ xếp sau buôn bán ma túy. Vì thế, việc buôn bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã vẫn là vấn nạn nhức nhối không chỉ của bất kỳ một quốc gia nào, nhất là ở những nước có nguồn sinh học đa dạng như Việt Nam”, Phó Chánh tòa Tòa hành chính phân tích.
Ông Đạo còn cho biết thêm, tổng doanh thu hàng năm từ buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp ở Việt Nam đạt khoảng 66,5 triệu USD. Chính lợi nhuận khổng lồ này đã khiến việc chống lại các hoạt buôn bán bất hợp pháp các động vật hoang dã nguy cấp ở Việt Nam trở nên vô cùng phức tạp.
"Thực tiễn, các lực lượng chức năng chủ yếu bắt được các đối tượng vận chuyển thuê, hưởng công, không bắt được chủ hàng nên thời gian qua các cơ quan chức năng xử lý hình sự xử lý không nhiều những hành vi vi phạm này...”, ông Đạo nhận định. (Đại Đoàn Kết 17/12, tr15) đầu trang(
Chung quanh vụ tàn sát rừng phòng hộ sông Lũy, gày 16-12, Sở NN&PTNT tỉnh Bình Thuận đã yêu cầu Chi cục Kiểm lâm tỉnh đến hiện trường kiểm tra, tính toán trữ lượng gỗ bị thiệt hại để có báo cáo cho UBND tỉnh Bình Thuận.
Cùng ngày, ông Lục Minh Hiếu, Chi cục phó Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Thuận, cho biết: Cơ quan đã chỉ đạo Hạt Kiểm lâm Bắc Bình tham mưu cho UBND huyện tổ chức lực lượng đủ mạnh, phối hợp với Đội Kiểm lâm cơ động tỉnh rà soát và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với lâm tặc. Kiểm lâm và Ban Quản lý rừng phòng hộ Sông Lũy phối hợp phân loại các hồ sơ vi phạm của lâm tặc để thông báo cho các cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng.
Ông Hiếu cũng cho biết ngày 16-12, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng cũng đã đồng ý huy động và tăng cường lực lượng cho Trạm Kiểm soát liên huyện Bắc Bình (Bình Thuận) - Đức Trọng (Lâm Đồng).
Về việc Ban Quản lý rừng phòng hộ Sông Lũy cho thợ rừng hủy hoại gần 70 hộp gỗ xẻ tại tiểu khu 73A mà lâm tặc chưa kịp vận chuyển, ông Hiếu cho biết tang vật phá rừng là gỗ tại hiện trường phải được xử lý theo đúng quy định. Tuy nhiên, cũng phải cân nhắc việc xử lý này bởi hiện trường vụ phá rừng là khu vực quá hiểm trở, khó có phương tiện đưa tang vật về.
Về con đường lâm tặc khai phá từ đỉnh Sa Mai xuống khu vực sông Dú kéo dài khoảng 5 km, Hạt Kiểm lâm huyện Bắc Bình cho biết: Đây là con đường cũ, lâm tặc chỉ chặt cây, lăn đá mở một nhánh đường xuống hiện trường vụ phá rừng chỉ vài trăm mét để vận chuyển gỗ.
Hiện Bình Thuận đang yêu cầu làm rõ vì sao vụ phá rừng phòng hộ đầu nguồn Ban Quản lý rừng phòng hộ đã phát hiện từ giữa tháng 11-2014 nhưng đến khi báo phản ánh, cơ quan chức năng tỉnh mới hay. (Pháp Luật TPHCM 17/12) đầu trang(
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam vừa tiếp nhận 2 cá thể Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) quý hiếm cho mục đích nuôi nghiên cứu khoa học, bảo tồn và giáo dục môi trường.
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Tổ chức Wildlife at Risk và Vườn thú Cologne (CHLB Đức) vừa tiếp nhận từ Chi cục Kiểm lâm Thành phố Hồ Chí Minh 2 cá thể Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) - một loài linh trưởng quý, có hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng thuộc nhóm nguy cấp (EN) - để phục vụ mục đích nuôi nghiên cứu khoa học, bảo tồn và giáo dục môi trường.
Hai cá thể vượn này do Kiểm lâm Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ trên đường bị buôn bán, vận chuyển trái phép và được nuôi cứu hộ tại Trạm cứu hộ động vật hoang dã Củ Chi từ năm 2013. Sau một thời gian nuôi cứu hộ, Chi cục Kiểm lâm Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định bàn giao hai cá thể Vượn này cho Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, để phục vụ nuôi nghiên cứu khoa học, bảo tồn và giáo dục môi trường trong điều kiện sinh thái phù hợp với vùng phân bố tự nhiên của loài ở Việt Nam.
Vượn đen má trắng có tên khoa học là Nomascus leucogenys Ogilby, 1840 thuộc họ Vượn (Hylobatidae), bộ Linh trưởng (Primates). Đây là loài động vật hoang dã quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng được xếp vào bậc Nguy cấp (EN) trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục Đỏ IUCN (2014).
Loài này được xếp vào Nhóm IB (nhóm nghiêm cấm khai thác sử dụng vì mục đích thương mại) trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam và Phụ lục I Công ước về Buôn bán Quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Ở Việt Nam, loài Vượn đen má trắng có khu vực phân bố từ Lai Châu đến Hà Tĩnh. Những nguyên nhân đe dọa đến sự tồn tại, nguy cơ chính đe dọa tuyệt chủng, của loài Vượn đen má trắng là do mất sinh cảnh sống tự nhiên và do bị săn bắt trái phép. (Đầu Tư 16/12) đầu trang(
Từ đầu năm đến nay, huyện Cát Hải chỉ đạo Phòng NN&PTNT phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện tổ chức 17 buổi tuần tra bảo vệ rừng, động vật hoang dã, chim di cư tại các xã thuộc quần đảo Cát Bà.
Tham gia tuần tra có gần 90 lượt người tham dự gồm cán bộ Kiểm lâm, cán bộ Phòng Nông nghiệp, thành viên Tổ xung kích bảo vệ và phát triển rừng các xã Xuân Đám, Hiền Hào, Phù Long, thị trấn Cát Bà. Qua tuần tra, các lực lượng thu giữ 1.880m lưới, 77 cây sào tra và nhiều dụng cụ bẫy chim di cư.
Đây là hoạt động cần thiết sau khi UBND huyện có Công điện về việc tăng cường công tác quản lý, bảo vệ các loài động vật hoang dã và chi di cư trên quần đảo Cát Bà.
Phòng NN&PTNT phối hợp với Hạt Kiểm Lâm huyện và các ban ngành, các xã thị trấn trên địa bàn huyện triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền đến nhân dân các xã, thị trấn vùng trọng điểm về công tác bảo tồn thiên nhiên, động vật hoang dã, chim di cư, và tính đa dạng sinh học trên quần đảo Cát Bà. (Báo Hải Phòng 13/12) đầu trang(
Khi những cánh rừng già giữa đại ngàn Trường Sơn ít nhiều đã bị lâm tặc chặt phá thì ngay tại bản Ruộng, xã Hướng Tân (huyện Hường Hóa, Quảng Trị) có một khu rừng hầu như vẫn chưa bị ai xâm phạm từ lúc sơ khai cho đến nay.
Để giữ được sự sống, sự trường tồn cho khu rừng nguyên sinh với những tán cây to lớn ấy, một đội bảo vệ đã được thành lập. Họ được người trong bản ví von là những ông “kiểm lâm thôn”. Dù chỉ mang tính chất nghiệp dư nhưng mỗi tháng những “kiểm lâm thôn” này đều luân phiên, tích cực cùng nhau đi tuần tra, bảo vệ rừng.
"Kiểm lâm" tay không đi tuần đúng như lời hẹn từ trước với anh Hồ Văn Thắng, Trưởng bản và cũng là Đội trưởng Đội tuần tra bản Ruộng, vào giữa trung tuần tháng 7 tôi quay trở lại bản Ruộng để được đi tuần cùng với mấy anh em trong đội. Đi để được nghe về những câu chuyện bảo vệ rừng của đội và đi để có thể tận mắt chứng kiến những gốc cây cổ thụ to lớn, sự trù phú của khu rừng mà khi nghe người dân kể vẫn nửa tin, nửa ngờ.
Sự nghi ngờ về cái gọi là “rừng già còn nguyên vẹn” của PV không hẳn thiếu căn cứ, bởi chỉ cách đó không xa là xã Hướng Linh (huyện Hường Hóa), nơi cũng được mệnh danh là có những tán rừng già trải rộng bát ngát, bất khả xâm phạm thì nay nó chỉ còn cái “vỏ” ngoài, bên trong “ruột rừng” đã bị lâm tặc “xử” gần như chỉ còn trơ trụi.
Chiếc xe máy chở PV dừng dưới ngôi nhà sàn của anh Thắng, cũng vùa đúng lúc đội tuần tra đã đông đủ. Họ đã sẵn sàng lên đường. Bốn người trong đội già, trẻ khác nhau, nghe bảo người lớn nhất đã trên 50 tuổi, trẻ nhất thì cũng ở tuổi 24. Người dân trong thôn hay ví von họ là “kiểm lâm”, đó là sự vay muợn để minh họa cho những hành động đẹp đẽ chứ thực chất họ cũng chỉ là những người dân nghèo sống tựa lưng vào dãy núi.
Anh Thắng bảo rằng, bản thân anh và họ đều nhận thấy được những lợi ích to lớn từ rừng nên đã xung phong đi trông nom và bảo vệ. Ngày thường, tất thảy mọi người cặm cụi, chăm lo làm ăn nhưng khi nhận được lệnh tuần rừng là mọi công việc của gia đình đều dẹp lại.
Không có những bộ quân phục, những khẩu súng trường oai vệ như những kiểm lâm “chuẩn”, ở những “kiểm lâm” nghiệp dư này chỉ có những bộ áo quần đã sờn vai, rách lưng và luôn mang bên mình một chiếc rựa để có lúc cần đến, họ mang trên vai một trọng trách to lớn mà dân bản đã giao phó - chăm sóc và bảo vệ rừng.
Anh Hồ Văn Quý chỉ mới 24 tuổi nhưng đã có 4 năm “công tác” trong đội bảo vệ, bộc bạch: “Sống cạnh rừng, mình thấy rừng mang lại được nhiều lợi ích cho dân bản nên mình cũng xung phong vào đội để giữ rừng thôi. Cái chi có lợi là mình làm, cái xấu, cái dở mình học theo làm chi. Đi ri vui lắm, thấy mình sống có ý nghĩa chứ không vô dụng”.
Cơn mưa rừng bất chợt ùa về, những tán rừng như chiếc dù rộng lớn che chở cho họ. Mưa vẫn cứ rơi và càng lúc càng nặng hạt, nhưng những bước chân vẫn cứ bước đều trên con đường đã hằn lối.
Có đi theo mấy anh mới cảm nhận được cái khổ, cái cực của việc đi rừng. Những dốc núi dựng thẳng đứng, dây leo chằng chịt, gai rừng tua tủa chỉ chực sẵn để cào người. Những con vắt, muỗi rừng... dường như đã ngửi được mùi con người, chúng thi nhau bấu víu, bám chặt vào da thịt để cắn, để đốt. Nhưng cũng nhờ lẽo đẽo đi theo các anh, mới có dịp được mục sở thị những gốc cây cổ thụ to lớn. Những gốc cây to đến nỗi phải 3 người trưởng thành ôm mới gần bao hết.
Đoán được PV đang nhẩm đếm xem có bao nhiêu gốc cổ thụ, anh Thắng vội khoe: “Nhà báo đếm không hết mô, nhiều vô kể. Nhà báo mà đếm những gốc cây cổ thụ ở trong rừng này thì không khác gì là đang đếm sao ở trên trời đó”.
