Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 14 tháng 09 năm 2016
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Ông Mai Mộng Tuân, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Yên Bái vừa được chính quyền địa phương này cử giữ chức Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm. Tuy nhiên, quyết định phân công ông Tuận bị dư luận đặt nghi vấn thực hiện trái quy định hiện hành (?).
UBND tỉnh Yên Bái vừa ra quyết định cử ông Mai Mộng Tuân, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT giữ chức Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm địa phương này.
Thế nhưng, tại quyết định phân công ông Tuân, mặc dù ghi rõ thời điểm ông bắt đầu đảm đương cương vị Chi cục trưởng (từ ngày 7/9/2016), song lại không ghi "mốc" kết thúc cụ thể thời gian nào. Trong khi, Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015, tại Khoản d, Điều 3 quy định: “Phó Giám đốc Sở NN&PTNT không kiêm nhiệm Chi cục trưởng. Trường hợp phải kiêm nhiệm thì thời gian kiêm nhiệm không quá 12 tháng”.
Chính vì thế, nhiều người cho rằng, quyết định phân công cán bộ nói trên của chính quyền tỉnh Yên Bái là không đúng theo quy định hiện hành. (Người Tiêu Dùng 13/9) đầu trang(
Ngày 12/9/2016, UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 1497/UBNDKTN về việc tăng cường hiệu quả hoạt động của lực lượng kiểm lâm.
Theo đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động của lực lượng kiểm lâm, xử lý dứt điểm tình trạng vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng, UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các huyện, thành phố, thị xã chỉ đạo lực lượng kiểm lâm cũng như đội ngũ bảo vệ rừng cơ sở thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 1685/CT-TTg ngày 27/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng và chống người thi hành công vụ; nâng cao trách nhiệm quản lý Nhà nước của chính quyền cơ sở về quản lý bảo vệ rừng theo quy định tại Quyết định số 07/2016/QĐ-TTg ngày 08/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
UBND tỉnh cũng yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 3714/CT-BNN-TCLN ngày 15/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tăng cường chấn chỉnh hoạt động của lực lượng kiểm lâm.
Mặt khác, Chi cục Kiểm lâm phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, hỗ trợ chủ rừng tăng cường kiểm tra, truy quét để phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng; đồng thời phối hợp với cơ quan liên quan điều tra, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi chống người thi hành công vụ trong công tác quản lý bảo vệ rừng. (Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Quảng Bình 12/9) đầu trang(
Ngày 13.9, UBND tỉnh Gia Lai cho biết, ông Võ Ngọc Thành - Chủ tịch tỉnh Gia Lai đã ký quyết định thành lập Ban Quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) Nam Sông Ba, đặt tại huyện Krông Pa
Việc thành lập Ban quản lý mới này nhằm bảo vệ, đẩy mạnh truy quét lâm tặc vùng giáp ranh tỉnh Đắc Lắc của Gia Lai. BQLRPH Nam Sông Ba theo đó quản lý 23 tiểu khu tại 5 xã của huyện Krông Pa. Với sự thành lập Ban này, Gia Lai có tổng cộng 22 BQLRPH, giúp kiện toàn công tác bảo vệ rừng.
Trong các số báo trước, Lao Động liên tục phản ánh, tại Krông Pa, lâm tặc liều lĩnh, manh động công khai tàn phá rừng. Lực lượng bị dàn trải, phân tán nên hiệu quả không cao. Cao điểm, tại tiểu khu 1415 lâm tặc xẻ 77 hộp gỗ với hơn 54m3 thiệt hại, vụ án đã khởi tố nhưng đến nay chưa tìm ra thủ phạm. Đây được xem là hướng đi mạnh mẽ, quyết liệt của Gia Lai trong công cuộc bảo vệ rừng của Tây Nguyên. (Lao Động 13/9) đầu trang(
Không ngại gian khó, hiểm nguy, nhiều kiểm lâm viên đã âm thầm đem lại sự bình yên cho các cánh rừng nguyên sinh.
Vườn Quốc gia Bạch Mã nằm giữa ranh giới của huyện Đông Giang với các huyện Phú Lộc, Nam Đông (Thừa Thiên Huế). Nơi đây được đánh giá có hệ sinh thái đa dạng bậc nhất miền Trung. Nhận nhiệm vụ nơi rừng thiêng nước độc này, ngành kiểm lâm gần như chỉ bố trí cán bộ, nhân viên trẻ, có sức khỏe đi rừng. Trạm Kiểm lâm núi Mang (thuộc Hạt Kiểm lâm Vườn Quốc gia Bạch Mã) đứng chân tại xã Sông Kôn (Đông Giang) quản lý, bảo vệ rừng 4 xã vùng cao của huyện Đông Giang là Tà Lu, Sông Kôn, Ating và xã Tư.
Đơn vị thành lập hơn 8 năm, quản lý 3.017ha, nhưng diện tích rừng đều nằm trên đỉnh núi cao hẻo lánh, địa hình phức tạp luôn thử thách sức chịu đựng của lực lượng giữ rừng. Là người có thâm niên bảo vệ Vườn Quốc gia Bạch Mã, Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm núi Mang Lê Văn Trèn chia sẻ, cơ sở vật chất của trạm thiếu thốn trăm bề nhưng đơn vị động viên cán bộ, nhân viên vượt khó để hoàn thành công việc. Kiểm lâm tuần tra, ăn ngủ trong rừng như chuyện thường ngày.
Vất vả nhưng đồng nghiệp thương yêu nhau như người thân. Ai đã lên đây rồi thì khó có cơ hội về xuôi. Trạm kiểm lâm chỉ là nơi chỉ huy lực lượng, chứ hàng ngày anh em phải chia địa bàn ra tuần tra, truy quét. Có nhiều tiểu khu, muốn tiếp cận hiện trườ
Do nằm đơn độc giữa rừng, lực lượng giữ rừng lại mỏng nên cán bộ kiểm lâm của trạm thường gặp phải sự chống đối của lâm tặc khi phát hiện, xử lý các vụ xâm hại rừng. “Năm 2010, anh Võ Trọng Hảo bị lâm tặc tấn công khi đi làm nhiệm vụ. Hay năm 2014, tổ bảo vệ rừng ở thôn Pazíh, xã Ating bị một số đối tượng lâm tặc tấn công khi tuần tra, hai người trong tổ bảo vệ rừng là ông Pơloong Nai, Clâu Crơi bị khống chế đánh đập dã man” – kiểm lâm Trèn nhớ lại.
Những cơn sốt rét ở vùng cao bây giờ ít xuất hiện, song vẫn còn đó những dãy địa hình cách trở. Chỉ một chút bất cẩn khi tuần tra, truy quét kiểm lâm có thể đối mặt với tai nạn nghề nghiệp bất cứ lúc nào, nhất là vào những ngày thời tiết mưa gió. Tuần tra rừng nguy hiểm nhất là gặp các trận mưa đột ngột, ngầm suối sẽ dâng cao, đe dọa an toàn khi qua lại. Nhưng, điều làm cán bộ kiểm lâm sợ nhất là… sự cô đơn. Các anh bộc bạch, tuần tra dài ngày trong rừng sâu thiệt thòi nhất là không sóng điện thoại, mù tịt thông tin và thiếu hơi ấm gia đình.
Đến nay, Vườn Quốc gia Bạch Mã đã giao khoán quản lý bảo vệ với tổng diện tích 10.000ha, thuộc 19 tiểu khu cho các hộ và nhóm hộ gia đình. Trong đó, chi trả dịch vụ môi trường rừng theo Nghị định 99 của Chính phủ cho 10 nhóm hộ (tổng số 110 hộ) tham gia nhận khoán bảo vệ rừng nằm trên lưu vực thủy điện Sông Kôn 2 với tổng diện tích 3.141ha thuộc địa bàn 2 xã Ating và Sông Kôn (huyện Đông Giang).
Quảng Nam là một trong số ít địa phương còn nhiều cánh rừng nguyên sinh đẹp, bảo tồn được nhiều loại gỗ quý hiếm. Thời gian qua, lâm tặc khắp nơi đổ về tàn phá rừng với hình thức tinh vi, trắng trợn, thậm chí sẵn sàng “phản đòn” với lực lượng kiểm lâm. Không ít kiểm lâm đã tử nạn hoặc bị đánh trọng thương khi đang làm nhiệm vụ. Vì màu xanh rừng mà nước mắt, máu và cả sinh mạng của những người kiểm lâm đã đổ xuống.
Cho đến nay, nhiều người vẫn chưa hết xót đau bởi sự ra đi đột ngột của kiểm lâm viên Trần Văn Quý (24 tuổi, quê xã Tam Phú, Tam Kỳ). Trong lúc tuần tra rừng, Quý phát hiện nhiều bè gỗ nằm dưới dòng sông Bung hung dữ. Khi trục vớt gỗ, bất ngờ Quý bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi, trước sự bất lực của đồng nghiệp. Và nhiều trường hợp kiểm lâm trong tình trạng “thập tử nhất sinh” khi bị lâm tặc tấn công.
Nhiều kiểm lâm chịu thiệt thòi xa gia đình, phố phường để bảo vệ thiên nhiên. Mấy năm nay, người dân các xã Tà Lu, Sông Kôn, Ating và xã Tư đã có nhiều chuyển biến tích cực trong xóa đói giảm nghèo nhờ chính sách chia sẻ lợi ích cộng đồng do rừng ở đây mang lại. Ngoài bảo vệ, quản lý, người dân được khai thác một số lâm sản ngoài gỗ từ rừng đặc dụng như mây, măng, mật ong, nấm linh chi, heo rừng, hạt ươi và hưởng lợi từ các mô hình trồng trọt, chăn nuôi để phát triển sinh kế bền vững. (Môi Trường Và Đời Sống 13/9) đầu trang(
Những kẻ tò mò không quá khó khăn để “moi móc” thông tin về đường đi nước bước từ các tay “cò” bản địa, nhưng một số khác thì không, hoặc đang cố tình đưa tay bịt mắt.
Tại kỳ thứ 4 của loạt phóng sự Yên Bái: Nơi rừng đang “chảy máu”, nhóm PV xin phép được tạm dừng mạch kể của cuộc hành trình vào tâm vùng gỗ lậu Lang Thíp để nhắc lại những điều mà các nhà báo đã gặp, cảm nhận từ năm 2010. Tất cả những điều họ nói từ 6 năm trước, nếu lắp ghép với những gì nhóm PV ghi nhận mới đây thì dường như cũng không lệch lạc.
Câu chuyện với Q. càng đưa đẩy những hồ nghi của nhóm PV về sự tồn tại của một "thế lực ngầm", khi Q. nhắc đến nhà máy giấy, những cung đường ngang dọc Tây Bắc, chúng tôi tự hỏi vì sao có thể? Rồi nhớ lại những gì các nhà báo từng tham gia cuộc chiến chống gỗ lậu tại đây từ năm 2010, khi mà việc khai thác tràn lan, bừa bãi này mới bị phanh phui.
Những nhà báo ở báo Nông Nghiệp là Nguyên Huân – Hoàng Chiến khi đó đã từng viết: “Vậy làm thế nào để tiếp cận được những cánh rừng trên dãy núi Con Voi đang kêu cứu?”.
Không còn lựa chọn nào khác, họ phải phi xe hơn 100 cây số vòng sang phía bên kia dãy núi thuộc huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Từ đây, với sự trợ giúp của một người dẫn đường, họ mới xâm nhập được dãy núi Con Voi từ bên trong.
Bài viết ghi nhận hàng chục khối gỗ được khai thác, tiêu thụ mỗi ngày nhưng nực cười thay, sau khi báo lên, hạt kiểm lâm phối hợp với UBND xã Lang Thíp đi kiểm tra thì triệu tập 4 đối tượng có hành vi “chuẩn bị “ hạ 1 cây Sến.
Cũng vào thời điểm đó cây viết phóng sự nổi tiếng là nhà báo Đỗ Doãn Hoàng báo Lao Động cũng thực hiện loạt phóng sự về tình trạng phá rừng ở Văn Yên, lột tả chân thực được những thứ đang diễn ra tại khu rừng Nà Hẩu. Tuy nhiên, bằng sự nhạy cảm của một nhà báo, những nghi ngờ về việc vì sao cán bộ kiểm lâm cấp toàn bộ tài liệu về nạn chặt phá rừng mà không xử lý? Vì sao trên toàn bộ hành trình, anh lại được bố trí đường đi, nước bước cụ thể? Vì sao tại hiện trường chỉ thấy những cây gỗ lớn bị đốn hạ mà không thấy bóng dáng lâm tặc đang hoạt động ?
Và vị ký giả này đã nghi ngờ rằng mình có thể đang là “quân cờ” trong việc đấu đá nội bộ lãnh đạo ở đây. Mãi về sau, năm 2015 trong bài viết của mình, nhà báo đó mới cay đắng thừa nhận: “Sự việc chỉ bị tố cáo, khi mà chính lực lượng kiểm lâm sở tại có ý định “chơi” nhau. Cụ thể là khi ông Nguyễn Đức Thiện - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Văn Yên - được điều lên làm Phó Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Yên Bái, cái chức lãnh đạo kiểm lâm huyện được ba bề bốn bên xông vào xâu xé. Việc chúng tôi bị “xúi” lên điều tra về rừng Nà Hẩu, cũng là nằm trong kế hoạch của những người muốn “ân oán giang hồ có ngày phải trả”.
Và tiếp tục cho đến ngày hôm nay, khi nhóm PV một lần nữa quay lại Văn Yên, gỗ vẫn đang bị đốn gục từng ngày như một lẽ “phải thế”, gỗ vẫn được đưa về xuôi bằng vạn con đường không hề bí mật. Những kẻ tò mò không quá khó khăn để “moi móc” thông tin về đường đi nước bước từ các tay “cò” bản địa hám tiền, nhưng một số khác thì không, hoặc đang cố tình đưa tay bịt mắt! (Người Đưa Tin 14/9) đầu trang(
Giữa 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên có nhiều cánh rừng giáp ranh nằm xa tầm kiểm soát của ngành chức năng, được xem là “đất làm ăn” của lâm tặc.
Nhiều năm nay, ngành chức năng 2 tỉnh đã có sự phối hợp chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả tình trạng xâm phạm tài nguyên rừng. Huyện Vân Canh và TP Quy Nhơn (Bình Định) có nhiều diện tích rừng giáp ranh với thị xã Sông Cầu và huyện Đồng Xuân (Phú Yên). Do giao thông cách trở nên công tác bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn.
Ông Đoàn Văn Tây, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Vân Canh chia sẻ: “Đơn vị chúng tôi quản lý nhiều cánh rừng nằm trên địa bàn xã Canh Liên giáp ranh với huyện Đồng Xuân, mỗi khi kiểm tra những cánh rừng này anh em phải đi rất xa, nhiều khi phải đi sang huyện Đồng Xuân rồi mới đi vòng lại, gây khó khăn cho công tác quản lý bảo vệ rừng”.
Do đó, nhiều đối tượng đã lợi dụng điểm yếu nói trên lấn chiếm đất lâm nghiệp; khai thác lâm sản trái phép. Khi gặp lực lượng bảo vệ rừng đi tuần tra, các đối tượng phá rừng trốn sang rừng thuộc địa bàn quản lý của tỉnh khác. Bởi thế, ngành chức năng gặp khó trong việc truy bắt các đối tượng vi phạm. Từ năm 2015, 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên đã ký kết chương trình phối hợp quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng tại các vùng rừng giáp ranh.
Lực lượng kiểm lâm các huyện, thị xã, thành phố của 2 tỉnh có rừng giáp ranh tăng cường phối hợp kiểm tra, truy quét, xử lý các đối tượng lấn chiếm đất lâm nghiệp, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép. Công tác phối hợp, kiểm tra, truy quét tại các vùng rừng giáp ranh được tổ chức thường xuyên. Trong đó, Hạt Kiểm lâm huyện Vân Canh phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện Đồng Xuân tổ chức nhiều đợt kiểm tra, truy quét các đối tượng xâm hại rừng tại các khu vực rừng giáp ranh giữa xã Canh Hiệp, Canh Hòa, Canh Liên của huyện Vân Canh, với khu vực rừng thuộc các xã Đa Lộc, Xuân Lãnh, Phú Mỡ của huyện Đồng Xuân.
Hạt Kiểm lâm liên huyện Tuy Phước - Quy Nhơn phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện Sông Cầu tổ chức truy quét, ngăn chặn tình trạng phá rừng, đốt than tại khu vực rừng giáp ranh giữa xã Phước Mỹ và phường Bùi Thị Xuân (TP Quy Nhơn) và xã Xuân Lộc (TX Sông Cầu, Phú Yên). Đã phát hiện, xử lý 10 vụ vi phạm lâm luật, phạt hành chính trên 85 triệu đồng; tịch thu 9,5m3 gỗ các loại, 28,5 ster củi, 1.740kg than hầm và nhiều phương tiện, dụng cụ dùng để phá rừng, góp phần hạn chế tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp; khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép...
Tại hội nghị sơ kết thực hiện quy chế phối hợp giữa 2 tỉnh vừa được tổ chức tại Bình Định, đánh giá về quá trình phối hợp thời gian qua, ông Trần Châu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định cho rằng, công tác phối hợp trong QL-BVR và PCCCR đã được triển khai bằng nhiều biện pháp cụ thể, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, ông Châu nhìn nhận, tài nguyên rừng ở khu vực giáp ranh vẫn còn bị xâm phạm.
Nguyên nhân là do đời sống của người dân sống gần rừng còn nhiều khó khăn, thiếu việc làm, nên thường xuyên lén lút khai thác lâm sản trái phép. Trong khi đó, chính quyền một số địa phương còn buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng; sự phối hợp giữa chính quyền địa phương với lực lượng kiểm lâm, công an trong công tác này chưa chặt chẽ nên không ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm. Phần lớn các vụ vi phạm lâm luật đều không tìm ra đối tượng vi phạm, nên việc điều tra, xử lý chưa hiệu quả.
Để tăng cường phối hợp, lãnh đạo 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên đã ký kết quy chế phối hợp quản lý, bảo vệ và PCCCR; kiểm tra, xử lý các tổ chức cá nhân vi phạm lâm luật, chống người thi hành công vụ tại các vùng rừng giáp ranh trong thời gian tới. Theo đó, 2 tỉnh sẽ thường xuyên phối hợp chỉ đạo lực lượng chức năng tuần tra, truy quét, ngăn chặn kịp thời tình trạng phá rừng, đốt rừng, khai thác, mua, bán, vận chuyển trái phép lâm sản, động vật rừng trái phép ở các vùng rừng giáp ranh.
Theo ông Nguyễn Hiếu Hòa, PGĐ Sở NN-PTNT kiêm Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Định, trong thời gian tới ngành kiểm lâm 2 tỉnh sẽ xác định các vùng trọng điểm thường xảy ra phá rừng, khai thác, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép; chỉ đạo các Hạt Kiểm lâm quản lý các khu rừng giáp ranh; phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng.
“Chúng tôi sẽ thường xuyên phối hợp kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ của các chủ rừng nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của chủ rừng được Nhà nước giao. Mặt khác, huy động lực lượng đủ mạnh để tuần tra, truy quét những tụ điểm khai thác, vận chuyển, mua bán lâm sản trái phép, xử lý nghiêm theo pháp luật”, ông Hòa kiên quyết. (Báo Bình Định 13/9) đầu trang(
Huyện ủy Chư Prông vừa tổ chức hội nghị triển khai kết luận của Thủ tướng Chính phủ về khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020.
Theo báo cáo của UBND huyện, từ năm 2011 đến nay, diện tích rừng của huyện giảm gần 23 ngàn ha, độ che phủ rừng giảm 9,3%. Từ năm 2008 đến 2012, trên địa bàn huyện có 36 dự án được cho phép khảo sát để chuyển đổi rừng tự nhiên nghèo sang trồng cao su với diện tích gần 25 ngàn ha. Tổng diện tích đã khai hoang là hơn 19 ngàn ha, diện tích đã trồng cao su từ năm 2008 đến nay là gần 18 ngàn ha. Trong 5 năm qua, có 14 cán bộ, công chức, viên chức Hạt Kiểm lâm huyện bị xử lý kỷ luật, trong đó Hạt trưởng bị cách chức.
Thời gian tới, huyện Chư Prông quyết tâm thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả kết luận của Thủ tướng Chính phủ về khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020. Theo đó, huyện huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân quyết tâm khôi phục, phát triển rừng bền vững, gắn với nâng cao đời sống cho người dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.
Huyện sẽ rà soát toàn bộ hiện trạng rừng, thực trạng sử dụng đất lâm nghiệp, từ đó tiến hành thu hồi, trồng lại rừng theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng; kiên quyết xử lý nghiêm những cá nhân, tập thể vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. (Báo Gia Lai 12/9) đầu trang(
Do có đường biên giới dài tiếp giáp với Lào, Cam-pu-chia, các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên thời gian qua đã trở thành “điểm nóng” về khai thác, cất giấu, buôn lậu, vận chuyển trái phép lâm sản qua biên giới...
Để biên giới được bình yên, các cơ quan chức năng phải cùng vào cuộc, xác định những giải pháp đồng bộ, kiên quyết xử lý những vi phạm và nghiêm túc thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên.
Theo Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP), các đối tượng khai thác, buôn lậu, vận chuyển trái phép gỗ qua biên giới thường móc nối với người ở ngoại biên, tập kết gỗ gần biên giới với số lượng lớn, lợi dụng điều kiện tự nhiên về địa hình, thời tiết và sơ hở trong tuần tra, kiểm soát của các lực lượng chức năng để chuyển gỗ về Việt Nam. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp trên địa bàn các tỉnh biên giới ở miền Trung - Tây Nguyên (từ Quảng Trị đến Lâm Đồng) lợi dụng hoạt động kinh doanh, chế biến lâm sản để buôn lậu.
Hiện nay, có 60 doanh nghiệp được nhập khẩu gỗ từ Lào, Cam-pu-chia về Việt Nam, 16 doanh nghiệp được phép khai thác gỗ trong khu vực biên giới. BĐBP xác định, trong các doanh nghiệp này, có 56 đối tượng nghi vấn buôn lậu gỗ ở địa bàn biên giới thuộc 8 tỉnh miền Trung - Tây Nguyên.
Ngoài ra, hiện đã xác định 38 đường mòn, lối mở mà các đối tượng có thể lợi dụng để lén lút vận chuyển gỗ qua biên giới vào Việt Nam. Bộ tư lệnh BĐBP cho biết, ước tính hiện có khoảng hơn 8.000m3 gỗ đang được tập kết phía ngoại biên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay để đấu tranh với những đối tượng buôn lậu lâm sản ở các tỉnh biên giới thuộc miền Trung - Tây Nguyên đó là khu vực biên giới rộng, địa hình hiểm trở, trong khi lực lượng chức năng còn mỏng. Như tỉnh Kon Tum, là địa phương có đường biên giới dài hơn 280km, tiếp giáp với cả Lào và Cam-pu-chia, khu vực biên giới nằm trên địa bàn 13 xã, chủ yếu là người dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện kinh tế còn rất eo hẹp. Đối với Gia Lai, tỉnh có diện tích tự nhiên lớn thứ 2 cả nước, có 90km đường biên giới trên địa bàn tỉnh thuộc 7 xã. Khu vực này có 10.000 hộ với 42.000 nhân khẩu.
“Gia Lai và Kon Tum rất vất vả trong việc phối hợp xử lý, đấu tranh với các đối tượng buôn lậu gỗ bởi khu vực biên giới rộng nhưng lực lượng chức năng mỏng. Các trang thiết bị phục vụ công tác này còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong khi đó, hoạt động của các đối tượng vi phạm tinh vi, xảo quyệt, manh động, sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, bắt giữ”, ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai cho biết. Cũng theo ông Nguyễn Đức Hoàng, đời sống của bà con nhân dân vùng biên giới còn gặp nhiều khó khăn, do đó có tình trạng phá rừng lấy đất làm rẫy, thậm chí có người còn tiếp tay cho lâm tặc.
Trong công tác đấu tranh, phòng, chống buôn lậu lâm sản qua biên giới, BĐBP giữ vai trò là một trong những lực lượng nòng cốt. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình buôn lậu, Bộ tư lệnh BĐBP đã xây dựng và triển khai Kế hoạch số 963/KH-BTL từ tháng 4-2016 để đấu tranh chống buôn lậu gỗ tại một số địa bàn trọng điểm ở miền Trung - Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước.