Anh Thắng vừa dứt lời, cả đội rộ lên cười. Tiếng cười trong rừng bay xa rồi dội ngược lại, nghe cứ ngỡ như rừng đang cười. Vâng, đúng là “rừng đang cười” chứ không phải “rừng đang khóc” như ở xã Hướng Linh kế bên. Rừng yên ổn, bản làng yên vui Bản Ruộng có vỏn vẹn 105 hộ dân, nằm nép mình bên tán của khu rừng già nguyên sinh.
Theo ghi nhận thực tế ở bản Ruộng, tuy cuộc sống của những người dân ở đây còn khó khăn, nghèo đói nhưng ở trong bản ai cũng có ý thức tham gia bảo vệ rừng. Nghe kể, những nội quy về bảo vệ rừng, hình phạt khi có ai chặt phá rừng luôn được anh Trưởng bản Hồ Văn Thắng lồng ghép vào trong mỗi cuộc họp hay sinh hoạt của bản.
Năm 2006, bản Ruộng được chính quyền giao quản lý 101 héc ta rừng tự nhiên. Dân bản Ruộng hồ hởi, họ mừng như được mùa rẫy bởi từ đây họ chính thức được giao quyền bảo vệ và hưởng lợi từ “mẹ” rừng. Ngay từ khi nhận rừng, toàn bản với 105 hộ dân đều tự nguyện tham gia vào công tác bảo vệ.
Bản cũng đã xây dựng Bộ quy ước bảo vệ rừng, thành lập 4 đội tuần tra, mỗi đội 4 thành viên thay phiên nhau đi tuần mỗi tháng 3 lần; đồng thời thường xuyên phổ biến, vận động người dân cùng chung sức bảo vệ, trong đó Bộ quy ước luôn chú ý đến vai trò to lớn của già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng.
Trong nội quy bảo vệ rừng của bản Ruộng có đoạn nêu: “Nếu ai chặt một cây trong rừng thì sẽ bị phạt. Cây to thì con trâu to, cây nhỏ thì con trâu nhỏ. Nếu có ai muốn xin một vài cây để dựng nhà thì phải làm đơn thông qua thôn bản và chính quyền xã. Còn ngoài ra không ai được phép chặt cây, cho dù đó là một nhánh củi nhỏ. Ai cũng phải ra sức bảo vệ rừng”.
Anh Hồ Văn Phong, một người được xem là thầy thuốc của bản bộc bạch: “Mình hay vào rừng tìm các vị thuốc để chữa trị cho người dân trong bản lắm. Các dược liệu trong rừng thì nhiều vô kể, mình lấy về để chữa trị miễn phí cho bà con nên không bị phạt. Có nhiều người bệnh nặng, thuốc tây chữa không lành nhưng khi uống các loại thuốc do mình kiếm được thì bệnh giảm đi nhiều lắm. Bản làng này biết ơn khu rừng này lắm nên giờ ai cũng ra sức để giữ gìn”. (Pháp Luật VN 14/12, tr11) đầu trang(
Ngày 15-12, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) tổng kết dự án Cải thiện sức chống chịu với tác động của biến đổi khí hậu vùng ven biển Đông Nam Á khu vực rừng dự trữ sinh quyển thế giới Cần Giờ (TP.HCM), giai đoạn 2011-2014.
Cần Giờ có 50% diện tích là rừng ngập mặn, hiện đang chịu tác động do biến đổi khí hậu và nước biển dâng của khu vực hạ lưu sông Mekong. Theo ông Đoàn Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND huyện Cần Giờ, địa phương đã thực hiện nhiều chương tình, dự án ở khu vực rừng ngập mặn Cần Giờ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Với sự hỗ trợ của IUCN, trong giai đoạn 2011-2014, các tiểu dự án đã mang lại kết quả rất lớn trong việc bảo vệ rừng ngập mặn Cần Giờ và nâng cao thu nhập cho người dân sinh sống tại đây, đặc biệt là dự án cải thiện sinh kế cho hộ gia đình tham gia quản lý bảo vệ rừng ngập mặn thông qua mô hình đầm sản xuất, nuôi hàu, ốc len... dưới tán rừng đã giúp người dân nâng cao thu nhập, yên tâm hơn với nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ rừng.
Ông Andrew Wyatt, Giám đốc chương trình Mekong thuộc IUCN, cho rằng rừng ngập mặn Cần Giờ là khu dự trữ sinh quyển rất quan trọng, vùng đệm để chống chịu với tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, các hoạt động xâm phạm rừng ngập mặn Cần Giờ như đánh bắt cá, chặt cây... của người dân vẫn diễn ra.
Mặc dù Ban Quản lý rừng ngập mặn Cần Giờ đã phối hợp với các hộ được giao đất rừng tham gia bảo vệ rừng trong khu vực được giao nhưng do không đủ thẩm quyền và năng lực để ngăn chặn nên chưa thực sự hiệu quả. (Người Lao Động 17/12, tr11) đầu trang(
Ngày 16-12, Cục Dân quân tự vệ (DQTV), (Bộ Tổng Tham mưu), Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (Bộ Công an) và Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã tổ chức Hội nghị giao ban năm 2014 và ký kết quy chế phối hợp thực hiện Nghị định số 74/2010/NĐ - CP của Chính phủ về phối hợp hoạt động giữa lực lượng DQTV với lực lượng Công an xã, phường, thị trấn, lực lượng Kiểm lâm và các lực lượng khác trong giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ rừng.
Về dự và chỉ đạo hội nghị có Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Bùi Văn Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an và ông Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Trong năm 2014, thực hiện Nghị định của Thủ tướng Chính phủ, quy chế hoạt động, Cục DQTV, Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và Cục Kiểm lâm đã tích cực, chủ động làm tốt công tác tham mưu cho các bộ, ban hành hàng chục các văn bản, hướng dẫn chỉ đạo; thường xuyên giao ban, trao đổi thông tin nắm tình hình và phối hợp tiến hành các đợt kiểm tra tại 8 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tại các địa phương cơ sở lực lượng dân quân, công an xã, kiểm lâm đã phối hợp chặt chẽ trong công tác thông tin, trao đổi tình hình, tuyên truyền vận động quần chúng, đấu tranh phòng chống tội phạm, diễn tập chiến đấu trị an, phòng chống cháy rừng. Tính đến tháng 30-10-2014, các lực lượng đã phối hợp xử lý 18.417 vụ vi phạm, xử phạt hành chính 18.222 vụ và khởi tố 195 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng; dập tắt 419 vụ cháy rừng.
Trên toàn quốc đã huy động 209.695 DQTV với 442.735 ngày công tham gia phối hợp giữ gìn an chính trị, trật tự an toàn xã hội, tuần tra, bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng, tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và diễn tập cấp xã...
Tại hội nghị, có 25 tập thể, cá nhân của 3 Cục được khen thưởng. Phát biểu tại hội nghị, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ ghi nhận, đánh giá cao kết quả phối hợp hoạt động giữa Cục DQTV, Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và Cục Kiểm lâm trong giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng.
Yêu cầu các đơn vị tiếp tục làm tốt tham mưu cho 3 Bộ và thực hiện các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ và phát triển rừng; tăng cường phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện quy chế phối hợp giữa ba Cục bảo đảm đồng bộ, toàn diện, thống nhất; chú trọng nâng cao chất lượng trao đổi thông, dự báo tình hình, giao ban, kiểm tra, phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn địa phương, cơ sở; phối hợp chỉ đạo cơ quan quân sự, công an và Kiểm lâm các cấp tăng cường các biện pháp nắm và xử lý thông tinm, dự báo chính xác tình hình, tham mưu đề xuất giải quyết kịp thời, có hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh, bảo vệ và chữa cháy rừng ngay từ cơ sở, không để bị động, bất ngờ; chú trọng bảo vệ nội bộ, làm trong sạch địa bàn.... (Quân Đội Nhân Dân 17/12; Công An Nhân Dân 17/12, tr6) đầu trang(
Báo Sài Gòn Giải có bài “Thâm nhập cơ sở tàn sát thú rừng”, phản ánh tại tỉnh Bình Phước, nhiều năm qua tồn tại các cơ sở nhốt giữ, mua bán, giết mổ trái phép động vật hoang dã quy mô lớn, nhưng cơ quan chức năng địa phương có biểu hiện tiếp tay, bao che sai phạm.
Sau khi báo đăng, PV đã phải mất nhiều công sức mới liên hệ được với ông Vũ Đình Trúc, Phó Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Bình Phước, để làm rõ hơn các vấn đề liên quan.
Để gặp được lãnh đạo Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Bình Phước, PV phải “ngược xuôi” nhiều lần vì cán bộ tiếp dân chi cục cho rằng “chi cục không có quyền phát ngôn báo chí”. Chỉ đến khi có bút phê, chỉ đạo của Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bình Phước Nguyễn Văn Tới, ông Vũ Đình Trúc, Phó Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Bình Phước, mới đồng ý làm việc với phóng viên nhưng dặn hờ “chỉ là trao đổi thông tin ban đầu”.
Khi PV đề cập đến công tác theo dõi, kiểm tra, xử lý các điểm nhốt giữ, mua bán, giết mổ động vật hoang dã của kiểm lâm địa phương, cụ thể là tỉnh Bình Phước hiện có bao nhiêu cơ sở được cấp phép nuôi nhốt động vật rừng? Hoạt động của các cơ sở được cấp phép hiện nay thế nào? Công tác xử lý các cơ sở nuôi nhốt giết mổ “chui” thời gian qua?... Ông Vũ Đình Trúc trả lời: “Tôi quản lý chung không nắm được, cái này phải hỏi cán bộ chuyên môn, nhưng hiện tại cán bộ không có ở đây” (dù lúc này chỉ mới 16 giờ 15 phút!).
Liên quan đến cơ sở Bình Hoa, ông Vũ Đình Trúc cho biết cơ sở này hoạt động có giấy phép do chi cục cấp. Tuy nhiên, khi được hỏi cụ thể cơ sở này được cấp vào những hoạt động nào, nuôi nhốt, bảo tồn, mua bán, hay giết mổ và có được giới hạn ở những loài động vật nào thì ông Vũ Đình Trúc không trả lời được.
Ông Vũ Đình Trúc cho biết, cơ sở Bình Hoa được Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Bình Phước kiểm tra nhiều lần và từng bị xử phạt hành chính các lỗi: Nuôi nhốt thú rừng không có nguồn gốc rõ ràng, kinh doanh thú rừng không có giấy phép. “Từng được kiểm tra và bị xử phạt nhiều lần, sao cơ sở này vẫn cứ tồn tại?”, “Nó hoạt động tinh vi lắm, chứa dưới tầng hầm, với lại khoảng cách giữa các lần vi phạm lâu, không nằm trong quy định xử phạt” - ông Vũ Đình Trúc nói.
Về kết quả xử lý số động vật hoang dã nuôi nhốt tại cơ sở Bình Hoa được Kiểm lâm Vùng 3, kiểm lâm - chính quyền - công an địa phương bắt quả tang bàn giao lại cho kiểm lâm địa phương xử lý hôm 10-12 vừa qua, ông Vũ Đình Trúc cho biết công an tỉnh và công an đang tiến hành các bước xử lý theo quy định, chưa có kết quả.
Trong khi đó, ông Trần Văn Thành, Phó Giám đốc Kiểm lâm vùng III, cho biết ngay sau hôm kiểm tra, xử lý các vi phạm tại cơ sở Bình Hoa (80 Nguyễn Huệ, phường Phước Thiện, thị xã Đồng Xoài) bị dang dở do ngành chức năng địa phương thiếu sự phối hợp chặt chẽ, có biểu hiện tiếp tay cho cơ sở vi phạm tẩu táng tang vật, Kiểm lâm vùng 3 đã có báo cáo toàn bộ sự việc đến Cục Kiểm lâm để được giải quyết, xử lý, làm rõ đơn vị thiếu trách nhiệm.