Thực hiện kế hoạch này, đến nay, các đơn vị BĐBP đã độc lập, chủ trì và phối hợp phát hiện, bắt giữ, xử lý 112 vụ với 98 đối tượng, tạm giữ tang vật hơn 2.100m3 gỗ cùng nhiều phương tiện ô tô, xe gắn máy, thuyền, máy cày, máy ủi... với trị giá hơn 18 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ tư lệnh BĐBP, kết quả này chưa tương xứng với tình hình, chưa đánh đúng, đánh trúng đầu nậu, các đường dây buôn lậu, vận chuyển gỗ trái phép qua biên giới.
Khi có vụ việc vi phạm xảy ra, công tác xử lý còn lúng túng, không nhạy bén, không kiểm soát được thông tin, làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, việc kiểm soát các lối mở, kho bãi tập kết, cơ sở kinh doanh, chế biến gỗ còn nhiều hạn chế, thiếu chặt chẽ nên không phát hiện, ngăn chặn được kịp thời các hoạt động vi phạm pháp luật của những cơ sở này.
Để bảo vệ diện tích rừng tự nhiên, “lá phổi xanh” còn lại trên địa bàn, nhiều tỉnh ở miền Trung - Tây Nguyên đã xác định các biện pháp đồng bộ và kiên quyết xử lý những vụ phá rừng, đồng thời sớm thực hiện chủ trương đóng cửa rừng của Chính phủ.
Tuy nhiên, thực tế tại một số địa phương, diện tích rừng tự nhiên vẫn tiếp tục suy giảm. Như tại Đắc Nông, ông Trần Xuân Hải, Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh cho biết, tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh hiện chỉ đạt 39%, thấp hơn mức trung bình cả nước, diện tích rừng tự nhiên không còn nhiều, trong khi hoạt động buôn lậu, vận chuyển, khai thác gỗ, phá rừng diễn ra kéo dài trong nhiều năm.
Các địa phương ở những địa bàn trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên đều xác định, thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên là giải pháp quan trọng, cấp thiết để ngăn chặn đà suy thoái của rừng. Tỉnh Kon Tum đã thực hiện đóng cửa rừng tự nhiên từ năm 2004, mục tiêu của tỉnh đến năm 2020 sẽ nâng độ che phủ rừng lên 63,75%.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, bên cạnh tăng cường thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm về bảo vệ rừng tự nhiên, theo ông Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum, tỉnh đã rà soát lại các loại rừng trên địa bàn, gắn giao rừng, cho thuê rừng với giao, cho thuê đất lâm nghiệp, thu hút các nguồn lực xã hội bằng cách tạo điều kiện cho người dân tham gia trồng rừng sản xuất. Bên cạnh đó, các địa phương hiện đang tiến hành rà soát, kiểm tra các dự án ở khu vực biên giới, khu vực có rừng, kiên quyết thu hồi các dự án không hiệu quả, ảnh hưởng đến diện tích rừng.
Để ngăn chặn tình trạng buôn lậu lâm sản ở khu vực biên giới, cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng chức năng tham gia vào công tác này như BĐBP, kiểm lâm, công an, hải quan. Ông Đỗ Trọng Kim, Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho rằng: Mặc dù chi cục kiểm lâm và Bộ chỉ huy BĐBP các địa phương đều đã ký quy chế phối hợp nhưng thực tế, việc thực hiện quy chế chưa thường xuyên. Lực lượng kiểm lâm muốn vào khu vực biên giới phải đăng ký với BĐBP, khi phát hiện “lâm tặc”, nếu chậm trễ, tang vật đã bị tẩu tán.
“Chúng tôi đề xuất cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, ví dụ lực lượng kiểm lâm hay lực lượng chức năng khác được cấp thẻ để ra vào khu vực biên giới, cùng phối hợp với BĐBP kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm”, ông Đỗ Trọng Kim bày tỏ. Đại diện Cục Kiểm lâm cũng đề nghị bổ sung quy định về ngành nghề chế biến, kinh doanh lâm sản là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện để các địa phương rà soát, sắp xếp lại những cơ sở kinh doanh, chế biến, rút giấy phép kinh doanh nếu cơ sở đó thực hiện không nghiêm túc.
Liên quan đến cơ chế phối hợp trong quản lý, bảo vệ rừng, một số địa phương đề nghị, ở khu vực biên giới có rừng tự nhiên, nên giao cho BĐBP làm chủ rừng thay cho ban quản lý để gắn trách nhiệm rõ ràng và thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Phát biểu tại hội nghị về công tác đấu tranh chống buôn lậu gỗ trên địa bàn biên giới được tổ chức gần đây tại tỉnh Gia Lai, Trung tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nhấn mạnh: Nếu để mất diện tích rừng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh Tây Nguyên cũng như những địa phương khác, đồng thời còn ảnh hưởng đến cả công tác quân sự, quốc phòng.
Trung tướng Lê Chiêm đề nghị lãnh đạo các địa phương tổ chức để lực lượng BĐBP, kiểm lâm, công an, hải quan kiểm điểm việc thực hiện quy chế phối hợp trong thời gian qua. Trong đó xem xét nghiêm túc nếu có cán bộ nào vi phạm đề nghị xử lý nghiêm, sẵn sàng thay thế cán bộ nếu cảm thấy không đảm đương được trách nhiệm. Bộ tư lệnh BĐBP chủ động triển khai đến tất cả cán bộ, chiến sĩ, trước hết trong lãnh đạo bộ chỉ huy BĐBP các tỉnh để nghiêm túc thực hiện.
Bên cạnh đó, lãnh đạo địa phương cùng với BĐBP, kiểm lâm kiểm tra, đánh giá lại diện tích rừng ở khu vực biên giới, ngăn chặn việc đưa gỗ, lâm sản trái phép từ Lào, Cam-pu-chia về Việt Nam. Các lực lượng chức năng phải tăng cường phối hợp chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ Chính phủ giao trong bảo vệ, phát triển rừng. (Quân Đội Nhân Dân 13/9) đầu trang(
Theo Ban quản lý Vườn quốc gia U Minh Hạ, rừng U Minh Hạ đang đứng trước nguy cơ nhiễm mặn rất lớn.
Ban quản lý Vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau cho biết rừng đang đứng trước nguy cơ nhiễm mặn rất lớn, trong đó một phần là do nước mặn từ các con sông gần rừng gây nhiễm cũng như một số hộ dân tự ý đưa nước mặn vào rừng để nuôi tôm trong thời gian gần đây.
Chỉ riêng tại ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi thuộc địa bàn huyện Trần Văn Thời, thời gian qua đã có trên 10 hộ dân tự ý đưa nước mặn vào rừng để nuôi tôm khiến gần 20 ha rừng bị nhiễm mặn ở mức từ 4-5 phần nghìn. Vụ việc đã được phát hiện và xử lý kịp thời nhưng nhìn chung một bộ phận người dân trong khu vực vẫn có tâm lý muốn nuôi tôm.
Vì vậy, để hạn chế nguy cơ nhiễm mặn Vườn quốc gia U Minh Hạ, chính quyền các cấp tỉnh Cà Mau cần tập trung tuyên truyền, để người dân nhận thức được tác hại của việc nhiễm mặn trong rừng quốc gia; tăng cường đầu tư hệ thống thủy lợi, đê, đập bảo đảm ngăn mặn, giữ ngọt; tăng cường lực lượng kiểm lâm bảo vệ rừng. (Đài Truyền Hình Việt Nam 13/9) đầu trang(
Cá thể gấu chó được các cán bộ của Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam đặt tên là Kaffe, bởi màu lông nâu óng rất đặc trưng, và cũng để kỷ niệm nơi gấu được cứu hộ.
Sáng ngày 12/9 tổ chức Động vật Châu Á (Animals Asia) đã thực hiện thành công quá trình cứu hộ một cá thể gấu chó và hỗ trợ cứu hộ hai cá thể khỉ tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, gấu sẽ được đưa về chăm sóc tại Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam, còn khỉ sẽ được tái thả về môi trường rừng tự nhiên.
Đây là ba cá thể động vật hoang dã được một đơn vị tại thành phố Buôn Ma Thuột nuôi với mục đích làm cảnh, nay tự nguyện chuyển giao cho Nhà nước.
Theo thông tin ban đầu từ Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk, cá thể gấu chó, giới tính đực, đã được đơn vị này nuôi từ năm 2007, hiện nặng khoảng 60 kg.
Hai cá thể khỉ, một cá thể khỉ mốc đực (Macaca assamensis) nặng chừng 5kg và một cá thể khỉ mặt đỏ cái (Macaca arctoides) nặng khoảng 4 kg. Cả ba cá thể trên đều được nuôi ở chuồng rộng rãi nên sức khỏe tương đối tốt.
Bác sỹ thú y Mandala Hunter, và y tá Caroline Nelson của Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam tiến hành các bước kĩ thuật với cả ba cá thể để đưa chúng ra khỏi lồng. Hai cá thể khỉ được gây mê, đưa vào lồng vận chuyển của Chi cục Kiểm lâm Đắk Lắk.
Dự kiến, hai cá thể khỉ khỏe mạnh sẽ được tái thả về môi trường rừng tự nhiên tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin.
Cá thể gấu chó được các cán bộ của Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam đặt tên là Kaffe, bởi màu lông nâu óng rất đặc trưng, và cũng để kỷ niệm nơi gấu được cứu hộ, vùng đất Ban Mê – thủ phủ cà phê của Việt Nam.
Các bác sỹ đã dùng phương pháp “dụ - sang lồng”, để gấu di chuyển từ lồng nuôi nhốt sang lồng vận chuyển bằng mật ong và những đồ ngọt gấu ưa thích như khoai lang, kẹo dẻo.
PGS. TS. Tuấn Bendixsen, Trưởng đại diện Tổ chức Động vật Châu Á vui mừng thông báo: “Kaffe là cá thể gấu chó thứ 11 của Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam, và cũng vừa mới tháng trước, chúng tôi cũng vừa cứu hộ thành công một cá thể gấu chó tại Nam Định. Các chuyên gia và nhân viên của Tổ chức sẽ chăm sóc chu đáo cho Kaffe để chú gấu chó này sớm hòa nhập tại các khu bán tự nhiên.
Gấu chó Kaffe vừa được cứu hộ sẽ vượt qua hành trình dài hơn 1,300 km bằng xe tải kéo dài trong 3 ngày, dự kiến về đến Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam vào ngày 15/9/ 2016.
Tính đến nay, Tổ chức Động vật Châu Á đã cứu hộ thành công 165 cá thể gấu, trong đó hiện có 151 cá thể gấu đang được chăm sóc y tế, dinh dưỡng, và sống ngoài các khu bán tự nhiên của Trung tâm. Tính cả Kaffe, hiện có 11 cá thể gấu chó và 140 cá thể gấu ngựa sống ở Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam.
Bên cạnh công tác cứu hộ gấu, Tổ chức Động vật Châu Á hiện đang triển khai chương trình hợp tác với tỉnh Đắk Lắk tài trợ cho dự án bảo tồn voi Việt Nam với tổng giá trị tài trợ lên đến 50.000 USD nhằm bảo tồn loài voi quý hiếm, chỉ còn dưới 100 cá thể hoang dã.
Với đội ngũ chuyên gia và bác sỹ quốc tế có chuyên môn, Tổ chức đã thực hiện hỗ trợ thú y chữa bệnh cho voi, và nâng cao phúc lợi cho voi từ năm 2014 tại địa bàn tỉnh. (Người Đưa Tin 13/9) đầu trang(
“Mua và sử dụng sừng tê giác chính là tự làm xấu đi hình ảnh của bản thân và quốc gia” là thông điệp của bộ phim vừa ra mắt độc giả của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV).
Hôm 13/9, tại Hà Nội, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) vừa ra mắt phim ngắn truyền thông mới với thông điệp: “Mua và sử dụng sừng tê giác chính là tự làm xấu đi hình ảnh của bản thân và quốc gia”.
Phim dài một phút, được xây dựng với mục tiêu khuyến khích công chúng không tiêu thụ sừng tê giác để góp phần chấm dứt tình trạng giết hại tê giác tại Nam Phi.
Phim ngắn này được Tổ chức Bảo vệ Tê giác thế giới (Save the Rhino International), Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế (International Rhino Foundation) và Cục cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ (United States Fish and Wildlife Service) đã hỗ trợ sản xuất.
Trong phim, một doanh nhân trẻ đã biếu cha mình sừng tê giác - người cha đã ngay lập tức từ chối và nói với con trai: “Những người mua, tiêu thụ sừng tê giác là vô tình tiếp tay cho nạn săn bắn tê giác, và đã làm xấu đi hình ảnh của họ và của đất nước. Lẽ ra con nên từ chối món quà này”. Lớn lên trong một gia đình tri thức nhưng người doanh nhân trẻ đã hành động thiếu suy nghĩ khi nhận món quà sừng tê giác và sau đó định biếu cha mình – một học giả đáng kính đã nghỉ hưu - để giúp cha tăng cường sức khỏe.
Hiện nay, cộng đồng quốc tế cho rằng Việt Nam là một trong những thị trường tiêu thụ sừng tê giác lớn trên thế giới. Sừng tê giác thường được sử dụng làm những món quà xa xỉ trong các mối quan hệ làm ăn và để thể hiện đẳng cấp. Ngoài ra, một số người còn tin rằng sừng tê giác có thể chữa được bách bệnh, trong đó có cả ung thư.
Nhu cầu tiêu thụ sừng tê giác tại các quốc gia như ở Việt Nam là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của tình trạng thảm sát tê giác tại Nam Phi. Trung bình, có 3 cá thể tê giác bị giết hại mỗi ngày ở Nam Phi (1,215 cá thể năm 2014 và 1,175 cá thể năm 2015).
Bà Nguyễn Thị Phương Dung - PGĐ ENV - cho biết. “Cuộc chiến bảo vệ tê giác đầy thử thách sẽ không thể thành công nếu thiếu sự góp sức của cộng đồng. Tất cả chúng ta, những công dân của Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ các loài tê giác trên thế giới”.
Đây là phim truyền thông thứ ba được ENV ra mắt trong năm nay, và là phim ngắn thứ 30 do ENV sản xuất. Xây dựng phim truyền thông là một trong những hoạt động của chiến dịch dài hạn của ENV nhằm giảm thiểu nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm.
Theo bà Dung, cùng với việc chia sẻ thông điệp của phim ngắn, mỗi cá nhân có thể cứu giúp các loài tê giác khỏi nạn thảm sát bằng ba hành động thiết thực: Không mua hay tiêu thụ sừng tê giác; thông báo hành vi mua bán, trao đổi sừng tê giác tới cơ quan chức năng địa phương hoặc đường dây nóng miễn phí về bảo vệ động vật hoang dã của ENV (1800 1522); khuyến khích những người thân không tiêu thụ sừng tê giác. (Khoa Học Phát Triển 14/9) đầu trang(
Hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có nhiều đối tượng sử dụng internet, đặc biệt là mạng xã hội, như một công cụ hữu hiệu để thực hiện các hành vi vi phạm về động vật hoang dã (ĐVHD)… Đây là một loại tội phạm mới và rất nguy hiểm cần bị ngăn chặn.
Trong vài năm trở lại đây, loại tội phạm về ĐVHD trên internet đang gia tăng với tốc độ chóng mặt. Trên các trang mạng xã hội, các website, các diễn đàn, nhiều loài ĐVHD từ sóc, nhím, trăn, rắn, kỳ đà, cá sấu, chuột đến những loài nguy cấp, quý, hiếm như hổ, culi, rái cá được rao bán ngày càng thường xuyên và công khai, thậm chí kèm theo đầy đủ thông tin của người bán.
Ngoài ra, do bản chất mạng internet là một môi trường ảo, các đối tượng lại thường xuyên thay đổi tài khoản, thông tin đăng tải lại có thể thay đổi và dỡ bỏ rất nhanh chóng nên việc xác định lai lịch đối tượng và thu thập chứng cứ còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) đã ghi nhận vi phạm quảng cáo ĐVHD và các sản phẩm từ ĐVHD trên internet đầu tiên vào năm 2008. Tính đến tháng 6/2016, con số này đã lên tới 1.551 vụ việc vi phạm. Cá biệt trong năm 2014, số vụ buôn bán, quảng cáo ĐVHD trên internet được ENV tiếp nhận và xử lý lên tới 855 vụ việc.
Theo quy định tại điểm c, Khoản 2, Điều 15 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định số 40/2015/NĐ-CP), hành vi quảng cáo kinh doanh về động vật rừng trái quy định của pháp luật sẽ bị xử phạt từ 1-2 triệu đồng.
Đối với loài động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thuộc nhóm IB của Nghị định số 32/2006/NĐ-CP; loài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES; loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong Danh mục ban hành kèm theo Nghị định số 160/2013/NĐ-CP, do là mặt hàng cấm kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 32/2006/NĐ-CP, Nghị định số 59/2006/NĐ-CP và Luật Đầu tư 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2015) nên việc quảng cáo các loài này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 70-100 triệu đồng theo quy định tại Khoản 2, Điều 50 Nghị định số 158/2013/NĐ-CP.
Trong thời gian qua, vụ việc buôn bán ĐVHD trên mạng do đối tượng Phan Huỳnh Anh Khoa hay còn gọi là Khoa Xì trum (sinh năm 1993, cư trú tại quận Gò Vấp) cầm đầu đã được đưa ra xử lý hình sự. Ngày 21/6/2016, Tòa án Nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt đối tượng Phan Huỳnh Anh Khoa 5 năm tù, phạt bổ sung 50 triệu đồng cho hành vi buôn bán trái phép ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Việc xử lý thích đáng đối tượng Phan Huỳnh Anh Khoa một mặt là một tín hiệu đáng mừng trong cuộc chiến không khoan nhượng với các vi phạm về ĐVHD, nhưng mặt khác cũng là hồi chuông cảnh báo chúng ta về tình trạng buôn bán ĐVHD tràn lan, khó quản lý trên mạng.
Trước đó, vào tháng 5/2015, một đối tượng khác chuyên rao bán ĐVHD trên mạng là Đinh Công Thành cũng đã bị cơ quan chức năng bắt giữ cùng tang vật là 44 cá thể rùa thuộc nhiều loài khác nhau. Thành sau đó đã phải chịu mức án 13 tháng tù giam. Tháng 12/2015, Lê Đức Minh ở Hà Nội cũng đã bị tuyên phạt 27 tháng tù giam sau khi rao bán 3 cá thể cu li trên mạng.
Trước thực trạng đáng báo động trên, ENV đã kêu gọi sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng và cộng đồng nhằm đối phó với loại tội phạm mới này. Từ năm 2008 đến nay, nhờ thông báo vi phạm của người dân qua đường dây nóng miễn phí 1800-1522 và qua các chiến dịch loại bỏ vi phạm về ĐVHD trên internet, Phòng Bảo vệ ĐVHD của ENV đã hỗ trợ các cơ quan chức năng xử lý thành công 1.130 trên tổng số 1.551 vụ vi phạm về ĐVHD trên mạng internet, gỡ bỏ nhiều đường link vi phạm cũng như hỗ trợ cơ quan chức năng tịch thu nhiều cá thể ĐVHD còn sống.
Ngoài việc trực tiếp ngăn chặn các vi phạm về ĐVHD trên mạng, ENV còn triển khai chiến dịch “Khu vực an toàn cho ĐVHD” hướng tới các website mua bán trực tuyến, nhóm mua bán trên mạng xã hội, trang blog nhằm gỡ bỏ những thông tin rao bán ĐVHD và truyền thông bảo vệ ĐVHD trên những trang này. Tới nay, đã có 19 website lớn như chotot.vn, rongbay.vn, vatgia.com, muare.vn... tham gia vào chiến dịch.
Trong thời gian qua, ENV đề xuất các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, để những đối tượng đang sử dụng internet như một công cụ phạm pháp như Phan Huỳnh Anh Khoa không thể tiếp tục coi thường pháp luật. Năm năm tù giam hy vọng là một bài học nhãn tiền đối với những đối tượng đang và có ý định vi phạm pháp luật về bảo vệ ĐVHD. (Tạp Chí Môi Trường 13/9) đầu trang(
Ngày 13/9, tin từ Cơ quan CSĐT CA huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai) cho biết, đã hoàn tất kết luận điều tra và chuyển hồ sơ sang Viện KSND cùng cấp đề nghị truy tố 4 bị can trong vụ bò tót bị bắn chết tại Khu bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai.
Theo đó, vào giữa năm 2014, Lê Nguyễn Ánh Hùng (21 tuổi, ấp 5, xã Mã Đà) lượm được hai khẩu súng gồm một khẩu giống AR15 và một khẩu tự chế cùng khoảng 10 viên đạn giấu tại gốc cây trong rừng tại tiểu khu 105 thuộc khu bảo tồn và mang về nhà cất giấu.
Khoảng giữa tháng 1, Hùng cho em ruột là Lê Nguyễn Ánh Yên (17 tuổi) khẩu súng tự chế và khoảng 10 viên đạn. Sau khi có súng, Yên có sử dụng đi săn vài lần nhưng thấy không hiệu quả nên trả lại cho Hùng.
Đến tối 26/2, Hùng và Phạm Thanh Liêm (16 tuổi, cùng xã) vào Khu bảo tồn bắn chết một cá thể bò tót nặng khoảng 200 kg, sau đó rủ thêm Lê Minh Tiến (32 tuổi, cùng xã) xẻ được 51 kg thịt mang lên tỉnh Bình Phước bán cho Nguyễn Thị Hương (46 tuổi) với số tiền 6,1 triệu đồng.
Ngày 11/3, cả Hùng và Liêm bị Công an huyện Vĩnh Cửu bắt khẩn cấp khi đang lẩn trốn tại nhà chú ruột Hùng là Lê Nguyễn Thanh Luận (32 tuổi, Bình Phước). Sau đó, Lê Minh Tiến ra đầu thú.
Sau khi Hùng bị bắt, Luận tìm thấy khẩu súng Hùng dùng để bắn bò tót giấu trong vườn nên có ý đem về giao nộp công an. Biết chuyện, cha ruột Hùng là Lê Thanh Sơn (43 tuổi) ngăn cản và đem khẩu súng về nhà cất giữ, đến khi công an mời lên làm việc mới thú nhận và giao nộp.
Theo cơ quan điều tra, Hùng và Tiến phạm vào tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; Sơn và Yên phạm tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
Đối với Nguyễn Thị Hương, do không biết số thịt mua của Hùng và Tiến là thịt bò tót nên không phạm tội. Còn Phạm Thanh Liêm, thời điểm phạm tội chưa đủ 16 tuổi và tội vi phạm ít nghiêm trọng nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. (Nông Nghiệp Việt Nam 14/9) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Ngày 13-9, ông Nguyễn Tấn Tuân, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Khánh Hòa, cho biết Thường trực Tỉnh ủy Khánh Hòa đã yêu cầu UBND tỉnh này báo cáo vụ chuyển đổi mục đích hàng trăm hécta rừng tự nhiên, thuộc diện bảo vệ nghiêm ngặt tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm.
Theo đó, rừng Hòn Bà thuộc khu vực bảo tồn nghêm ngặt, mọi tác động lên đây sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái, do đó việc chuyển đổi mục đích sử dụng cũng như làm dự án tại đây phải được báo cáo Tỉnh ủy xem xét, giám sát. Trước đó, vào giữa tháng 8-2016, ông Đào Công Thiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa đã ký quyết định chuyển đổi hơn 104ha rừng tự nhiên tại Hòn Bà để phát triển kinh tế, trong đó có việc cho Công ty CP Đầu tư du lịch Hòn Bà làm cáp treo và khu dịch vụ sinh thái, du lịch văn hóa có quy mô hơn 150ha tại Hòn Bà.
Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà có độ cao 1.500m so với mực nước biển, là nơi có hệ sinh thái đa dạng với hàng chục loài động thực vật được phát hiện có tên trong Sách đỏ Việt Nam. Thực tế thời gian qua, khu vực Hòn Bà được nhiều doanh nghiệp xin đầu tư làm cáp treo, dự án du lịch sinh thái nhưng do vướng vào các quy định của Luật Bảo tồn nên không xin được. (Sài Gòn Giải Phóng 14/9) đầu trang(
Công tác bảo vệ rừng đang được đặt ra hết sức cấp bách. Tại tỉnh Quảng Bình hàng trăm nhân viên bảo vệ rừng đang trằn lưng ra bảo vệ gần 552 nghìn ha rừng các loại an toàn, trong khi đời sống họ gặp rất nhiều khó khăn. Riêng năm 2016, đến ngày 12-9, mà họ chỉ mới nhận được hai tháng kinh phí bảo vệ rừng.