Đồng thời Kiểm lâm vùng III cũng kiến nghị Cục Kiểm lâm cần đánh giá xác thực hiện tượng cả nể, ngại va chạm, thậm chí bao che, bảo kê của kiểm lâm địa phương trong thực hiện nhiệm vụ. Bởi thực tế trên đã tạo điều kiện cho việc vi phạm tài nguyên rừng ngày càng nghiêm trọng hơn, tinh vi hơn, có nhiều hành vi chống đối, coi thường pháp luật, gây nhiều bức xúc cho ngành và dư luận xã hội.
Phó Giám đốc Kiểm lâm vùng III Trần Văn Thành, thông tin thêm, hiện nay qua công tác rà soát, theo dõi của đơn vị cho thấy tại Bình Phước tình trạng nuôi nhốt, kinh doanh trái phép động vật rừng rất đáng báo động. Hầu hết nhà hàng, quán nhậu ở địa phương này đều có tình trạng mua bán động vật rừng, tiêu thụ sản phẩm từ động vật rừng, chưa kể còn chuyển đi tiêu thụ ở các địa phương khác.
Ở Việt Nam hiện nay, các động vật rừng như: Tê giác, hổ, sao la gần như không còn. “Nếu công tác ngăn chặn nạn nhốt giữ, mua bán, giết mổ trái phép động vật hoang dã không được các ngành chức năng từ trung ương đến địa phương thực hiện quyết liệt, tôi e rằng 2 - 3 năm nữa, các loại vật, như: rắn hổ mang chúa, mèo rừng, tê tê cũng sẽ biến mất ở Việt Nam…”, ông Trần Văn Thành lo lắng.
Ông Mai Xuân Tình, cán bộ Hiệp Hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS - chương trình ở Việt Nam), cho rằng con người đã, đang và sẽ chịu tác động tiêu cực rất lớn khi loài vật rừng quý hiếm ngày càng mất đi. Điển hình nhất là việc rắn lục đuôi đỏ xuất hiện nở rộ trong thời gian gần đây ở một số tỉnh của Việt Nam.
Ngoài yếu tố thời tiết giúp rắn lục sinh sản nhanh, còn có nguyên nhân khác là các loài vật ăn thịt rắn lục (như rắn hổ mang chúa) còn rất ít, thậm chí biến mất ở Việt Nam hoặc tuyệt chủng… Do đó, việc ngăn chặn các hành vi nhốt giữ, mua bán, giết mổ trái phép động vật rừng, cần bảo tồn thú hoang dã là việc làm cần thiết từ lúc này. (Sài Gòn Giải Phóng 17/12, tr6) đầu trang(
Theo đại diện Hạt Kiểm lâm huyện Krông Ana (phụ trách địa bàn 2 huyện Krông Ana và Cư Kuin), vào ngày 25/10, Hạt đã phối hợp các ngành chức năng và chính quyền địa phương tiến hành kiểm tra tại xưởng cưa của ông Nguyễn Tiến Dũng (ở thôn Nam Hòa, xã Dray Bhăng, huyện Cư Kuin) theo đơn tố giác của ông Trần Minh Lợi (ở xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk).
Tại thời điểm kiểm tra, xưởng cưa của ông Dũng đang cưa xẻ một số lâm sản không có giấy tờ hợp pháp nên đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định tạm giữ 12 lóng gỗ Sao (nhóm II, tổng khối lượng 8,306m3) và 64 hộp gỗ xẻ Sao (khối lượng 1,635m3), đưa về Hạt Kiểm lâm Krông Ana để xử lý.
Hiện tại, đã có 3 đối tượng ở xã Cư K’ty (huyện Krông Bông) đứng ra nhận là chủ sở hữu của 1 lóng gỗ Sao (khối lượng 5,024m3), được các đối tượng này trục vớt dưới lòng sông Krông Ana rồi đưa về xưởng cưa của ông Dũng để xẻ gỗ làm nhà; không có ai đứng ra nhận làm chủ sở hữu của số gỗ còn lại.
Cùng ngày, đoàn tiếp tục kiểm tra nhà bà Hoàng Thị Sen (buôn Ea M’tă, xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin) và khuôn viên tịnh thất của ông Thích Trung Phạm (ở xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin).
Tại nhà bà Sen, đoàn đã ra quyết định tạm giữ 2 phách gỗ Sao (khối lượng 0,515m3; đã làm hoàn chỉnh và thổi PU) không có giấy phép. Còn tại tịnh xá, đoàn phát hiện 5 hộp gỗ xẻ Sao (khối lượng 1,817m3) và 3 lóng gỗ Sao (khối lượng 0,68m3) không có giấy tờ hợp pháp. Khi kiểm tra, bà con phật tử tụ tập đông, phản ứng, cản trở nên đoàn liên ngành đã thống nhất lập biên bản giao lại cho tịnh thất trông coi, bảo quản số gỗ trên.
Sau khi xin ý kiến chỉ đạo của UBND huyện, ngày 7/11, đoàn liên ngành đã xác minh và làm việc tại tịnh thất của ông Thích Trung Phạm. Kết quả, toàn bộ số gỗ trên không có giấy tờ hợp lệ, gỗ đã khô mục, giá trị sử dụng còn lại khoảng 60%; có 6 hộ dân khai đã trục vớt số gỗ này dưới lòng sông rồi đến cúng nhường để xây dựng tịnh thất nên đoàn liên ngành đã thống nhất lập biên bản kiến nghị UBND huyện xem xét cho tịnh thất được sử dụng số gỗ trên.
Tiếp đó, ngày 26/10, đoàn liên ngành tiếp tục kiểm tra tại quán cà phê Cóc của vợ chồng thầy Kiên, cô Tuyền (ở xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin) và phát hiện 3 phách gỗ Sao (khối lượng 0,796m3; đã hoàn chỉnh và thổi PU) trong khu vực sân vườn. Tại thời điểm kiểm tra, không có ai đứng ra nhận là chủ sỡ hữu và chủ nhà đi vắng nên đoàn liên ngành đã lập biên bản thu giữ số gỗ trên, đưa về Hạt Kiểm lâm huyện Krông Ana để điều tra, xử lý.
Vào sáng ngày 13/11, đoàn liên ngành huyện Cư Kuin đã mời Thiếu tá Võ Ngọc Quang (Đội trưởng Đội CSĐT Công an huyện Cư Kuin) lên trụ sở UBND huyện để công bố quyết định kiểm tra nhà riêng của ông Quang và bố vợ ông ta vì bị người dân tố cáo chứa chấp gỗ lậu.
Thế nhưng khi nghe quyết định xong, ông Quang (đang mặc cảnh phục, đeo quân hàm) cho rằng có động cơ cá nhân nhằm hủy hoại uy tín, danh dự của mình nên yêu cầu đưa từng người một vào khám, nếu không sẽ dùng 200lít xăng (ông Quang nói đã chuẩn bị trong nhà từ trước) đốt cả nhà.
Khi đoàn không chấp nhận yêu cầu trên, ông Quang đã phanh ngực áo, tỏ thái độ hung hăng, không tôn trọng, ăn nói thiếu văn hóa, có những lời lẽ hăm dọa côn đồ và bất ngờ rút súng ngắn ở trong người ra định bắn các thành viên trong đoàn, gây náo loạn tại trụ sở UBND huyện Cư Kuin. Xét thấy hành vi của ông Quang quá nguy hiểm, đoàn liên ngành đã thống nhất dừng cuộc họp, dừng việc khám xét lại để báo cáo lên cấp trên, các ngành chức năng xử lý sự việc.
Theo một vị lãnh đạo UBND huyện Cư Kuin, đến thời điểm hiện tại, Quyết định khám nhà ông Quang và bố vợ ông ta vẫn chưa được thực hiện. Bản thân ông Quang hiện đang bị Trưởng Công an huyện Cư Kuin đình chỉ công tác 20 ngày để xác minh, làm rõ vụ việc.
Về các vụ gỗ “vô chủ”, không rõ nguồn gốc nói trên, vị lãnh đạo này cho biết: “Do tính chất phức tạp của vụ việc, có liên quan đến nhiều người nên Hạt Kiểm lâm đã có công văn xin gia hạn thời gian xử lý. Hiện tại, Hạt Kiểm lâm đã cử 1 tổ công tác kết hợp với lực lượng công an khẩn trương xác minh, làm rõ các vụ việc”. (Tài Nguyên & Môi Trường 15/12) đầu trang(
Ngày 16/12, Đội Kiểm lâm cơ động số 1, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam cho biết, trong khi tuần tra tại khu vực Pà Dấu, huyện Nam Giang, lực lượng kiểm lâm phát hiện 19m3 gỗ các loại như chò, dổi thuộc nhóm III, VI… năm rải rác bên bờ đập thủy điện A Vương.
Hiện lực lượng Kiểm lâm đã lập biên bản và đưa số gỗ trên ra Hạt Kiểm lâm Nam Giang để giải quyết. (Nông Thôn Ngày Nay 17/12, tr2) đầu trang(
Hành chính hóa hành vi phá rừng tại hội nghị bàn tròn chánh án các nước ASEAN lần thứ 4 do TAND Tối cao phối hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức ngày 13-12, Viện Khoa học xét xử (TAND Tối cao) cho biết trong năm 2010, ước tính có khoảng 10 triệu m3 gỗ bất hợp pháp được nhập khẩu vào châu Âu, Trung Quốc từ Đông Nam Á với giá trị khoảng 3,5 tỉ USD.
Việt Nam cũng là một trong những nước đã và đang xảy ra tình trạng chặt phá rừng, vận chuyển, buôn bán trái phép gỗ với diễn biến phức tạp cả về tính chất vi phạm và mức độ thiệt hại.
Từ năm 2007-2014, TAND các cấp đã xét xử 2.299 vụ án hình sự với 4.568 bị cáo phạm tội xâm phạm tài nguyên rừng. Số lượng vụ án hình sự được điều tra, truy tố, xét xử chưa phản ánh hết được thực trạng phá rừng, khai thác rừng, vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép.
Bởi lẽ, theo quy định của Bộ Luật Hình sự thì người vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng chỉ bị xử lý hình sự nếu hành vi của họ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà vẫn tái phạm.
TAND Tối cao cho biết dù đã ký Công ước CITES nhưng không phải quốc gia nào Việt Nam cũng ký kết hiệp định tương trợ tư pháp; hơn nữa, đối tượng ở các nước ưu tiên cho việc bắt giữ khi người có hành vi vi phạm đã chạy sang quốc gia khác. Do vậy, việc điều tra các đối tượng vi phạm bên ngoài biên giới là điều gần như không thực hiện được. (Người Lao Động 14/12, tr14) đầu trang(
Trong mấy năm trở lại đây, nhiều khu rừng tại các huyện miền Tây Nghệ An đang bị tàn phá để tận thu dược liệu đem bán. Những vùng rừng đặc dụng như Vườn Quốc gia Pù Mát, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống; Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt... đang bị ảnh hưởng trầm trọng bởi nạn khai thác dược liệu trái phép.
Nói về sự đa dạng, phong phú về hệ động thực vật ở các cánh rừng miền Tây Nghệ An thì khó có nơi nào sánh bằng. Còn nhớ những năm trước, các thương lái Trung Quốc thu mua một số loại dược liệu khá quen thuộc với cái giá rất "bèo" như hạt sa nhân, tuyết nhung, sâm rừng... đã khiến cho các cánh rừng ở các huyện miền núi Nghệ An bị một phen chao đảo bởi hằng ngày có hàng nghìn lượt người vào rừng để khai thác các loại dược liệu này đem bán. Sự đa dạng về hệ sinh thái thực vật cứ thế giảm dần...