BQLRPH Động Châu, huyện Lệ Thủy được giao bảo vệ 18.361 ha rừng tự nhiên, với nhiều giá trị nổi bật về đa dạng sinh học. Toàn đơn vị có 45 cán bộ, nhân viên, trong đó có 22 viên chức diện biên chế hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch, bậc và 23 nhân viên hợp đồng bảo vệ rừng, trước đây hưởng lương từ nguồn kinh phí của dự án bảo vệ và phát triển rừng bền vững, nay nguồn kinh phí sự nghiệp bảo vệ rừng do Chính phủ cấp.
Giám đốc BQLRPH Động Châu Phạm Đức Hóa cho biết, trong khi lương của 22 viên chức bảo vệ rừng tại đơn vị được cấp đều thì lương của nhân viên hợp đồng bảo vệ rừng từ đầu năm đến nay chưa có cho nên đời sống gặp rất nhiều khó khăn. BQLRPH Động Châu xoay xở cho anh em ứng được hai tháng lương đầu năm, kể từ đó đến nay thì chịu. Đơn vị phân công một cán bộ hưởng lương ngân sách về làm trưởng một trạm bảo vệ rừng để làm nòng cốt cho trạm, để anh em trong trạm “mượn” lương của đồng chí này đắp đổi cuộc sống giữ rừng.
Chúng tôi có dịp đến với anh em các trạm bảo vệ rừng thuộc BQLRPH Động Châu mới biết anh em vất vả khi nhiều tháng chưa có lương. Nằm sâu giữa rừng Trường Sơn, mọi thứ đều thiếu và phải mua từ đồng bằng lên. Cuộc sống gian nan song áp lực bảo vệ rừng rất lớn bởi đây là khu rừng giàu trữ lượng gỗ và phong phú động, thực vật nên số lâm tặc rình rập tàn phá không ít.
Trạm trưởng Trạm bảo vệ rừng Bãi Đạn (giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị) Phan Xuân Hồi cho biết: “Trạm có năm người, trong đó chỉ mình tôi là có lương đều, còn lương anh em đang bị nợ. Để bảo đảm đời sống, tôi phải cho anh em mượn lương để mua muối mắm và xăng xe đi lại, gạo lấy từ gia đình, rau tự trồng và hái rau rừng. Biết là khó khăn nhưng tôi động viên anh em cố gắng, nương tựa vào nhau để bảo vệ tốt rừng”.
Hôm chúng tôi đến, Trạm trưởng đang nấu cơm, nồi cơm to cùng với canh rau và ít con cá khô kho mặn, chờ anh em từ các chốt về ăn. Giám đốc Phạm Đức Hóa cho biết thêm, cả năm trạm bảo vệ rừng của đơn vị đều thế cả, anh em nương vào nhau để sống và chờ đợi đến khi kinh phí bảo vệ rừng được chi trả.
Không chỉ ở BQLRPH mà ở các lâm trường trực thuộc Công ty TNHH một thành viên lâm công nghiệp Long Đại và Công ty TNHH một thành viên lâm công nghiệp Bắc Quảng Bình cũng lâm vào khó khăn. Đây là những đơn vị dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên năm 2015 theo Quyết định 2242/QĐ- TTg ngày 11-12-2014 của Thủ tướng Chính phủ cho nên được Nhà nước cấp kinh phí hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên. Nhưng đến nay, kinh phí bảo vệ rừng năm 2014 cấp thiếu, năm 2015 và 2016 chưa cấp, với số tiền hơn 30 tỷ đồng, các đơn vị không có lương để trả cho cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ bảo vệ rừng.
Giám đốc Lâm trường Khe Giữa (Công ty TNHH một thành viên lâm công nghiệp Long Đại) Trần Thanh Dương cho biết: “Vì không có kinh phí và không tìm ra nguồn nên đơn vị không thể duy trì được bếp ăn tập thể, cán bộ, nhân viên phải tự lo. Biết như vậy là anh em buồn nhưng không thể xoay xở được”.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình Phan Văn Khoa cho biết, toàn tỉnh có gần 552 nghìn ha rừng các loại, trong đó có 270 nghìn ha rừng có nguy cơ xâm hại cao cần bảo vệ. Thực hiện Quyết định 57/QĐ- TTg ngày 9-1-2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020; Quyết định 2242/QĐ- TTg ngày 11-12-2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án tăng cường công tác quản lý khai thác quản lý gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2014-2020, từ năm 2013 đến 2015, tỉnh Quảng Bình được Trung ương bố trí kinh phí sự nghiệp để bảo vệ rừng hằng năm gần 30 tỷ đồng, trong đó kinh phí bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ là 18,2 tỷ đồng, kinh phí bảo vệ rừng cho hai công ty lâm công nghiệp hơn 11,4 tỷ đồng.
Theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Công văn số 9176/BNN-TCLN ngày 6-11-2015, tỉnh Quảng Bình giao nhiệm vụ bảo vệ rừng năm 2016 cho các đơn vị với diện tích 191.446 ha rừng, giá trị là 58,84 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến ngày 10-9, tỉnh Quảng Bình vẫn chưa nhận được kinh phí bảo vệ rừng năm 2016.
Trong công văn gửi Bộ Tài chính đầu tháng 8 vừa qua, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình Lê Minh Ngân nêu rõ, do chậm cấp kinh phí sự nghiệp bảo vệ rừng và kinh phí quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên sản xuất năm 2015 và 2016, cho nên các đơn vị không có kinh phí để trả lương cho người làm nhiệm vụ bảo vệ rừng, tổ chức các lực lượng truy quét, chi phí công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Các đơn vị đã tìm mọi cách để giải quyết tình hình, phải vay vốn ngân hàng, cá nhân để có kinh phí phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng.
Trong khi áp lực bảo vệ rừng ngày càng cao nhưng kinh phí bảo vệ rừng cấp chậm đã làm cho đời sống của gần 300 nhân viên hợp đồng bảo vệ rừng tại Quảng Bình đang gặp nhiều khó khăn và gây nhiều bức xúc. Vì vậy, đề nghị các cơ quan có trách nhiệm cần xem xét, sớm có biện pháp hỗ trợ để tỉnh Quảng Bình giải quyết khó khăn, ổn định đời sống cho người giữ rừng. (Nhân Dân 13/9) đầu trang(
Nhờ được vay vốn ưu đãi Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH), nhiều hộ dân ở xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, Yên Bái có điều kiện đầu tư sản xuất, tăng thu nhập, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương.
Dù có 1 xưởng bóc tách ván gỗ nhỏ, nhưng cuộc sống của vợ chồng anh Phạm Văn Đức, thôn 4, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên (Yên Bái) vẫn chật vật. “Bóc ván gỗ cần sự chính xác trong khâu ra thành phẩm, nhưng do thiếu vốn đầu tư mua sắm máy móc, nên xưởng nhà tôi ít đơn hàng, ít việc. Muốn vay vốn ngân hàng thương mại nhưng lại sợ lãi suất cao…” - anh Đức thổ lộ.
Thông qua Hội ND xã, giữa năm 2015, vợ chồng anh Đức được vay 50 triệu đồng tín dụng chính sách cho hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn. Anh đầu tư mua máy móc, từ đó công việc bớt vất vả, chất lượng và sản lượng sản phẩm tăng lên trông thấy, có thêm nhiều đơn hàng.
Giải quyết được khó khăn, nhất là về vốn đầu tư, xưởng bóc ván gỗ của anh Đức đã thu hút tới 7 lao động, thời điểm đơn hàng nhiều lên tới hơn 10 lao động. “Từ khi được vay vốn, không chỉ tạo thêm được nhiều việc làm cho bà con mà doanh thu của xưởng cũng tăng cao, đạt tới 3 tỷ đồng/năm, lãi ròng gần 500 triệu đồng/năm. Có đồng vốn, tôi trồng thêm rừng nguyên liệu gỗ, trồng quế, đứng ra thu mua gỗ nguyên liệu”-anh Đức cho hay.
Cũng là đồng vốn ưu đãi của Ngân hàng CSXH, nhưng gia đình anh Nguyễn Đức Hội (thôn 3, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên) lại được vay chương trình hộ nghèo. Gia đình thuần nông quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời những cuộc sống vẫn không khá lên được.
“Khi được vay vốn, qua tham khảo sự tư vấn của Hội ND xã, cán bộ tín dụng Phòng Giao dịch Ngân hàng CSXH huyện, tôi quyết định chăn nuôi gà thịt. Đầu năm 2015, được Ngân hàng CSXH cho vay 50 triệu đồng, tôi xây dựng 300m2 chuồng trại để nuôi gà thịt. Hiện nay, gia đình tôi đang nuôi gần 3.000 con gà thịt. Bình quân mỗi năm xuất chuồng 3 lứa. Năm ngoái, bán 2 lứa gà thịt với số lượng vài ngàn con, gia đình tôi có lãi gần 200 triệu đồng. Sau khi được vay vốn, chưa đầy 2 năm sau tôi đã thoát nghèo”-anh Hội cho hay.
Hòa Cuông là 1 trong những xã có tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện Trấn Yên. Hiện dư nợ tín dụng chính sách qua ủy thác tại xã Hòa Cuông là hơn 7,5 tỷ đồng với tổng số 750 hộ đang được vay, trong đó chủ yếu tập trung ở 2 chương trình tín dụng lớn là cho vay hộ nghèo và hộ cận nghèo.
Ông Đỗ Viết Bảo-Chủ tịch Hội ND xã Hòa Cuông chia sẻ: “Tiềm năng, thế mạnh mà không có vốn đầu tư thì “nó” vẫn cứ ngủ yên trong đất đai, nguồn lao động thôi. Nếu không có vốn của các chương trình tín dụng của Ngân hàng CSXH, bà con không biết xoay xở vay vốn ở đâu. Nhiều hộ từ nghèo, cận nghèo vươn lên khá, giàu ở Hòa Cuông cũng nhờ tác động của các chương trình tín dụng của Ngân hàng CSXH…”.
Theo lãnh đạo Phòng Giao dịch Ngân hàng CSXH huyện Trấn Yên, đơn vị này đang triển khai 11 chương trình tín dụng ưu đãi trên địa bàn. Một số chương trình tín dụng ưu đãi đã tỏ rõ vai trò giảm nghèo bền vững ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số như cho vay hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ sản xuất-kinh doanh vùng khó khăn…Tổng dư nợ vốn tín dụng chính sách qua ủy thác đến hết 8.2016 trên địa bàn huyện Trấn Yên đạt hơn 291,1 tỷ đồng, nợ quá hạn chỉ có 238 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,08% trên tổng dư nợ ủy thác.
Ông Trương Viết Tân - Phó Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng CSXH huyện Trấn Yên lý giải: “Một trong những yếu tố đảm bảo sự tăng trưởng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng là sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp chính quyền…”. (Dân Việt 14/9) đầu trang(
UBND TP Hà Nội vừa ban hành Công văn số 8078/VP-KT yêu cầu sở, ngành liên quan rà soát, xây dựng Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 - 2020.
UBND thành phố nhận được văn bản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc rà soát, xây dựng Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó nhấn mạnh, để hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững theo quy định của Luật Đầu tư công, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tham gia thực hiện chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững rà soát, hoàn thiện chương trình.
Cụ thể, rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ chính thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc xây dựng kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2016-2020.
Cùng với đó, tổng hợp, rà soát kế hoạch vốn ngân sách trung ương gồm: Danh mục các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển (nguồn vốn Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững); kế hoạch vốn sự nghiệp kinh tế chi cho các hoạt động: Khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, hỗ trợ cộng đồng vùng đệm các khu rừng đặc dụng, trong đó kinh phí sự nghiệp thực hiện theo cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020…
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các địa phương tổ chức rà soát, hoàn thiện Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững gửi về Bộ trước ngày 15/9/2016.
Về việc trên, UBND thành phố giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với sở, ngành liên quan nghiên cứu, thực hiện chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thống nhất đề xuất cụ thể, báo cáo UBND thành phố. (Pháp Luật Và Xã Hội 13/9) đầu trang(
Huyện Quang Bình có điều kiện tự nhiên, khí hậu khá thuận lợi để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, của tỉnh, huyện Quang Bình đã tích cực lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân tập trung quản lý, bảo vệ, chăm sóc diện tích rừng hiện có và trồng rừng mới, vì thế độ che phủ rừng của toàn huyện đến nay đã đạt trên 64%.
Hiện nay, toàn huyện có trên 50.000 ha rừng hàng năm được bảo vệ; trong đó, bảo vệ rừng phòng hộ trên 20.000 ha, bảo vệ rừng sản xuất trên 29.000 ha tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Với một diện tích rừng khá lớn như vậy, trong những năm qua thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho các hộ làm chủ, các hộ đã chủ động quản lý, khoanh nuôi bảo vệ và khai thác, vì thế diện tích rừng trên địa bàn các xã cơ bản ổn định.
Để thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ phát triển rừng bền vững; vừa qua, BCH Đảng bộ huyện Quang Bình đã xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 09 - NQ/TU ngày 28.7.2016 của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XVI (nhiệm kỳ 2015-2020) tập trung vào những nội dung cụ thể, sát thực với tình hình thực tế của địa phương. Trao đổi với phóng viên về vấn đề này, lãnh đạo huyện Quang Bình cho biết: Sau khi Nghị quyết 09 của Tỉnh ủy ban hành, huyện Quang Bình đã tập trung triển khai ngay Nghị quyết nhằm phát huy lợi thế của địa phương để tập trung đẩy mạnh phát triển lĩnh vực lâm nghiệp trên địa bàn một cách đồng bộ từ quản lý, bảo vệ, phát triển, khai thác, chế biến để tạo ra sản phẩm hàng hóa từ lâm nghiệp. Góp phần nâng cao giá trị các sản phẩm lâm nghiệp để nâng cao thu nhập, đồng thời phát triển lâm nghiệp phải gắn với bảo vệ môi trường và du lịch.
Theo kế hoạch của huyện từ nay đến năm 2020, toàn huyện phấn đấu trồng 6.900 ha rừng, trong đó trồng rừng tập trung 6.650 ha (gồm trồng mới 3.250 ha, trồng sau khai thác 3.400 ha; trồng rừng phân tán 375.000 cây tại các xã, thị trấn tương đương 50ha/năm, 250 ha cho cả giai đoạn 2016-2020). Cùng với đó, là khoanh nuôi xúc tiến tái sinh cho chu kỳ khoanh nuôi 5 năm 1.000 ha tại các xã: Tiên Nguyên, Tân Trịnh, Tân Bắc và Bằng Lang.
Tập trung chỉ đạo chăm sóc diện tích rừng trồng để được cấp chứng chỉ (FSC) với diện tích rừng 10.500 ha tại các xã có diện tích rừng sản xuất lớn. Tăng năng suất rừng trồng đạt từ 75-80m2/ha trở lên. Diện tích được sử dụng giống tốt để trồng rừng đạt 30% diện tích rừng trồng tập trung, trong đó, Công ty Lâm nghiệp đóng trên địa bàn thực hiện 28%, nhân dân các xã, thị trấn thực hiện 2%. Thực hiện 1 mô hình trồng rừng có sử dụng giống tốt và áp dụng kỹ thuật thâm canh cao làm trình diễn để nhân rộng với diện tích 5 ha.
Để thực hiện được kế hoạch đề ra, huyện Quang Bình cũng đã huy động toàn bộ hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở tập trung tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân hiểu, nắm rõ nội dung của kế hoạch để cùng phối hợp thực hiện. Trên cơ sở kế hoạch thực hiện của từng năm, mỗi ngành, mỗi đơn vị phân công cán bộ chỉ đạo, hướng dẫn các xã, thị trấn, các thôn bản thực hiện hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm, để đảm bảo đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch cho cả giai đoạn.
Trong đó tập trung vào nội dung tuyên truyền về chủ trương, chính sách và chỉ tiêu của kế hoạch đề ra; tổ chức đa dạng hoá các hoạt động tuyên truyền thông qua các tổ chức đoàn thể và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hằng năm, qua công tác tổng kết đánh giá lựa chọn các mô hình điển hình, những cách làm hay để làm tư liệu tuyên truyền cho các năm tiếp theo.
Cùng với đó, huyện cũng tập trung vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác điều hành của chính quyền các cấp trong việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp tại địa phương. Đảng ủy các xã, thị trấn trên cơ sở nội dung kế hoạch hàng năm xây dựng chương trình hành động, nghị quyết chuyên đề làm cơ sở triển khai thực hiện. UBND huyện và các xã, thị trấn chú trọng xây dựng các dự án để tranh thủ sự quan tâm của tỉnh và các sở, ban, ngành về chính sách đầu tư thực hiện các chỉ tiêu bảo vệ rừng, trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, khai thác chế biến lâm sản theo kế hoạch Nhà nước giao hằng năm, nhằm thực hiện hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát để rút kinh nghiệm và khắc phục kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện cho phù hợp với thực tế của địa phương. Tổ chức sắp xếp lại và củng cố tình hình hoạt động của đội ngũ cán bộ phụ trách lâm nghiệp các xã, thị trấn. Chỉ đạo thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ được phân công. Hàng tháng giao cho cơ quan Kiểm lâm tổ chức giao ban công tác lâm nghiệp để nắm bắt tình hình hoạt động và triển khai nhiệm vụ tại cơ sở.
Sắp xếp lại đội ngũ kiểm lâm địa bàn đảm bảo cho phù hợp cho từng xã, thị trấn. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của kiểm lâm địa bàn trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Có ý kiến đề xuất với tỉnh và ngành chuyên môn bố trí đảm bảo mỗi xã, thị trấn có 1 kiểm lâm địa bàn kiện toàn và thành lập mới các tổ bảo vệ và phát triển rừng gắn với công tác phòng cháy, chữa cháy rừng cho 135 thôn bản và 15/15 xã, thị trấn.
Thực hiện việc giao rừng để kết hợp bảo vệ rừng gắn với trồng Thảo quả dưới tán rừng tại 3 xã: Tân Nam, Tiên Nguyên, Xuân Minh... Thành lập các Tổ bảo vệ rừng gắn với công tác chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các xã: Nà Khương, Bản Rịa, Yên Thành, Yên Bình, Tân Bắc, Tân Nam, Tiên Nguyên, Xuân Minh... Ngoài ra thành lập các Tổ bảo vệ và phát triển rừng theo hình thức tổ sản xuất, nhóm sở thích về phát triển rừng gắn với hương ước, quy ước của cộng đồng thôn, bản...
Có thể nói, với chủ trương và định hướng đúng đắn trong việc thực hiện Nghị quyết 09 của Tỉnh ủy, huyện Quang Bình sẽ có bước phát triển lâm nghiệp mạnh và bền vững trong những năm tới... (Hà Giang 13/9) đầu trang(
Trong 2 ngày 12-13.9, Đoàn giám sát HĐND tỉnh do đồng chí Thào Hồng Sơn, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh làm Trưởng đoàn, đã tiến hành giám sát tại huyện Mèo Vạc về kết quả trồng rừng, quản lý bảo vệ rừng giai đoạn 2010-2015.
Tham gia đoàn giám sát có đồng chí Hoàng Đình Phới, Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh; lãnh đạo các Ban HĐND tỉnh, Văn phòng HĐND tỉnh. Dự làm việc với đoàn có Thường trực Huyện ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ huyện; lãnh đạo các cơ quan chuyên môn của huyện và lãnh đạo UBND các xã Pả Vi, Pải Lủng, Khâu Vai và Niêm Sơn.
Qua đợt khảo sát thực tế và làm việc với UBND huyện Mèo Vạc, đoàn giám sát nhận thấy: Trong những năm qua, việc triển khai kế hoạch trồng rừng giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn huyện Mèo Vạc cơ bản đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra và đã mang lại hiệu quả thiết thực. Cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở đã ban hành Nghị quyết, Kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo triển khai và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia trồng rừng, quản lý bảo vệ rừng.
Giai đoạn 2010-2015, toàn huyện đã trồng được 2.849,2 ha rừng tập trung, đạt 100% kế hoạch; 2.149.500 cây phân tán đạt 100% kế hoạch; 13.800 cây thuộc rừng phòng hộ môi trường đạt 100% kế hoạch. Huyện đã tổ chức nghiệm thu theo đúng quy trình kỹ thuật và bàn giao cho các chủ hộ nhận khoán thường xuyên chăm sóc, quản lý bảo vệ diện tích rừng đã trồng.
Do vậy, tỷ lệ cây trồng sống sau nghiệm thu đạt 75% trở lên. Bên cạnh đó, huyện còn làm tốt công tác chi trả 18 tỷ 730 triệu đồng kinh phí hỗ trợ trồng rừng, cấp phát gần 2.000 tấn gạo cho 2.345 hộ nhận khoán chăm sóc và bảo vệ rừng. Tiến hành hoàn thành giải ngân tiền dịch vụ môi trường rừng cho 13.288 hộ/17 xã, thị trấn hưởng lợi với kinh phí 9 tỷ 464 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch.
Để làm tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng, huyện đã chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với các xã, thị trấn hướng dẫn các thôn xây dựng quy ước bảo vệ phát triển rừng. Tuyên truyền, tập huấn cho nhân dân nắm được các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng. Đồng thời tăng cường tuần tra phát hiện, xử lý các vụ việc vi phạm Luật bảo vệ phát triển rừng.
Tuy nhiên, việc thực hiện chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, đó là: Trình độ quản lý của cán bộ cấp xã còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Tình trạng khai thác gỗ, phá rừng làm nương rẫy, gây cháy rừng vẫn còn xảy ra. Một số diện tích rừng phòng hộ sau khi trồng vẫn xảy ra hiện tượng cây bị chết, tỷ lệ sống chỉ đạt 60-70%. Công tác chuẩn bị cây giống phục vụ trồng rừng còn chậm so với thời vụ. Nhân dân các xã vẫn còn chưa nắm chắc kỹ thuật trồng, khoanh nuôi bảo vệ rừng do đó nhiều diện tích rừng trồng quá dày nên cây phát triển chậm,..
Đoàn giám sát của HĐND tỉnh đánh giá cao những kết quả mà huyện Mèo Vạc đã đạt được trong thời gian qua. Đồng thời đề nghị trong thời gian tới huyện cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về khoanh nuôi bảo vệ rừng, đặc biệt là chuyển đổi nhận thức về trồng rừng sản xuất. Động viên, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng vườn ươm để chủ động nguồn cây giống tại chỗ. Nghiên cứu điều chỉnh chỉ tiêu giao trồng rừng hàng năm cho các xã sát với diện tích hiện có, không giao theo bình quân.
Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chuyên môn hướng dẫn nhân dân chăm sóc tốt diện tích rừng đã trồng. Tổ chức phát tuyến, băng cản lửa, diễn tập phòng chống cháy rừng và rà soát bổ sung quy ước thôn bản về quản lý, bảo vệ rừng. Hướng dẫn các xã, thị trấn thống nhất biện pháp quản lý, sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng hiệu quả và phù hợp với điều kiện của địa phương.,..
Sáng 13.9, Đoàn công tác của Thường trực HĐND tỉnh do đồng chí Chúng Thị Chiên, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh làm trưởng đoàn đã có buổi giám sát kết quả trồng rừng, quản lý bảo vệ rừng (QLBVR) tại xã Nậm Ty, huyện Hoàng Su Phì. Cùng dự buổi làm việc có lãnh đạo cấp ủy, chính quyền huyện.
Trước khi làm việc với lãnh đạo xã Nậm Ty, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Chúng Thị Chiên cùng đoàn công tác đã đi kiểm tra thực tế công tác trồng rừng, QLBVR của các chủ hộ nhận khoán tại thôn Ông Thượng, Tân Thượng. Qua khảo sát thực tế, đoàn công tác đã chỉ ra một số hạn chế của xã trong quá trình thực hiện trồng rừng, QLBVR, đó là: Tỷ lệ cây sống đạt khá cao tuy nhiên cây phát triển không đồng đều; kỹ thuật trồng chưa đảm bảo; công tác hướng dẫn trồng rừng của đội ngũ cán bộ khuyến nông xã còn chưa quyết liệt; tỷ lệ sống đối với các cây trồng hộ lang không cao; việc chăm sóc cây trồng của các hộ dân chưa thực hiện thường xuyên…
Theo báo cáo của xã, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng, xã Nậm Ty đã triển khai rộng khắp trên địa bàn xã; công tác điều hành, quản lý và tổ chức thực hiện được áp dụng theo các quy định của Dự án trồng rừng mới. Kết quả trồng rừng giai đoạn 2010-2015, toàn xã trồng được trên 450 ha rừng phòng hộ và rừng trồng sản xuất, tỷ lệ cây sống sau nghiệm thu của các lô rừng trồng đạt từ 85-95%.