Sau khi các loại dược liệu này cạn kiệt dần, những năm gần đây thương lái lại chuyển hướng sang thu mua nhiều loại mới với chủng loại ngày càng đa dạng. Có thể kể đến các loại cây có dược tính cao như củ ba mươi, máu chó, hoàng đằng, chua ke, quả bo bo, thiên niên kiện...
Chính vì sự săn lùng gắt gao của các thương lái với giá thu mua ngày càng cao nên người dân ở các huyện miền núi đã không ngần ngại "xới tung" từng mét một những khu rừng già để "tận diệt" các loại cây dược liệu đem bán.
Tại quốc lộ 7A, đoạn qua thị trấn Con Cuông (huyện Con Cuông), cảnh tượng đường biến thành sân phơi, nơi tập kết các loại dược liệu đã trở nên quá quen thuộc với người dân huyện miền núi này.
Chị Đinh Kiều Trinh, ỏ khối 7, thị trấn Con Cuông, tiết lộ: "Mấy năm gần đây tình trạng khai thác, thu mua cây dược liệu đã trở nên quá phổ biến ở phố huyện chúng tôi. Hầu hết dược liệu đều được thu mua ở các xã vùng sâu như Môn Sơn, Lục Dạ, Chi Khê, Bình Chuẩn, Thạch Ngàn... với giá rẻ nhưng số lượng lớn. Trung bình mỗi ngày những cơ sở thu mua tại thị trấn này mua được hàng chục tấn".
Thử nhẩm tính theo lời chị Trinh với hàng chục cơ sở thu mua tại huyện Con Cuông thì hằng ngày có đến hàng trăm tấn dược liệu quý bị triệt hạ.
Ghé thăm một cơ sở thu mua ở cuối thị trấn Con Cuông (nằm ngay sát cổng vào Vườn Quốc gia Pù Mát), đập vào mắt là những đống dược liệu chất cao vút, xe máy, xe tải nườm nượp vào ra, người mua, kẻ bán tấp nập.
"Tôi mở cơ sở thu mua này đã 3 năm nay, thu mua đủ loại cây từ cây máu chó, quả bo bo, thiên niên kiện, lá chua ke... Trước đây mỗi ngày mua được hàng chục tấn với giá rẻ nhưng nay mỗi ngày chỉ được dăm bảy tấn nhưng giá cao hơn nhiều vì dược liệu giờ đã hiếm rồi", chủ cơ sở, cho biết.
Chủng loại dược liệu mà thương lái người miền Bắc thu mua càng ngày càng đa dạng. Mấy năm trước chỉ mua một số loại như hạt sa nhân, máu chó, thiên niên kiện... nhưng nay đã mua thêm những loại cây lạ khác như lá chua ke, củ cu li, củ quành, quả mây... "Cứ cạn kiệt loại dược liệu này thì thương lái lại yêu cầu mua loại khác khá mới nên chúng tôi nhiều khi cũng không biết được", vị này tiết lộ thêm.
Hiện nay, hầu khắp các huyện miền núi như Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong... đâu đâu cũng diễn ra cảnh người dân vào rừng lùng sục dược liệu để bán.
Tuy nhiên, người dân trực tiếp đi khai thác cũng như thương lái người bản địa đều không hiểu người ta thu mua các loại dược liệu này với mục đích gì, chỉ biết chung chung là mua về làm thuốc.
Anh Vi Văn Xuân, một chủ thu mua lá cây chua ke ở xã Châu Hoàn (huyện Quỳ Châu), cho biết: "Mình nhận làm đại lý thu mua dược liệu cho một người tên Bắc ở Quảng Ninh. Thường thì khoảng 2 tuần người này cho người đưa ô tô tải vào gom hàng. Chủng loại hàng trước đây khá đa dạng nhưng nay đã cạn kiệt, thời gian gần đây họ lại yêu cầu thu mua lá cây chua ke và quả mây... nhưng thú thục tôi không hiểu họ mua làm gì?".
Ông Lô Văn Quân, người ở xã Quang Phong (huyện Quế Phong), một trong những người sống chủ yếu bằng nghề rừng, cho hay: "Mỗi ngày gia đình tôi với 4 lao động chính vào rừng từ sáng sớm để hái lá chua ke. Loại này là cây thân gỗ nên để hái được chúng tôi thường chặt tận gốc. Khi họ mới thu mua, mỗi ngày gia đình hái được hàng mấy tạ, với giá tươi 3.000 đồng/kg thì mỗi ngày kiếm được cả triệu đồng".
Được biết, những người dân vào rừng săn dược liệu lúc đầu chủ yếu vào các cánh rừng sản xuất hay khu đệm của các rừng phòng hộ vườn quốc gia. Thế nhưng càng ngày nguồn cây dược liệu càng cạn kiệt, cứ thế họ lấn vào tận vùng lõi Vườn Quốc gia, Khu Bảo tồn thiên nhiên để phá rừng tìm dược liệu.
Vì thế, ngoài nguồn dược liệu ở các khu rừng cấm bị săn hái vô tội vạ thì một số lượng lớn cây thân gỗ, cây rừng... cũng vì thế mà bị tàn phá theo. Những vùng rừng đặc dụng như Vườn Quốc gia Pù Mát, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt... đang bị ảnh hưởng trầm trọng bởi nạn khai thác dược liệu trái phép.
Theo tìm hiểu, trước đây việc quản lý, cấp phép cho người dân khai thác các loại lâm sản phụ (trong đó có dược liệu) thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện nên số lượng người đi khai thác dược liệu không nhiều. Nhưng từ khi Thông tư số 35 (ngày 20/5/2011) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có hiệu lực, việc cấp phép khai thác dược liệu thuộc về UBND cấp xã với cơ chế thông thoáng hơn.
Người dân chỉ cần lập bản dự kiến sản phẩm khai thác, bản đăng ký khai thác lâm sản phụ rồi nộp về UBND xã, UBND xã rà soát các loại lâm sản phụ bà con đăng ký khai thác. Nếu các loại lâm sản phụ này không thuộc danh mục cấm khai thác, UBND xã phải cấp phép cho người dân vào rừng khai thác lâm sản phụ như đã đăng ký.
Tuy nhiên, hiện nay người dân vẫn thường quen khai thác tự do, mạnh ai nấy làm chứ hầu hết không hề xin ý kiến của cơ quan chức năng. Đặc biệt, hiện nay ngành chức năng chưa có chế tài xử phạt và cách quản lý hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng khai thác dược liệu quá mức, tận thu, tận diệt, ảnh hưởng đến an ninh rừng tự nhiên.
Ông Lê Xuân Đình, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Quỳ Châu, cho biết: "Hiện nay việc khai thác lâm sản phụ, trong đó có dược liệu diễn ra ở hầu khắp các xã của huyện. Tuy nhiên, nhiều nhất phải kể đến các xã vùng trong như Châu Phong, Châu Hoàn, Diễn Lãm, Châu Nga... Việc khai thác ồ ạt quá mức đã khiến cho nhiều loại trở nên cạn kiệt, nhưng để ngăn chặn tình trạng trên là vấn đề hết sức khó khăn đối với ngành chức năng".
Theo ông Trần Xuân Cường, Phó giám đốc Vườn Quốc gia Pù Mát, tình trạng khai thác dược liệu trong khu vực Vườn Quốc gia là có thật nhưng khó xử lý.
"Việc người dân khai thác các loại cây dược liệu trên địa bàn để bán cho thương lái diễn ra trong thời gian qua là có thật. Chúng tôi đang tìm cách kiềm chế tình trạng này, nhưng về mặt pháp lý, đây là lâm sản phụ, do chưa có chế tài nào xử phạt nạn khai thác loại lâm sản này nên nếu có bắt về thì cũng phải thả.
Do vậy, dù biết đây là hiểm họa khó lường, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái nhưng ngành kiểm lâm cũng đành để người dân tận diệt và thương lái tận thu. Nếu quá trình họ vào khu vực chúng tôi quản lý mà có dấu hiệu làm tồn hại đến Vườn thì mới xử lý theo hình thức khác được", ông Cường, nhấn mạnh.
Ông Lê Cao Bính, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Nghệ An, cũng cho biết, những khó khăn của ngành trong việc chế tài xử lý khai thác dược liệu: "Muốn xử lý nạn khai thác lâm sản phụ diễn ra tràn lan ở các huyện miền núi như hiện nay thì phải chờ đợi nghị định mới, còn Nghị định 99 trước đây không có chế tài để xử phạt nạn khai thác lâm sản phụ. Hơn nữa, đặc thù của người dân miền núi là sống dựa vào rừng nên muốn họ không vào rừng khai thác lâm sản phụ cũng như lâm sản trái phép thì cần phải có sự vào cuộc quyết liệt từ các ngành, các cấp. Trong đó đặc biệt là tạo công ăn việc làm tại chỗ ổn định cho bà con".
Trước những gì chứng kiến về tình trạng khai thác dược liệu ồ ạt rồi đem bán thô với giá rẻ mạt, mà không ít bán qua Trung Quốc, thật vô cùng xót xa, tiếc nuối. Ngày rừng xanh sạch bóng dược liệu quý chắc đã đến gần? (Doanh Nhân Sài Gòn 16/12) đầu trang(
Sáng 16/12, tại TP Hội An, (Quảng Nam), Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2014 và xây dựng kế hoạch thực hiện “Dự án Hành lang bảo tồn đa dạng sinh học Tiểu vùng sông Mekong (BCC) giai đoạn 2”.
Nội dung dự án gồm 4 hợp phần: Tăng cường thể chế và cộng đồng; Phục hồi hành lang đa dạng sinh học, bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái, quản lý bền vững bởi những người quản lý tài nguyên địa phương; Cải thiện sinh kế và hỗ trợ hạ tầng quy mô nhỏ tại các xã; Quản lý dự án và dịch vụ hỗ trợ.
Dự án được triển khai từ năm 2011-2019 với tổng kinh phí thực hiện là hơn 38 triệu USD, trong đó vốn vay từ ADB chiếm 78%. Mục tiêu tổng thể của dự án BCC là các hệ sinh thái rừng phát triển bền vững và thích ứng với khí hậu ở Trung Trường Sơn mang lại lợi ích cho đời sống địa phương và những người sử dụng ở hạ lưu. Bên cạnh đó, dự án còn giúp tăng cường năng lực cho các cấp tỉnh, huyện và xã ở vùng dự án trong việc quy hoạch hành lang đa dạng sinh học.
Tính đến thời điểm này, dự án đã giải ngân được 21 tỷ đồng, trong đó vốn vay của ADB là 18 tỷ đồng còn lại là vốn đối ứng địa phương. Hoạt động quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) tính đến tháng 8/2014, có 33/35 xã hoàn thành hồ sơ QHSDĐ, đạt 94% theo kế hoạch. Trong đó, hồ sơ QHSDĐ đã hoàn thành 100% (đã được UBND huyện ra quyết định phê duyệt) là 16/35 xã, đạt 45,7%.
Các hoạt động trồng rừng và quản lý rừng cộng đồng đã đạt những kết quả bước đầu. Trong năm 2014, Quảng Trị đã trồng khôi phục rừng được 170ha và trồng làm giàu rừng 80ha. Quảng Nam đã hoàn thành 50 ha phục hồi rừng và trồng làm giàu rừng 100ha. Thừa Thiên Huế đã thực hiện trồng mới phục hồi rừng 17,7ha và trồng làm giàu rừng 50ha. Qua đó, dự án tăng cường và hỗ trợ việc tạo thêm thu nhập cho người nghèo, các nhóm dân tộc thiểu số vùng sâu và vùng xa.
Tuy nhiên, theo đánh giá, đến nay dự  án đang bị cảnh báo do tiến độ thực hiện chậm, chỉ đạt 7% mục tiêu đề ra trong khi đã hết 30% thời gian thực hiện.
Dự án có nguy cơ không đạt được mục tiêu trước ngày đóng khoản vay vào ngày 30/9/2019. Việc chậm tiến độ cũng đồng nghĩa với việc đại diện cơ quan thường trú ADB tại Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang cân nhắc nguy cơ rủi ro ngừng toàn bộ hoặc một bộ phận của dự án. Để tránh nguy cơ trên và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, các bên đã thống nhất và cam kết thực hiện một số kế hoạch tăng tốc trong 6 tháng (9/2014-2/2015)
Tại Hội nghị, các địa phương triển khai dự án đã cùng nhau thảo luận, tìm ra các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu trong thời gian tới. (Chính Phủ 16/12) đầu trang(
Bà Rịa-Vũng Tàu: Bảo tồn hiệu quả loài rùa biển tại Vườn quốc gia Côn Đảo
Trước năm 1987, các loài rùa biển như Vích (Rùa Xanh - Chelonya mydas ), Đồi Mồi (Eretmochelys imbricata) được săn bắt tự do tại huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để sản xuất hàng mỹ nghệ, làm thực phẩm, thậm chí để chăn nuôi.
Nhưng sau chuyến thăm Côn Đảo của Giáo sư Võ Quý (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) và bà Elizabeth Kemf (Thư ký Hội Hòa bình xanh thế giới) vào giữa năm 1987 và theo khuyến cáo của các nhà khoa học này, công tác bảo tồn các loài rùa biển nói chung trong đó có Vích và Đồi Mồi tại Côn Đảo bắt đầu được quan tâm và quản lý, bảo vệ một cách chu đáo.
Tháng 8/1987, Ủy ban Nhân dân quận Côn Đảo thông báo: “Kể từ ngày 1/9/1987, cấm di chuyển các loại thú rừng, Đồi Mồi, Vích, kể cả các sản phẩm được chế biến từ các loài thú đó ra khỏi Côn Đảo”.
Nhưng nạn săn bắt rùa biển nói chung tại đây chỉ được đẩy lùi kể từ khi Ủy ban Nhân dân huyện ra Chỉ thị số 02 ngày 14/2/1989 về việc bảo vệ ngư trường, tài nguyên thiên nhiên, môi trường ở các bãi biển và vùng biển xung quanh Côn Đảo.
Trong đó quy định cụ thể một hành lang rộng 10 hải lý quanh các đảo, không được khai thác hoặc sử dụng các ngư cụ khai thác hải sản gây tổn thương hay cản trở rùa biển; không được giăng tất cả các loại lưới trước bãi đẻ của rùa biển; trong mùa sinh sản của rùa biển, các bãi đẻ là vùng bảo vệ nghiêm ngặt theo các quy định không làm thay đổi cảnh quan, không đốt lửa, không gây ô nhiễm môi trường…
Ngoài Ban quản lý rừng cấm, xí nghiệp hải sản, trạm khai thác yến sào và lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ, không ai được tự ý ra vào hoặc ngủ lại đêm ở các bãi cát, các hòn.
Đó là những cơ sở pháp lý có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng bước đầu cho công tác quản lý, bảo tồn các loài rùa biển tại Côn Đảo. Đồng thời Ban quản lý Rừng cấm Côn Đảo (nay là Vườn quốc gia Côn Đảo) đã có đề án cũng cố, xây dựng hệ thống các Trạm Kiểm lâm, đặc biệt là ưu tiên thành lập các Trạm Kiểm lâm tại các đảo nhỏ có tầm quan trọng về sinh thái, đa dạng sinh học và có rùa biển sinh đẻ tại Hòn Bảy Cạnh, Hòn Cau, Hòn Tre Lớn, Hòn Tài và Bãi Dương.
Việc triển khai các Trạm Kiểm lâm ở các đảo nhỏ trong thời điểm đó là một nỗ lực rất lớn của đơn vị và các kiểm lâm viên, với mục tiêu trước hết là ngăn chặn sự xâm nhập bất hợp pháp, khai thác trái phép rùa biển tại các đảo nhỏ, là một định hướng chiến lược có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn thiên nhiên nói chung, bảo tồn tài nguyên biển, rùa biển tại Côn Đảo cho đến ngày nay.
Về công tác nghiên cứu và bảo tồn rùa biển, địa điểm nghiên cứu đầu tiên về rùa biển tại Côn Đảo diễn ra tại bãi cát lớn Hòn Bảy cạnh vào năm 1990, sau đó tại Hòn Cau, Hòn Tre Lớn, Hòn Tài, bãi Dương (thuộc Hòn Bảy Cạnh).
Các cán bộ khoa học và các kiểm lâm viên tại đơn vị thực hiện với phương châm "vừa tự nghiên cứu, vừa triển khai" trong bối cảnh chưa thông thạo chuyên môn, không có tư liệu về rùa biển, không có sự hướng dẫn, hỗ trợ của các cơ quan khoa học trong và ngoài nước.
Sự nỗ lực của các cán bộ khoa học và nhân viên kiêm lâm ở các đảo lúc bấy giờ là những đóng góp "thầm lặng," rất đáng được trân trọng trong khoa học và thực hiện rất tốt việc ngăn chặn cơ bản tình trạng săn bắt trộm rùa biển tại các đảo nhỏ; ghi nhận các thông tin quan trọng về tập tính sinh đẻ, mùa đẻ trứng của rùa mẹ, đeo thẻ để theo dõi một số đặc điểm sinh học của rùa mẹ, các hoạt động làm tổ trên bãi cát của rùa biển.
Đến năm 1995, Vườn quốc gia Côn Đảo đã đề xuất và được Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới tại Việt Nam (WWF) đồng ý tài trợ ngân sách thực hiện dự án "Bảo tồn và cứu hộ rùa biển tại Côn Đảo".
Tiếp đó vào năm 1996, tổ chức WWF đồng ý với đề xuất và tiếp tục tài trợ ngân sách cho 8 cán bộ được tham gia khóa đào tạo và tham quan về bảo tồn biển, bảo tồn rùa biển tại Philippines, Malaysia. Có thể nói đây là những sáng kiến, dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn các hệ sinh thái biển, bảo tồn rùa biển tại Côn Đảo mà Vườn quốc gia Côn Đảo đã nỗ lực thực hiện.
Nhờ đó công tác bảo tồn biển, bảo tồn rùa biển tại Vườn quốc gia Côn Đảo được tổ chức thực hiện một cách khoa học, bài bản hơn và được nhiều tổ chức khoa học, bảo tồn trong nước, quốc tế chú ý, quan tâm hỗ trợ về nhiều mặt.
Một số nghiên cứu đã được thực hiện như đeo thẻ cho rùa mẹ để ghi nhận các thông tin số lần đẻ trong mùa sinh sản, chu kỳ đẻ trứng của rùa mẹ, địa điểm di cư của rùa mẹ....; cứu hộ trứng rùa biển; đeo máy theo dõi qua vệ tinh; nghiên cứu ảnh hưởng nhiệt độ trong tổ trứng đến giới tính của rùa con; triển khai chương trình nghiên cứu sự tác động của biến đổi bờ biển đến sự sinh sản của rùa biển và nghiên cứu cấu trúc ADN của quần thể rùa biển tại Côn Đảo vào năm 2010.
Qua hơn 20 năm nỗ lực quản lý, nghiên cứu, bảo tồn rùa biển, Vườn quốc gia Côn Đảo đã bảo vệ sinh cảnh đẻ trứng của Rùa Xanh và Đồi mồi một cách nghiêm ngặt.
Hiện tại Vườn có 14 bãi biển có Rùa lên đẻ trứng với tổng diện tích các bãi đẻ trên 20.000m2. Một số bãi đẻ của rùa có diện tích lớn như bãi cát lớn đảo Bảy Cạnh, bãi cát lớn Hòn Cau, bãi cát lớn Hòn Tre Lớn, bãi cát Hòn Tài, bãi Dương Hòn Bảy Cạnh.
Hàng năm từ tháng 5 đến tháng 10 có trên 400 rùa mẹ lên các bãi cát thuộc Vườn quốc gia Côn Đảo để làm tổ, đẻ trứng. Có trên 120.000 rùa con được cứu hộ và thả về biển, tỷ lệ trứng nở thành công đạt đến 87%.
Vào mùa cao điểm, một số bãi biển ở Hòn Bảy Cạnh, Hòn Tre lớn mỗi đêm có 10-20 rùa mẹ lên làm tổ. Biết được đặc tính sinh thái, đặc điểm sinh vật học của quần thể Rùa Xanh về làm tổ tại Côn Đảo. Kết quả các nghiên cứu trên là những dữ liệu quan trọng phục vụ cho công tác quản lý, bảo tồn rùa biển không những tại Côn Đảo mà còn có giá trị trong cả nước.
Có thể nói Vườn quốc gia Côn Đảo là nơi đầu tiên của Việt Nam thực hiện thành công và hiệu quả nhất về chương trình bảo tồn và cứu hộ rùa biển, đóng góp rất quan trọng trong Chiến lược hành động đa dạng sinh học của quốc gia và khu vực.
Ghi nhận những thành công và đóng góp quan trọng đó, Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã hai lần xác lập kỷ lục cho Vườn quốc gia Côn Đảo vào năm 2009 tiêu biểu như là nơi nuôi ấp và thả về thiên nhiên nhiều rùa biển nhất Việt Nam. Đồng thời Côn Đảo là Vườn quốc gia duy nhất ở Bà Rịa-Vũng Tàu có đầy đủ các dạng sinh thái... (VietnamPlus 16/12) đầu trang(
Tỉnh Quảng Nam là địa phương có nhiều công trình thủy điện nhất ở miền Trung. Cùng với đó, quá trình khai thác gỗ tận thu tại các lòng hồ thủy điện cũng bộc lộ nhiều bất cập. Mới đây, khi công trình thủy điện sông Bung 4 thuộc huyện Nam Giang đóng đập thì tình trạng khai thác gỗ trái phép cũng rộ lên.
Gần 4 tháng thủy điện Sông Bung 4 đóng đập, nước trong lòng hồ tiếp tục dâng cao. Trước đó, tỉnh Quảng Nam đã cấp phép cho 1 doanh nghiệp khai thác gỗ tận thu với 65 ha vùng lòng hồ, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh. Khối lượng gỗ được cấp phép khai thác hơn 1.000m3.
Theo báo cáo của doanh nghiệp này thì có hơn 600m3 được chuyển ra khỏi rừng. Còn thực tế, con số đó có đúng như vậy hay không thì không ai biết. Sau hơn 1 giờ đi sâu vào trong khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh. Mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt, nhưng không hiểu vì sao, nhiều lán trại được dựng lên khắp nơi. Hàng chục cây gỗ lớn nằm cách xa lòng hồ thủy điện đã bị đốn hạ. Rõ ràng, tại đây đã có tình trạng khai thác gỗ trái phép.
Tỉnh Quảng Nam đã giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như huyện Nam Giang giám sát việc khai thác gỗ tận thu theo quy trình rất cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế, 2 đơn vị này chưa thể kiểm soát được tình hình khai thác gỗ này.
Ông Huỳnh Tấn Đức – Giám đốc Sở NN & PTNT tỉnh Quảng Nam: Cần phải xem xét kỹ lại chủ trương cho phép tận thu gỗ và nếu phải cho phép tận thu, xét về giá trị kinh tế thì phải có biện pháp vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở cơ sở cũng như sự phối hợp đồng bộ của các ngành chức năng của tỉnh.
Vấn đề đặt ra là cần phải giám sát để không loại trừ những hệ lụy mà do quá trình tổ chức tận thu gỗ, sự giám sát nó cũng chặt chẽ lồng ghép những cái gỗ khác mà không chính thống với gỗ tận thu.