Diện tích rừng phòng hộ, rừng sản xuất và rừng tự nhiên được bảo vệ, chăm sóc là 2.784,9 ha. Công tác QLBVR hàng năm được các thôn xây dựng quy ước, hương ước bảo vệ rừng của thôn; phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện tổ chức các buổi tuyên truyền cho người dân về các chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ, khai thác rừng.
Kết luận buổi giám sát, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Chúng Thị Chiên ghi nhận, biểu dương những kết quả mà xã Nậm Ty đạt được trong công tác trồng rừng, QLBVR giai đoạn 2010-2015. Đồng thời, chỉ rõ một số nội dung mà xã cần quan tâm thực hiện trong công tác trồng rừng, QLBVR là: Xây dựng quy hoạch phát triển rừng của xã cho giai đoạn 2016-2020, qua đó đề ra chỉ tiêu, lộ trình thực hiện cụ thể cho từng năm; tăng cường công tác tuyên truyền đến với người dân được biết các chính sách của Nhà nước về công tác QLBVR; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo chuyên đề đối với việc trồng rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng; tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai…
Đối với công tác trồng rừng trong thời gian tới, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh cũng yêu cầu xã Nậm Ty cần chủ động được cây giống sao cho phù hợp với địa phương; phát huy vai trò đội ngũ cán bộ khuyến nông xã trong việc hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cho người dân; đẩy mạnh chăm sóc các loại cây đã trồng; lập hồ sơ quản lý theo quy định đối với những diện tích rừng đã thực hiện; đối với các khoản lợi từ rừng cần công khai, thông tin minh bạch cho người dân biết… (Báo Hà Giang 13/9) đầu trang(
Ngoài ra, còn nguồn ngân sách TƯ đầu tư phát triển rừng ven biển theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt...
Cụ thể gồm: Điều tra, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ven biển; Trồng rừng mới, cải tạo rừng ven biển chất lượng kém không có khả năng phục hồi theo định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế, dự toán được duyệt với thời gian trồng và chăm sóc 5 năm; Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung theo định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế, dự toán được duyệt đối với rừng phòng hộ và rừng đặc dụng ven biển là rừng tự nhiên chất lượng kém, chưa đủ tiêu chí thành rừng; Xây dựng công trình chống sạt lở, gây bồi, tạo bãi để khôi phục, phát triển rừng ven biển trong các dự án lâm sinh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Xây dựng các công trình, mua sắm trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng ven biển; Công tác quản lý, kiểm tra, nghiệm thu các dự án bảo vệ và phát triển rừng ven biển và việc lập, thẩm định, trình phê duyệt các dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng ven biển thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư công.
Nguồn vốn đầu tư quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ven biển, gồm: Ngân sách nhà nước bố trí thông qua các Chương trình, dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt: Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh và các chương trình, dự án khác theo quy định hiện hành của nhà nước.
Vốn tài trợ, vốn vay quốc tế, vốn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Kinh phí đầu tư được thực hiện lồng ghép từ các nguồn vốn, trong đó nguồn vốn sự nghiệp kinh tế: Các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách đầu tư, hỗ trợ vốn có mục tiêu từ ngân sách TƯ; các địa phương đã tự cân đối được ngân sách có trách nhiệm bố trí từ ngân sách địa phương và huy động các nguồn vốn khác để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng ven biển. (Nông Nghiệp Việt Nam 14/9) đầu trang(
Chuẩn bị mùa trồng rừng năm 2016, các vườn ươm trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã chuẩn bị dồi dào cây giống giâm hom, loại giống cây đầu dòng gồm keo tai tượng, phi lao, xà cừ, dầu rái, sao đen, gõ đỏ…
Ông Đỗ Thế Vĩnh, Chi cục Kiểm lâm Phú Yên cho biết, mùa trồng rừng năm 2016, các vườn ươm trên địa bàn tỉnh đã gieo ươm được 7 triệu cây giống và đang tiếp tục ươm 5 triệu cây số lượng cây trên đủ để trồng tập trung 6.000ha, trong đó có 4.200ha rừng SX, 1.400ha rừng phòng hộ và 600ha rừng trồng thay thế do trước đây đã sử dụng đất rừng, đất lâm nghiệp để thực hiện các dự án.
Các vườn ươm cung cấp giống cây lâm nghiệp chủ yếu tập trung tại các huyện miền núi Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh. Chỉ tính riêng tại xã Sơn Định, Sơn Long (huyện Sơn Hòa) có trên 8 vườn ươm SX cây giống lâm nghiệp theo phương pháp giâm hom với quy mô từ vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn bầu cây xuất bán mỗi năm. Các giống cây chủ lực được sản xuất tại các vườn này là keo, bạch đàn…
Ông Nguyễn Văn Hồng, GĐ Cty TNHH Lâm nghiệp Hồng Sum ở xã Sơn Long cho hay: “Năm ngoái tôi ươm 700 nghìn cây nhưng nhận thấy nhu cầu cây giống rất cao nên năm nay ươm 2 triệu cây keo lai giâm hom và 50% trong số đó đã được khoảng 100 hộ, đơn vị đặt mua với giá bán 600 đồng/cây”.
Ông Đào Trọng Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Sơn Định cho biết: "Toàn xã có hơn 300 trong số 526 hộ trồng rừng SX với diện tích hiện 320ha. Năng suất đạt 70 tấn/ha, riêng những hộ đầu tư chăm sóc năng suất có thể đạt từ 90 - 100 tấn/ha. Năm nay nông dân trong xã trồng 30ha sau khi khai thác gỗ”.
Để phát triển ngành lâm nghiệp bền vững, tỉnh Phú Yên đang quy hoạch hệ thống rừng giống, vườn giống, vườn ươm giống cây trồng lâm nghiệp theo hướng xã hội hóa với một trong những mục tiêu đến năm 2020 sẽ cung cấp 80% giống từ nguồn giống được công nhận. 100% nguồn giống và cơ sở SX kinh doanh giống được kiểm soát chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp theo thủ tục giám sát chuỗi hành trình giống đối với toàn bộ các loài cây trồng chính.
Những năm qua, người dân ở thôn Mỹ Phú 2, xã An Hiệp (huyện Tuy An) nuôi ngựa chủ yếu vận chuyển cây giống để trồng rừng. Toàn xã An Hiệp có 75 con ngựa thồ, riêng thôn Mỹ Phú 2 có gần 50 con ngựa. Gần đây, nhiều nơi ở các vùng lân cận và các tỉnh Tây Nguyên có dự án trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc cũng xuống núi đến nhờ vào sức ngựa từ xã An Hiệp này.
Anh Nguyễn Văn Pháp, một chủ ngựa ở Mỹ Phú 2 cho biết, người dân ở đây sắm ngựa thồ mưu sinh những tháng nắng thồ sắn mía, còn mùa mưa tập trung vào công việc trồng rừng. Nghề này không bao giờ ế, vì thường trồng keo lá tràm 5 - 7 năm là khai thác rồi trồng tiếp nên năm nào cũng có người trồng rừng. Ngựa thồ ở đây đi lên các xã Sơn Long, Sơn Định thồ cây giống, phân bón, có tốp còn lên đến Phước Tân (huyện Sơn Hòa), Phú Túc (Gia Lai) nhận khoán thồ cây thuê.
Tại xã Xuân Lãnh (huyện Đồng Xuân) có trên 100 con ngựa thồ, có người sắm đến 3 con ngựa thồ góp phần trồng rừng trải dài màu xanh rừng núi. Ông Võ Văn Tiên dắt cùng lúc nuôi 3 con ngựa chuyên thồ cây giống trồng rừng phân trần: "Năm nào cũng vậy đến mùa mưa ngựa “nằm rừng” thồ cây ở xã vùng cao Phú Mỡ (huyện Đồng Xuân). Nhiều khu vực trồng rừng trên dốc đá cheo leo, dốc cao dựng đứng như mái nhà, chỉ có ngựa mới thồ được cây giống tới nơi".
Còn ông Nguyễn Văn Phúc, một nài ngựa đang chất cây keo giống lên giỏ cần xé cho hay, bước qua tháng 9 vùng rừng núi này có mưa ngựa thồ dốc sức thồ cây giống. Trung bình thồ một cây giống lên đến nơi là 1.500 đồng, sức ngựa một chuyến thồ cỡ 200 cây, trong đó có kèm theo “nồi đất” (túi nilon chứa đất ươm cây giống), một ngày thồ 2 chuyến.
Theo Sở NN-PTNT Phú Yên, trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện có hơn 20.963ha rừng trồng và khoảng 8,4 triệu cây phân tán (tương đương 4.200ha). Từ năm 2016 đến năm 2020, mỗi năm tỉnh Phú Yên sẽ trồng mới khoảng 4.000ha rừng.
Cùng với việc tiếp tục đóng cửa khai thác gỗ rừng tự nhiên, trong năm nay, tỉnh đã khai thác 21.000m3 gỗ rừng trồng, chủ yếu là keo lai, đạt 42% kế hoạch cả năm. Tỉnh Phú Yên phấn đấu năm nay khai thác 50.000m3 gỗ rừng trồng, tăng 10.000m3 so với năm 2015. (Nông Nghiệp Việt Nam 13/9) đầu trang(
Phát huy thế mạnh đồi rừng, những năm qua huyện Văn Chấn đã rà soát lại 3 loại rừng; tăng quỹ đất phục vụ trồng rừng sản xuất, khuyến khích xã hội hóa nghề rừng. Nhờ đó, mà tốc độ trồng rừng diễn ra khá mạnh và kinh tế vườn rừng đã giúp cho nhiều hộ thoát nghèo.
Huyện Văn Chấn có diện tích đất lâm nghiệp trên 70.000 ha. Gần chục năm về trước, việc trồng rừng chủ yếu do các lâm trường đóng trên địa bàn đảm nhận. Để đưa tiềm năng đất rừng thành kinh tế mũi nhọn, từ năm 2006, huyện đã đưa trồng rừng kinh tế vào chương trình phát triển kinh tế huyện.
Để tạo bước đột phá trong trồng rừng kinh tế, huyện Văn Chấn tiến hành rà soát, quy hoạch 3 loại rừng, tăng quỹ đất trồng rừng sản xuất, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển rừng, nhất là kinh tế hộ gia đình; khuyến khích các hình thức liên doanh liên kết và thành lập các trang trại nông lâm nghiệp.
Cùng với đó, thông qua các chương trình, dự án trồng rừng như: chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, dự án hỗ trợ trồng rừng sản xuất theo Quyết định 147/2007/QĐ-TTg... đã hỗ trợ trực tiếp đến người trồng rừng, tạo đòn bẩy thúc đẩy nghề rừng trên địa bàn phát triển.
Theo thống kê của Hạt Kiểm lâm huyện Văn Chấn, từ năm 2008 đến nay, bình quân mỗi năm toàn huyện trồng mới trên 3.500 ha rừng, bằng các giống cây lâm nghiệp như: keo, mỡ, quế, bồ đề, trẩu, đưa độ che phủ rừng trên địa bàn huyện năm 2016 đạt trên 54,33 %. Tính riêng từ đầu năm tới nay, nông dân và các thành phần kinh tế đã trồng mới được trên 1.537 ha rừng, trong đó, diện tích người dân tự bỏ vốn trồng rừng là 1.336 ha.
Một số xã có phong trào trồng rừng mạnh: Thượng Bằng La, Chấn Thịnh, Sơn Thịnh, Tân Thịnh. Kinh tế đồi rừng đang trở thành hướng đi tích cực trong xóa đói nghèo cho người dân. Nhiều hộ đã chuyển từ canh tác nương sang trồng rừng sản xuất.
Gia đình anh Đặng Thanh Thủy ở thôn Văn Thi 4, xã Sơn Thịnh trước đây là hộ nghèo. Năm 2006, anh nhận đất trồng rừng theo Dự án 661, được Nhà nước hỗ trợ cây giống, phân bón và kỹ thuật chăm sóc. Qua nhiều năm gắn bó với rừng, gia đình anh có gần chục ha rừng kinh tế. Chỉ tính riêng tiền tỉa thưa, mỗi năm đã thu được hơn chục triệu đồng. Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, số tiền thu được từ tỉa thưa, anh tiếp tục đầu tư trồng rừng kinh tế.