Không có dân cư sinh sống nhưng hiện nay có đến 35 thuyền máy hoạt động trong lòng hồ. Cũng như các hồ thủy điện khác tại Quảng Nam, phần lớn các phương tiện này dùng để vận chuyển gỗ trái phép. Nguy cơ tai nạn là điều khó tránh khỏi.
Ông A Lăng Mai – Chủ tịch UBND huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam: "Người dân, người ta không, người ta suy nghĩ rất đơn giản, tức là người ta chỉ mua phương tiện, có nghĩa là để phục vụ sinh kế này kia, rồi có ai cần nhờ kéo gỗ họ khai thác, tiếp tay thì họ vẫn làm bình thường, chứ người ta không nghĩ cái chuyện, đó là người ta vi phạm pháp luật”.
Những cánh rừng nơi đây còn 2 loại gỗ quý là gõ và lim. Vì thế, tình trạng khai thác gỗ, nhất là xung quanh các hồ thủy điện diễn ra rất phức tạp. Đến cuối tháng này, giấy phép khai thác gỗ tận thu hết hạn. Hiện tại, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam cương quyết không cho gia hạn thêm thời gian khai thác gỗ tận thu nữa nhằm bảo vệ những cánh rừng còn lại. (Truyền Hình Công An Nhân Dân 16/12) đầu trang(
Công an xã Quang Trung (Đồng Nai) đã bắt quả tang 2 đối tượng đang vận chuyển 24 kg xương động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Theo Hồ sơ, vào khoảng 1h30 ngày 26/2/2013, công an xã Quang Trung (huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai) đã bắt quả tang Lương Xuân Sai (chưa rõ nhân thân) và Nguyễn Văn Thành (42 tuổi, ngụ tại TX.Dĩ An, tỉnh Bình Dương) đang có hành vi vận chuyển 24 kg xương động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Tang vật thu giữ gồm 5 bộ xương thuộc loài Khỉ đuôi lợn có tổng trọng lượng 8,5kg; 2 bộ xương thuộc loài Khỉ mặt đỏ có tổng trọng lượng 5,2kg (đều thuộc nhóm IIB theo Nghị định 32/2006/QĐ-CP); 3 bộ xương thuộc loài Vọoc chả vá chân đen có tổng trọng lượng 6,3kg và 2 bộ xương thuộc loài Vọoc bạc Trường Sơn (còn gọi là Vọoc bạc Đông Dương) có tổng trọng lượng 4kg (đều thuộc nhóm IB theo Nghị định 32/2006/QĐ-CP).
Quá trình điều tra, Thành khai vào ngày 25/2/2013, Thành và Sai đi từ tỉnh Lâm Đồng về Bình Dương. Khi đi đến huyện Di Linh (tỉnh Lâm Đồng) thì cả hai gặp hai thanh niên (không quen biết) chào bán 1 bao xương động vật rừng với giá 1,5 triệu đồng. Sau khi kiểm tra, biết số xương trên là xương động vật rừng nên cả hai mua về để nấu cao.
Sau khi công an xã Quang Trung phát hiện sự việc đã thông báo đến Hạt kiểm lâm huyện Thống Nhất lập biên bản, tạm giữ số xương động vật trên và vụ việc được chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Thống Nhất khởi tố Vụ án, khởi tố bị can theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/8/2014, Thành bị bắt tạm giam còn Sai đã bỏ trốn. Hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống nhất đã ra lệnh truy nã. (Đời Sống & Pháp Luật 15/12) đầu trang(
Mới đây, Hạt Kiểm lâm phối hợp cùng Công an thành phố đã phát hiện tại vườn của gia đình ông Lế Kế Tấn – ngụ tại số 218, đường Nguyễn Văn Cừ xã Lộc Thanh có một container (không đầu kéo) 8,9m3 dỗi trái phép.
Qua kiểm tra container biển số kiểm soát: 51R – 5121 (không đầu kéo), lực lượng chức năng phát hiện bên trong có chứa 8,9 m3 gỗ dổi đã được xẻ phách và cắt ngắn, toàn bộ số gỗ này đều không có dấu búa của lực lượng kiểm lâm.
Theo thông tin do ông Tân – chủ nhà cho biết vào chiều cùng ngày, có một người lạ mặt chưa rõ danh tính đến xin gia đình ông cho gửi nhờ chiếc container để mang đầu kéo đi sửa. Nhưng, sau đó không thấy người lạ mặt này quay lại để lấy. Vì vậy, tạm thời lực lượng chức năng chưa xác định được danh tính chủ sở hữu của phương tiện và số gỗ nói trên.
Hiện, phương tiện và số gỗ đang được Hạt Kiểm lâm TP Bảo Lộc tạm thu giữ để phục vụ công tác điều tra, làm rõ. (Baoloc.org 15/12) đầu trang(
Phó chủ tịch UBND huyện An Lão Bùi Tiến Dũng vừa có ý kiến chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với UBND xã An Vinh ngăn chặn có hiệu quả việc khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép trên địa bàn xã An Vinh.
Theo đó, UBND xã An Vinh tổ chức họp dân, đầy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về công tác quản lý bảo vệ rừng; đưa ra kiểm điểm trước nhân dân những người có hành vi xâm hại đến rừng và những người tiếp tay cho lâm tặc, nhất là tại các Thôn 2, 5, 6.
Tăng cường công tác kiểm tra tạm trú, tạm vắng; bắt và xử lý nghiêm các trường hợp cất giữ gỗ không có nguồn gốc rõ ràng, trừ các trường hợp thật sự cần thiết do nhu cầu làm nhà phải được chính quyền địa phương kiểm tra xác nhận…
Hạt Kiểm lâm huyện, phối hợp chặt chẽ với Ban Quản lý rừng phòng hộ và UBND xã An Vinh thường xuyên tuần tra, kiểm soát ngăn chặn có hiệu quả tình trạng khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép trên địa bàn Thôn 6, xã An Vinh; Thống kê báo cáo UBND huyện các cơ sở cưa xẻ gỗ, sản xuất mộc dân dụng trên địa bàn xã trước ngày 30/12/2014.
Tiến hành điều chỉnh, thay đổi các bộ quản lý và kiểm lâm địa bàn tại xã An Vinh để nâng cao trách nhiệm được giao; nghiêm khắc xử lý trách nhiệm đối với các hộ nhận khoán quản lý bảo vệ rừng nhưng để xảy ra tình trạng xâm hại rừng, cần thiết có thể thay đổi hợp đồng hộ nhận khoán rừng.
Công an huyện tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông thường xuyên tuần tra, kiểm soát trên tuyến đường từ huyện lỵ đi xã An Vinh, thu giữ những phương tiện không đủ điều kiện tham gia giao thông, góp phần ngăn chặn việc vận chuyển lâm sản trái phép tại địa phương… (Anlao.binhdinh.gov.vn 15/12) đầu trang(
Sáng 16-12, tại Tiểu khu 355, khu rừng tự nhiên thuộc xã Ia Kênh (TP. Pleiku), Chi cục Kiểm lâm tỉnh phối hợp với Phòng Cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy và Cứu hộ Cứu nạn (Công an tỉnh) tổ chức diễn tập chữa cháy rừng cấp tỉnh năm 2014.
Tham gia diễn tập chữa cháy rừng có hơn 150 người gồm lực lượng Kiểm lâm các huyện: Chư Sê, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Pah; một số đơn vị chủ rừng, Công an tỉnh và lực lượng dân quân xã Ia Kênh.
Tại buổi diễn tập, Ban Chỉ huy đợt diễn tập chữa cháy rừng đã đưa ra tình huống giả định cháy rừng là do người dân xử lý thực bì làm nương rẫy để cháy lan vào rừng. Nhận được tin báo, lãnh đạo UBND xã Ia Kênh đã huy động lực lượng dân quân tự vệ xã, lập tức đến hiện trường tham gia chữa cháy. Đồng thời, huy động Ban Quản lý Rừng phòng hộ Bắc Biển Hồ-là đơn vị chủ rừng- lên phương án chữa cháy.
Các lực lượng tham gia diễn tập chữa cháy rừng được trang bị phương tiện, dụng cụ chữa cháy phù hợp với điều kiện của từng cấp. Từ những dụng cụ thô sơ cấp cơ sở (xã, thành phố) như: Cuốc xẻng, dao phát, bàn dập lửa, bình phun nước đeo vai... đến phương tiện hiện đại cấp tỉnh như: Xe chữa cháy, các thiết bị và dụng cụ chữa cháy... đã nhanh chóng khống chế và dập tắt đám cháy.
Đợt diễn tập chữa cháy rừng lần này là dịp để lực lượng chữa cháy rừng các cấp nâng cao nhận thức, năng lực cũng như khả năng áp dụng các biện pháp kỹ thuật, chiến thuật và sử dụng các thiết bị chữa cháy cho các lực lượng tham gia chữa cháy rừng, nhằm tạo thế chủ động xử lý các tình huống cháy rừng xảy ra. (Báo Gia Lai 16/12) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa có ý kiến chỉ đạo về tình hình khiếu nại đông người, phức tạp liên quan đến việc lấn chiếm và xâm canh đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Phó Thủ tướng giao UBND tỉnh Đắk Nông và UBND tỉnh Bình Phước tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân; tuyên truyền, vận động không để công dân khiếu nại đông người, vượt cấp ra Trung ương; tiếp tục rà soát, xác định diện tích đất bị xâm canh, lấn chiếm và thực trạng các hộ dân không có đất ở, đất sản xuất trên địa bàn để có biện pháp giải quyết phù hợp.
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng ở Trung ương xử lý các tình huống phức tạp, đảm bảo ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Phó Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo tỉnh, huyện trực tiếp đối thoại với dân, xuống tại hiện trường và kiểm tra từng hộ để biết cụ thể, có giải pháp sát đúng, nhằm ổn định sớm tình hình.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ, các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính và UBND tỉnh Đắk Nông, Bình Phước bàn và thống nhất về Dự án ổn định dân cư ở xã Đắk Ngo và xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. (Chính Phủ 16/12) đầu trang(
Chiều 16/12, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị trực tuyến về công tác trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
Bộ trưởng Cao Đức Phát chủ trì tại đầu cầu Hà Nội với sự tham gia trực tuyến của 14 địa phương và chủ các dự án xây dựng thủy điện ở các tỉnh có kết quả trồng rừng thay thế đạt kết quả thấp.
Tham dự hội nghị còn có đại diện các Bộ: Công Thương, TN&MT, KH&ĐT, Văn phòng Chính phủ và Tập đoàn điện lực Việt Nam.
Từ khi Nghị định số 23 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực thi hành vào năm 2006, tại 55 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 2.320 dự án đầu tư chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác phải trồng lại rừng với tổng diện tích 76.040 ha.
Tuy nhiên, đến cuối năm ngoái mới trồng được 2.540 ha, diện tích còn lại phải trồng là 73.500 ha. Các địa phương có diện tích rừng thay thế lớn nhưng chưa trồng gồm: Lai Châu, Thanh Hóa, Gia Lai, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Bình Phước, Trà Vinh.
Một số tỉnh có diện tích rừng trồng thay thế đạt mức thấp gồm: Nghệ An, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Quảng Nam, Phú Yên, Lạng Sơn… Nhiều chủ dự án chưa thực hiện, trong đó đáng chú ý là 27 dự án phải trồng rừng thay thế trên 100 ha…
Theo ý kiến các đại biểu, kết quả trồng rừng thay thế đạt thấp so với kế hoạch đề ra là do nhiều địa phương thiếu quan tâm chỉ đạo và chưa phân công cụ thể việc tổ chức thực hiện, chưa chủ động tháo gỡ vướng mắc và đôn đốc các chủ dự án thực hiện trách nhiệm pháp lý về trồng rừng thay thế trên địa bàn.