Anh Thủy cho biết: “Nhờ trồng rừng mà gia đình đã thoát cảnh khó khăn. Hiện nay, trong thôn có hơn chục hộ trồng rừng, nhiều hộ thoát nghèo có cuộc sống khá giả hơn từ nghề rừng như gia đình ông Đào Quốc Nhuận, ông Vũ Văn Sáu”.
Ông Nguyễn Văn Quỳnh - Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Văn Chấn cho biết: “Mỗi năm huyện Văn Chấn có kế hoạch trồng mới trên 3.500 ha rừng. Để hoàn thành kế hoạch trồng rừng, hàng năm, Hạt Kiểm lâm huyện Văn Chấn đã tham mưu giúp chính quyền các xã xây dựng kế hoạch trồng rừng tới các thôn, bản; tích cực tuyên truyền, vận động người dân, các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư trồng rừng, chăm sóc rừng; tăng cường cán bộ kỹ thuật xuống địa bàn các xã để giao cây giống, hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Nhờ đó, hàng năm, công tác trồng rừng trên địa bàn huyện đều đạt kế hoạch đề ra. Quan trọng hơn, từ trồng rừng đã làm thay đổi nhận thức của người dân. Bà con đã biết trồng và phát triển vốn rừng góp phần đẩy lùi tình trạng đốt rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép”. (Báo Yên Bái 13/9) đầu trang(
Thực hiện Dự án bảo vệ và phát triển rừng, năm 2016, huyện Hạ Lang đã thiết kế trồng rừng với tổng diện tích 50,6 ha; đến nay đã trồng được 27,3 ha rừng sản xuất, 23,2 ha rừng phòng hộ.
Trong đó, các xã: Minh Long trồng được 14,1 ha rừng sản xuất; Lý Quốc trồng 2,2 ha rừng sản xuất, 7,1 ha rừng phòng hộ; Quang Long 10,5 ha rừng phòng hộ; Vinh Quý 8 ha rừng sản xuất, 1 ha rừng phòng hộ... Các xã, thị trấn trồng được trên 10.000 cây phân tán.
Các chỉ tiêu trồng rừng được giao cho 7 xã triển khai thực hiện, nhân dân được hỗ trợ giống cây (thông, sa mộc), tổng diện tích rừng trồng đang được thẩm định nghiệm thu. Hạt Kiểm lâm huyện đã ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng tại 10 xã trọng điểm dễ xảy ra cháy rừng; hợp đồng bảo vệ trên 3.478 ha rừng năm thứ 4; khoanh nuôi tái sinh trên 732 ha rừng năm thứ 4... (Báo Cao Bằng 13/9) đầu trang(
Chiều 13.9, ông Đỗ Đình Phương, Giám đốc Công ty cổ phần Công viên, Cây xanh và Chiếu sáng đô thị Quy Nhơn, cho biết: Để chủ động phòng tránh tình trạng cây xanh ngã, đổ, nhất là trong mùa mưa bão tới, đầu tháng 7.2016 đến nay, đơn vị đã tiến hành tỉa thưa vòm tán, mé cành cho khoảng 5.000 lượt cây xanh có nguy cơ gãy đổ cao.
Từ nay đến hết tháng 10.2016, đơn vị tiếp tục bố trí các đội quản lý cây xanh tiến hành cắt, tỉa cho các cây nặng tàn, hạ thấp chiều cao dưới 14 m và thu gọn chiều rộng tán cho khoảng 2.000 cây khác.
Bên cạnh đó, Công ty cũng đã thành lập tổ kỹ thuật tiến hành kiểm tra giám sát, phát hiện kịp thời những cây xanh già cỗi, mục gốc, rỗng ruột, những cây xanh bị ảnh hưởng do tác động xấu của con người để xử lý kịp thời. Ngoài ra, Công ty đã chủ động thành lập đường dây nóng (056.3820.623) để nhân dân cấp báo khi có sự cố xảy ra hoặc phát hiện những cây xanh đường phố có nguy cơ ngã đổ trong mùa mưa bão năm 2016.
Được biết, hiện nay, Công ty cổ phần Công viên, Cây xanh và Chiếu sáng đô thị Quy Nhơn đã trồng và quản lý khoảng 40.000 cây xanh ở những nơi công cộng và các tuyến đường trong TP Quy Nhơn. (Báo Bình Định 13/9) đầu trang(
Ông Nguyễn Tôn Quyền - Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFORES) -cho biết, trong 8 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt gần 4,4 tỷ USD. Dự kiến các tháng cuối năm nay xuất khẩu sẽ đạt yêu cầu đặt ra là 7,2 tỷ USD.
Trong 8 tháng qua, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang phần lớn các thị trường đều bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, thị trường Trung Quốc giảm tới 40% (do thị trường này giảm nhập khẩu dăm mảnh từ Việt Nam), Na Uy giảm trên 40%, ngoài ra các thị trường khác như Nam Phi, Phần Lan, Ấn Độ… cũng bị sụt giảm đáng kể. Tuy nhiên, xuất khẩu lại tăng mạnh ở một vài thị trường như: Campuchia, Mexico, Bồ Đào Nha...
Theo VIFORES, trong số các thị trường xuất khẩu hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ lớn nhất các loại gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, chiếm 39,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp đến thị trường Nhật Bản gần 553,5 triệu USD, chiếm 14,6%; Trung Quốc 535 triệu USD, chiếm 14%; Hàn Quốc 327 triệu USD, chiếm 8,6%.
Đáng chú ý, một số DN gỗ hoạt động tại Bình Dương cho hay, thị trường Hoa Kỳ lớn, nhiều tiềm năng đã trở thành đích ngắm của nhiều nước xuất khẩu trong đó có Trung Quốc. Thời gian gần đây nhiều DN sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu của Trung Quốc đã chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức thành lập DN có vốn FDI để lấy sản xuất sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Việc đầu tư ồ ạt của DN Trung Quốc vào ngành gỗ tại Việt Nam không chỉ khiến các DN trong nước mất đơn hàng và chịu sự cạnh tranh khốc liệt, mà còn tiềm ẩn nguy cơ các sản phẩm đồ gỗ sẽ phải đối mặt với việc bị kiện chống bán phá giá từ một số quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật, EU do lượng hàng xuất khẩu tăng quá nhanh và có mức giá rẻ.
Ông Nguyễn Tôn Quyền cho biết, VIFORES có nghe thông tin này nhưng chưa nhận được sự phản hồi chính thức của DN gỗ tại Bình Dương. Theo ông Quyền, chỉ khi nào DN phản ánh từng trường hợp cụ thể thì VIFORES mới có cơ sở báo cáo, đề xuất hướng giải quyết tốt nhất cho DN Việt lên cấp cao hơn.
Liên quan đến hãng tàu Hanjin phá sản, ông Quyền thông tin, DN gỗ chỉ giao hàng cho đối tác nhập khẩu tại các cảng ở Việt Nam, các đối tác nước ngoài sẽ tự thuê hãng vận chuyển. Do đó, việc hãng tàu Hanjin tuyên bố phá sản đã không ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các DN ngành gỗ. (Công Thương/ Vinanet 13/9) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Chính quyền Myanmar sẽ cho phép nối lại sản xuất gỗ (theo hạn mức) trong tài khóa 2017-2018 sau khi hoạt động này bị đình chỉ trong tài khóa 2016-2017.
Việc khai thác gỗ đã buộc phải tạm dừng lại trong năm nay khi tình trạng phá rừng từ những năm trước đã trở nên quá mức. Bộ Tài nguyên và Bảo tồn Môi trường nước này cho biết Bộ sẽ nỗ lực thực hiện tái trồng rừng và bảo tồn rừng lâu dài trên toàn quốc.
Trong tháng Bảy, cơ quan kiểm lâm Myanmar đã công bố đình chỉ việc khai thác gỗ dọc theo dãy núi Bago Yoma ở trung tâm đất nước. Thống kê cho thấy độ che phủ rừng của Myanmar đã bị giảm xuống 45% vào năm 2015 so với mức trên 57% của năm 1990.
Myanmar là một trong những quốc gia giàu tài nguyên nhất trong khu vực Đông Nam Á. (Bnews 14/9) đầu trang(
Rừng Amazon chiếm một nửa số rừng nhiệt đới còn lại trên Trái Đất. Khu rừng khổng lồ này biến mất sẽ gây thảm họa cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Rừng Amazon có diện tích khoảng 56,7 triệu ha, trải rộng qua chín quốc gia Nam Mỹ. Con sông Amazon hùng vĩ chảy xuyên qua trung tâm khu rừng, đổ 14,2 tỷ mét khối nước vào Đại Tây Dương mỗi ngày.
Các cánh rừng nhiệt đới đã xuất hiện ở khu vực này từ hơn 10 triệu năm trước. Ngày nay, rừng Amazon bao gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau, là nhà của khoảng 10% số loài động vật trên hành tinh.
Rừng Amazon đang bị tàn phá mỗi ngày. Tốc độ chặt phá rừng trung bình hàng năm từ 2000 tới 2005 (22.392 km²/năm) cao hơn 18% so với 5 năm trước đó (19.018 km²/năm).
Khoảng 17% diện tích rừng đã mất trong vòng 50 năm trở lại đây, chủ yếu do biến đổi đất rừng thành bãi chăn thả gia súc. Với tốc độ hiện tại, Rừng Amazon có thể sẽ biến mất hoàn toàn chỉ sau vài thập niên nữa.
Rừng góp phần quan trọng vào vòng tuần hoàn nước. Hơi nước giải phóng từ lá cây, bốc lên khí quyển rồi tạo thành mây và gây mưa.
Nếu thảm thực vật bị phá hủy, nghĩa là khu vực xung quanh rừng mưa Amazon, mà hoạt động kinh tế ở đây phụ thuộc 70% vào nguồn nước từ rừng Amazon, sẽ bị khô hạn.
Năm 2005, một số phần của lưu vực Amazon đã trải qua thời kỳ khô hạn tệ hại nhất trong vòng 100 năm. Theo WWF, sự kết hợp của biến đổi khí hậu và chặt phá rừng làm tăng hiệu ứng khô đi của các cây đã chết và làm tăng các vụ cháy rừng.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Princeton cũng phát hiện ra sự thu nhỏ diện tích rừng nhiệt đới, khiến lượng mưa giảm đáng kể ở ven biển Tây Bắc của Bắc Mỹ, và tuyết rơi ít hơn ở vùng núi Sierra Nevada.
Điều này đồng nghĩa với việc giảm lượng nước cho hoạt động sinh hoạt và nông nghiệp ở các khu vực này.
Rừng Amazon là "lá phổi xanh" của Trái Đất. Rừng mưa biến mất sẽ làm tăng lượng khí cacbonic thải ra khí quyển, sẽ có ít khí oxi được tạo ra hơn. Ít cây hơn đồng nghĩa với sự ấm lên toàn cầu diễn ra nhanh chóng hơn.
Cùng với sự giải phóng cacbon, các nhà môi trường e ngại về sự mất đi tính đa dạng sinh học từ việc phá hủy rừng. Rừng Amazon là khu dự trữ sinh quyển lớn nhất của loài người.
Gần đây, Tạp chí Báo cáo khoa học của Mỹ cho biết phải cần tới hơn 300 năm nữa mới có thể thống kê và kiểm chứng đầy đủ và chính xác toàn bộ các loài thực vật trong rừng Amazon.
Nếu rừng Amazon biến mất, kéo theo sự diệt chủng của rất nhiều loài động, thực vật. Điều này sẽ làm thế giới mất đi nguồn gien quan trọng, tác động mạnh mẽ đến chuỗi thức ăn, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực thế giới.
Chưa kể đến sự tàn phá rừng làm thu hẹp địa bàn sinh sống của các cộng đồng người bản xứ trong khu vực rừng Amazon.
Sự biến mất của các tộc người này làm giảm sự đa dạng văn hóa, một phần lịch sử quan trọng của nhân loại.
Tác động môi trường chưa là hết, nếu rừng nhiệt đới biến mất sẽ lập tức ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Ví dụ, rừng Amazon hiện đang cung cấp 25% loại thực vật dùng trong y học hiện đại. (Trí Thức Trẻ/ Soha News 12/9) đầu trang(./.