Bên cạnh đó, một số địa phương chấp thuận cho chủ dự án nộp tiền trồng rừng thay thế vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh nhưng lại sử dụng sai mục đích, để vốn tồn đọng, thậm chí sử dụng số tiền đã thu để chi cho các nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng thay vì chỉ sử dụng cho thực hiện nhiệm vụ trồng rừng thay thế.
Ông Nguyễn Bá Ngãi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho biết: “Thông tư 24 đã quy định rõ về các dự án trong tỉnh không bố trí được quỹ đất trồng rừng thì phải nộp tiền Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, trong điều kiện tỉnh cũng không bố trí được quỹ đất trồng rừng thì sẽ nộp vào Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam để Bộ NN&PTNT cân đối trồng bù diện tích rừng ở các địa phương khác trong tỉnh hoặc ở các địa phương khác có quỹ đất”.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát nêu rõ: Các cấp, các ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai nghiêm túc việc tăng cường chỉ đạo thực hiện trồng rừng thay thế diện tích rừng chuyển sang mục đích sử dụng khác, coi đây là nhiệm vụ đột xuất quan trọng trong thời gian tới.
Trong quá trình triển khai phải đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ. Kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm trong trồng rừng thay thế; đồng thời buộc trồng rừng thay thế đúng theo quy định ngay trong thời vụ gần nhất.
Bộ trưởng NN&PTNT nhấn mạnh: Các chủ đầu tư phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc luật pháp. Chúng ta nghiêm túc quán triệt tinh thần chỉ đạo của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các quy định của luật pháp đến các bên liên quan, đặc biệt là các chủ đầu tư.
Đề nghị lãnh đạo các tỉnh và sở, ngành liên quan đôn đốc, hướng dẫn sâu sát các chủ đầu tư, yêu cầu phải triển khai bên cạnh đó hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về quỹ đất trồng rừng thay thế cho các chủ đầu tư thực hiện trách nhiệm của mình. (Chính Phủ 16/12; Tiền Phong 17/12, tr14) đầu trang(
Dưới đây là ý kiến của ông Lý Tài An, dân tộc Dao, xóm Ba Nhất, xã Phú Thượng Võ Nhai, Thái Nguyên về chính sách giao đất giao rừng.
Ông Lý Tài An cho biết: Được Nhà nước giao đất giao rừng, bản thân tôi và người dân ở đây rất vui và ủng hộ chính sách thiết thực này. Từ chính sách giao đất giao rừng mà người dân được làm chủ khu rừng mình được giao trồng, chăm sóc, bảo vệ, từ đó được hưởng các nguồn lợi từ rừng.
Ngoài ra, mức hỗ trợ trồng rừng sản xuất hiện nay còn thấp, chúng tôi phai tự xoay xở thêm nguồn vốn để đầu tư trồng rừng. Tuy nhiên việc tiếp cận vốn từ các ngân hàng không dễ dàng đã khiến chúng tôi gặp nhiều khó khăn khi muốn đầu tư thâm canh, năng suất rừng.
Trong quy hoạch phát triển rừng hiện nay chưa được chú trọng, chủ yếu vẫn do người dân tự ý lựa chọn cây trồng. Vì vậy, dẫn tới việc không hình thành vùng cây nguyên liệu tập chung mà sản xuất manh mún, khó tiêu thụ sản phẩm. Để đảm bảo rừng được tái sinh lại, Nhà nước phải khoanh vùng, quy hoạch lại rừng để giao cho dân quản lý, trồng, chăm sóc, bảo vệ.
Đối với những khu rừng phòng hộ cần khoanh vùng để đảm bảo nguồn nước và tài nguyên. Còn đối với khu vực không thuộc rừng phòng hộ thì đưa vào sản xuất, giao cho dân trồng chè, chuyển đổi sản xuất., có như vậy, thì việc giao đất giao rừng cho dân mới phát huy hiệu quả. (Dân Tộc & Phát Triển 17/12, tr4) đầu trang(
Vừa qua, cán bộ kiểm lâm huyện đã phối hợp với tổ công tác của tỉnh tiến hành rà soát hiện trạng rừng tự nhiên, sản xuất do hạt kiểm lâm huyện giao khoán ở 19 xã là 16.893,2 ha; diện tích rừng tự nhiên phòng hộ ít xung yếu chuyển sang sản xuất trên địa bàn 15 xã là 7.908,5ha.
Ngoài việc tiến hành soát hiện trạng rừng, các cơ quan đơn vị chuyên ngành còn phối hợp với cấp ủy, chính quyền các xã tổ chức các buổi họp thôn để tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách của Nhà nước về công tác giao rừng và tiếp nhận đơn xin giao rừng của cá nhân hộ gia đình và cộng đồng dân cư thôn, bản. (Dân Tộc & Phát Triển 17/12, tr4) đầu trang(
Theo ngành nông nghiệp địa phương, các huyện hưởng lợi từ Chương trình 30a như: Phước Sơn, Tây Giang và Nam Trà My đã chủ động triển khai giao đất, giao rừng, canh tác nương rẫy cho các hộ, cá nhân trên địa bàn.
Đến nay tại huyện Phước Sơn, ngành kiểm lâm đã thống kê được gần 3.200ha đất nương rẫy cũ và khoanh vùng mới hơn 1.800ha đất trống quy hoạch cho lâm nghiệp vào hoạt động sản xuất nương rẫy của đồng bào.
Tại 10 xã thuộc huyện Tây Giang đã tiến hành đo đạc, lập hồ sơ thủ tục giao cho 56 cộng đồng làng với tổng diện tích hơn 41.923ha rừng để quản lý, bảo vệ.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh, khi xác định được phạm vi, diện tích quản lý, sử dụng và bảo vệ, ban quản lý rừng, hộ cá nhân sẽ có trách nhiệm rõ ràng hơn với quyền lợi được hưởng. (Dân Tộc & Phát Triển 17/12, tr4) đầu trang(
Theo phòng NN&PTNT huyện Cao Phong, đến nay, toàn huyện trồng được 400,06 ha rừng, đạt 100,01% kế hoạch; trong đó, Xí nghiệp Lâm nghiệp Kỳ Sơn trồng 10,5 ha tại xã Thu Phong, diện tích trồng cây phân tán 16,6 ha, 50 ha rừng trồng của dự án bảo vệ và phát triển rừng, nhân dân tự trồng 332 ha.
Huyện đã tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân, các chủ rừng thực hiện nghiêm chỉnh Luật Bảo vệ và phát triển rừng, quản lý, bảo vệ rừng tại cơ sở. Trong năm, đã xử lý 8 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, thu giữ 0,614 m3 gỗ xẻ nhóm VI, 480 kg gỗ nhóm II A, 0,7 ste gỗ nhóm VI, nộp NSNN 51 triệu đồng.
Ngoài ra, các địa phương tập trung khai thác 84 ha rừng kinh tế, doanh thu ước đạt 50 triệu đồng/ha. (Báo Hòa Bình 16/12) đầu trang(
12/12, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức  lễ bàn giao bản đồ diễn biến rừng năm 2013, đồng thời tổ chức tập huấn phương pháp theo dõi diễn biến rừng cho Lãnh đạo phụ trách và cán bộ kỹ thuật các Hạt Kiểm lâm.
Mục đích của đợt tập huấn là nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp.
Nội dung chính của đợt tập huấn nhằm trang bị cho Lãnh đạo phụ trách và cán bộ kỹ thuật các đơn vị kiến thức cơ bản về kỹ thuật theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp; hướng dẫn sử dụng sản phẩm diễn biến rừng năm 2013 để từ đó thực hiện theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp năm 2014 đạt kết quả tốt. (Sonongnghiephatinh.gov.vn 15/12) đầu trang(
Với diện tích rừng tương đối lớn, Việt Nam có nhiều loài lâm sản ngoài gỗ (LSNG) có giá trị. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều loài LSNG chưa được khai thác, bảo tồn hiệu quả, thậm chí có nguy cơ biến mất.
Tại Diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp chuyên đề “Phát triển cây lâm sản ngoài gỗ vùng miền núi phía Bắc”, các chuyên gia đã đưa ra nhiều giải pháp cũng như những định hướng giúp bà con khai thác, phát triển LSNG một cách hiệu quả.
Với 2.000 loài lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là cây thân gỗ; 3.000 loài cho dược liệu; 400 loài cho lương thực thực phẩm, thức ăn gia súc; 500 loài cho tinh dầu, LSNG được coi là lĩnh vực có vị trí quan trọng trong ngành lâm nghiệp (chiếm 20 – 25% giá trị sản xuất lâm nghiệp hàng năm).
LSNG gắn liền với cuộc sống của 24 triệu đồng bào miền núi sống trong và gần rừng, có nơi nguồn thu từ LSNG chiếm 10 – 20% trong thu nhập kinh tế hộ gia đình. Gây trồng LSNG trên diện tích đất lâm nghiệp được giao hoặc khai thác, thu hái LSNG từ rừng tự nhiên và chế biến LSNG đã thu hút hàng vạn lao động khu vực nông thôn.
Theo PGS.TS.Nguyễn Huy Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lâm sinh (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), trữ lượng gỗ của rừng tự nhiên nhiệt đới chiếm chưa tới 50% tổng sinh khối của rừng, còn LSNG có thể chiếm hơn 50% tổng sinh khối. Vì thế, LSNG có vai trò hết sức quan trọng trong các hệ sinh thái rừng, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu như hiện nay.
Hơn nữa, LSNG rất đa dạng về thành phần loài và dạng sống, từ các loài thực vật đến động vật và vi sinh vật, từ các loài sinh vật có kích thước khổng lồ đến các sinh vật có kích thước rất nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường, chúng tạo nên một cấu trúc không gian hợp lý để chung sống với nhau nhằm cân bằng sinh thái, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn và rửa trôi đất.
Tuy nhiên, ông Sơn nêu một thực tế, do cách khai thác theo kiểu tận diệt, chưa có các biện pháp bảo tồn nguồn gen hiệu quả nên nhiều loài LSNG đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Theo các nhà khoa học, thì cứ sau 20 phút, trên phạm vi toàn cầu lại có thêm 1 loài động vật hoặc thực vật bị tuyệt chủng.
Trong vòng 50 năm gần đây, tốc độ tuyệt chủng của các loài vi sinh vật đã tăng lên 40 lần so với thời kỳ cách mạng công nghiệp. Tại Việt Nam, ghi nhận trong những năm qua có tới 10 loài quý hiếm đã bị tuyệt chủng ngoài tự nhiên; ngoài ra còn có 882 loài có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng.
Để giúp người dân khai thác hiệu quả các loài LSNG, từ đó góp phần bảo vệ rừng, nâng cao thu nhập, từ nhiều năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và hệ thống khuyến nông các địa phương đã xây dựng nhiều mô hình trồng các loài cây LSNG mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, như trồng cây mây K83, mắc-ca, quế, thảo quả, sở, sơn tra,…
Đơn cử như mô hình trồng cây mây K83 được triển khai tại Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái, Quảng Ninh với diện tích 454 ha, 420 hộ tham gia, cây mây sinh trưởng và phát triển tốt, thích nghi với nhiều điều kiện lập địa, dễ trồng, năng suất cao gấp 3 lần mây nếp truyền thống. Tuy dự án mới triển khai được 2 năm nhưng chiều cao cây trung bình đã đạt 70 - 85cm, đường kính gốc đạt từ 1,5 - 2cm, tỷ lệ sống trung bình đạt 92%.
Cây mây K83 trồng 1 lần cho thu hoạch thời gian từ 30 - 40 năm sau, sợi mây K83 bóng trắng tự nhiên, dẻo bền, mịn thớ. Sau 4 - 5 năm có thể thu hoạch được 3 – 4 tấn/ha, với giá thu mua hiện tại là 3,5 triệu đồng/tấn thì 1ha có thể thu được 10 – 14 triệu đồng.
Dự án trồng cây LSNG dược liệu ở Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Giang với các loài như ba kích, kim tiền thảo, sa nhân (diện tích 180ha, 940 hộ tham gia) cũng thu được kết quả khả quan. Tỷ lệ cây sống đạt trên 85%, cây sinh trưởng, phát triển tốt, không có sâu bệnh hại.
Cụ thể như ba kích, sau năm đầu cây bắt đầu bám giá thể, sang năm thứ hai 100% số cây đã leo giàn. Hiện, 100% số cây trong mô hình đã có củ, tuy nhiên chưa cho thu hoạch vì để đạt năng suất và tính dược liệu tốt nhất thì phải sau 5 năm mới tiến hành thu hoạch. Theo tính toán sơ bộ, với 1ha cây ba kích, sau 5 năm trồng, người dân sẽ thu được lợi nhuận khoảng 228 triệu đồng, mô hình trồng kim tiền thảo đạt khoảng 79 triệu đồng/ha.
Theo TS. Nguyễn Viết Khoa, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, mô hình trồng kim tiền thảo giúp bà con nâng cao thu nhập vì kim tiền thảo được trồng chủ yếu dưới đồi vải hoặc diện tích cây ăn quả vườn nhà, góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho người dân.
Dự án trồng cây LSNG làm thực phẩm triển khai ở 3 tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái (diện tích 213,6ha, 270 hộ tham gia) với các loại cây thảo quả, măng Bát độ cũng đang phát triển tốt. Với cây thảo quả, tỷ lệ cây sống đạt 88%, cây sinh trưởng phát triển tốt, thân sinh khí to, mập, mỗi khóm có từ 4 – 5 cây, chiều cao trung bình 2,8m, đường kính gốc bình quân 2,5cm, cây không bị sâu bệnh và đã cho quả bói, dự kiến sau 5 năm trồng, năng suất đạt 150kg quả/ha.
Với cây măng tre Bát độ, tỷ lệ cây sống đạt 86%, mỗi khóm có 2 – 3 cây tre, chiều cao trung bình 4,5m, đường kính gốc 3cm, năng suất bình quân sau 5 năm dự kiến đạt 70 – 80 tấn/ha.
Từ hiệu quả của những mô hình trên, có thể khẳng định, phát triển LSNG là một trong những hướng đi để khai thác bền vững tài nguyên rừng, vừa góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, vừa là giải pháp thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Vì vậy, theo ông Sơn, việc quản lý tài nguyên LSNG phải được chú trọng tương đương với các loại lâm sản khác và phải được đưa vào Luật Bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, việc khai thác, sử dụng và tiêu thụ các sản phẩm ngoài gỗ cũng phải được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, cần có phương án đánh giá, phân loại LSNG theo thứ tự ưu tiên, từ những loài có giá trị cao đến thấp theo từng vùng sinh thái hoặc theo từng địa phương để có phương án bảo tồn, phát triển, nhất là những loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật chọn tạo giống, gây trồng, khai thác, sơ chế, bảo quản sản phẩm, chuyển giao cho nông dân để bà con gây trồng, khai thác hiệu quả. Đề xuất các cơ chế, chính sách để khuyến khích bảo tồn và phát triển các loài LSNG gắn với bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời nghiên cứu thị trường và tiêu chuẩn chất lượng của từng loại LSNG để đảm bảo giá cả ổn định.
Theo TS. Trần Văn Khởi, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trên cơ sở kết quả của những mô hình đã xây dựng, trong thời gian tới, lực lượng khuyến nông sẽ tăng cường năng lực cho người dân để phát triển một số loài LSNG có giá trị hàng hóa theo các nhóm loài như làm dược liệu, thực phẩn, nguyên liệu chế biến.
Nâng cao năng suất, chất lượng thông qua giới thiệu tiến bộ kỹ thuật về giống mới có năng suất, chất lượng cao, sản xuất bằng phương pháp mô, hom thích ứng với điều kiện kập địa trồng khác nhau, đồng thời giới thiệu các kỹ thuật canh tác để tăng năng suất, chất lượng cây trồng.
Ngoài ra, các địa phương, ngành chức năng cũng cần tạo mối liên kết giữa các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm với nông dân nhằm tạo ra vùng sản xuất hàng hóa ổn định cho một số loài LSNG. Gắn phát triển với bảo tồn LSNG, nâng cao nhận thức cho người dân để bảo tồn các loài LSNG quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. (Khuyến Nông VN 15/12) đầu trang(
Năm 2014, huyện Tân Lạc trồng được 747,2 ha rừng, đạt 166% kế hoạch. Trong đó: rừng sản xuất trồng được 707,2 ha, đạt 176,8% kế hoạch, tăng 3,5% so với năm 2013; rừng phân tán 40 ha, đạt 80% kế hoạch, giảm 60% so với năm 2013.
Huyện tiếp tục chỉ đạo khoanh nuôi, chăm sóc, bảo vệ 4.528,28 ha rừng đang trong giai đoạn phát triển, độ che phủ rừng đạt 51,8%. Cùng với việc trồng rừng, huyện đã thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ, phòng - chống cháy rừng.
Trong năm, đã tiến hành xử lý 8 vụ mua bán, vận chuyển lâm sản và động vật rừng trái phép, thu hồi 0,317m3 gỗ tròn các loại, 0,372m3 gỗ xẻ; nộp vào ngân sách Nhà nước 35,1 triệu đồng. (Báo Hòa Bình 16/12) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Mặc dù đã có nhiều biện pháp được đưa ra để bảo vệ loài tê giác, nhưng dường như cách tiếp cận hiện tại đều thất bại. Bằng chứng là những vụ sát hại được phát hiện ở Nam Phi tăng mạnh trong vòng ba năm qua: 668 cá thể tê giác vào năm 2012, 1004 vào năm ngoái, và 899 trong 9 tháng đầu năm 2014. Con số này mới chỉ bao gồm các vụ được ghi nhận – trên thực tế thậm chí còn cao hơn.
Trong các giải pháp được đưa ra có những giải pháp “cực chẳng đã” là cưa sừng của tê giác. Tuy nhiên, đây chưa phải là một giải pháp khả thi vì người mua vẫn muốn có cả phần gốc sừng và những con tê giác đã bị cưa sừng vẫn tiếp tục là mục tiêu bị săn trộm.
Hơn nữa, những con tê giác bị cưa sừng cũng phải chịu nhiều bất lợi trong cuộc sống tự nhiên như không thể bảo vệ tê giác con khỏi các kẻ săn mồi và không thể dịch chuyển đá, gỗ, cành cây để tìm đồ ăn. Trước thực tế trên, Dự án Cứu hộ Tê giác đã được thiết lập tại Nam Phi với mục đích cung cấp giải pháp bền vững, chủ động và chi phí thấp cho cuộc khủng hoảng săn trộm tê giác ở Nam Phi. Dưới đây là chia sẻ của chị Lorinda Hern, người đã sáng lập nên dự án cứu hộ tê giác này.
Lorinda Hern cho biết: Chúng tôi bắt đầu quan tâm đến nạn săn trộm tê giác khi một con tê giác của chúng tôi bị giết hại vào năm 2010. Hầu hết các giải pháp chúng tôi biết đến đều thụ động, không thể khiến bọn săn trộm từ bỏ ý định. Rõ ràng, chúng ta cần phải xem xét lại vấn đề để đưa ra giải pháp chủ động hơn, nghĩa là làm sao để tê giác trở thành mục tiêu ít hấp dẫn nhất đối với những kẻ săn trộm. Từ đó, ý ​​tưởng tiêm chất độc vào sừng bắt đầu nảy sinh.
Chúng tôi không tin có bất cứ giải pháp nào có thể đơn phương giải quyết triệt để được nạn săn trộm. Tất cả các biện pháp an ninh đều có điểm mạnh và hạn chế – lý tưởng nhất là thực hiện đồng bộ các giải pháp để tối đa hóa hiệu quả và bù đắp thiếu sót, đảm bảo an toàn lâu dài cho tê giác ở Nam Phi và các nơi khác. Tiêm chất độc vào sừng tê giác là biện pháp tạm thời tốt nhất để giữ động vật sống, và không phải là một giải pháp lâu dài cho vấn đề săn trộm.
Chu kỳ phát triển của sừng kéo dài khoảng bốn năm. Sau đó chủ sở hữu tê giác cần phải tái thực hiện việc truyền dẫn. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng đó là khoảng thời gian cần thiết cho đến khi Công ước quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã (CITES) và các cơ quan quản lý khác có giải pháp dài hạn bền vững hơn. Chúng tôi đã rất cẩn trọng trong việc lựa chọn các hợp chất và đăng ký đặc biệt để sử dụng trên động vật, đảm bảo không gây hại đến bản thân loài tê giác. Tuy nhiên, cũng giống như các loại thuốc trừ sâu trên thị trường, không thích hợp cho con người sử dụng.
Trong bốn năm qua, Dự án Cứu hộ Tê giác đã thực hiện một số thử nghiệm thú vị. Tôi dùng từ “thú vị” bởi vì có rất ít tài liệu nghiên cứu về loài tê giác, do đó mọi thử nghiệm đều đóng góp rất lớn cho vốn kiến thức toàn cầu về loài động vật này. Bằng cách này, chúng tôi không ngừng thay đổi các hợp chất truyền dẫn và tạo mầu sắc. Lý tưởng nhất là có thể tìm ra một sắc tố mà tia X quang có thể phát hiện được nhưng cũng phải tồn tại đủ lâu trên sừng để không thể sử dụng cho mục đích trang trí.
Dự án Cứu hộ Tê giác luôn hướng đến một dịch vụ giá cả phải chăng để nhiều chủ sở hữu tê giác có thể sử dụng được. Toàn bộ quá trình (bao gồm truyền dẫn, lấy và lưu trữ mẫu DNA, cấy chíp và bảo hiểm) có giá gần tương đương một quy trình cưa sừng trung bình. Như tôi đã nói, làm cho sừng tê giác trở nên vô giá trị không phải là phương pháp hoàn hảo. Nhưng dựa trên tỉ lệ giảm săn trộm khi sừng tê giác được truyền độc, có thể thấy vai trò quan trọng của phương pháp này trong việc bảo tồn tê giác trong tương lai.
Trong suốt bốn năm qua, chúng tôi đã xử lý khoảng 280 cá thể. Trong số đó có bảy cá thể được báo mất tích (có thể do săn trộm và /hoặc tử vong tự nhiên), tương đương hai cá thể bị mất mỗi năm – một thành công dưới bất kỳ tiêu chuẩn nào.
Mặc dù có khá nhiều sự hỗ trợ, chúng tôi vẫn bị phản đối mạnh mẽ bởi một nhóm “ủng hộ thương mại”. Ai cũng có thể hiểu được lí do của nỗ lực thúc đẩy cho việc hợp pháp hóa buôn bán sừng tê giác là nguồn lợi nhuận khổng lồ.
Tuy nhiên, tất cả các chủ sở hữu tê giác không hề mong muốn trở thành thương nhân, và quyền bảo vệ con vật bằng nhiều cách khác nhau của họ cũng cần được tôn trọng. Trong khi đó, chúng tôi đã bị buộc tội “giết chết thị trường” và “làm xấu danh tiếng của sừng tê giác ở Nam Phi” – mà đó không bao giờ là mục tiêu của chúng tôi. (Con Người & Thiên Nhiên 15/12) đầu trang(./.
Biên tập: Lê Vòng