Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 29 tháng 08 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Từ tháng 8-2013 đến nay, thực hiện mô hình phối hợp, công tác quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng khu vực giáp ranh giữa 5 tỉnh, thành phố: Hà Nội - Thái Nguyên - Vĩnh Phúc - Hòa Bình - Hà Nam có những chuyển biến tích cực.
Tình trạng phá rừng được ngăn chặn kịp thời, số vụ cháy và thiệt hại do cháy rừng gây ra giảm nhiều so với những năm trước...
Theo ông Nguyễn Văn Thành, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Sóc Sơn, trên địa bàn huyện chỉ có xã Bắc Sơn và Minh Trí có rừng giáp ranh. Trước mùa khô năm 2013, ở những khu vục này, tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng diễn ra rất phức tạp, thậm chí còn xảy ra tranh chấp đất rừng giữa các địa phương.
Chỉ tính từ năm 2009 đến năm 2012, khu vực rừng giáp ranh giữa xã Minh Trí (Sóc Sơn) và Ngọc Thanh (Phúc Yên) đã xảy ra 5 vụ cháy thiêu rụi hơn 64ha rừng phòng hộ của huyện Sóc Sơn và hàng chục héc ta rừng của tỉnh bạn.
Theo nhận định của cơ quan chức năng nguyên nhân sâu xa là giữa xã Minh Trí và xã Ngọc Thanh xảy ra tranh chấp diện tích rừng nhiều năm chưa giải quyết dứt điểm dẫn đến chính quyền và nhân dân hai bên không có sự phối hợp, chia sẻ thông tin trong công tác bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR). Ngoài ra, các tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên chủ yếu trồng rừng sản xuất, khi đốt thực bì để cháy lan sang rừng phòng hộ của Hà Nội...
Để khắc phục những hạn chế đó, tháng 8-2013 Chi cục Kiểm lâm 5 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam và Hòa Bình đã tổ chức hội nghị triển khai công tác phối hợp quản lý bảo vệ rừng và PCCCR khu vục giáp ranh. Theo ông Lê Quang Tiến, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Hà Nội, điểm quan trọng nhất xác định được là các địa phương giáp ranh thống nhất được nội dung công tác bảo vệ rừng, quản lý lâm sản và PCCCR.
Chi cục Kiểm lâm 5 tỉnh, thành phố đã thưòng xuyên chỉ đạo các phòng nghiệp vụ, Đội Kiểm lâm cơ động và PCCCR, các hạt kiểm lâm tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện chế độ trao đổi thông tin cho nhau kịp thời về tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng và cảnh báo cháy rừng. Hằng năm, các tỉnh, thành phố cũng đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cho hàng vạn lượt người dân, cán bộ thôn, xóm, học sinh trong khu vực giáp ranh...
Chi cục Kiểm lâm 5 địa phương cũng tích cực phối hợp, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Từ nguồn túi của các tỉnh bạn, 7 tháng đầu năm 2014, Chi cục Kiểm lâm Hà Nội đã xử lý 59 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, thu nộp ngân sách gần 1,3 tỷ đồng; ngăn chặn được hàng chục vụ buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản và động vật hoang dã trên địa bàn...
Ông Đặng Đình Phúc, Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Hà Nội cho biết, công tác phối hợp quản lý bảo vệ rừng và PCCCR khu vục giáp ranh bước đầu cho hiệu quả tích cực nhưng vướng nhất hiện nay của các địa phương là xác định ranh giới diện tích rừng tại thực địa.
Công tác phối hợp tuần tra bảo vệ rừng và PCCCR cũng gặp rất nhiều khó khăn do phần lớn rừng ở khu vực giáp ranh có địa hình hiểm trở, không có hệ thống đường lâm nghiệp và đường băng cản lửa...
Thời gian tới, ngành kiểm lâm 5 tỉnh, thành phố sẽ triển khai, phối hợp xuống tận thôn, xóm, tổ đội bảo vệ rừng ở các khu giáp ranh; tăng cường trao đổi thông tin giữa các hạt kiểm lâm cùng các hoạt động tuần tra, canh gác chung, bố trí ứng trực 24/24h tại các vùng trọng điểm dễ xảy ra cháy rừng để kịp thời thông tin cảnh báo và phối hợp chữa cháy rừng tốt hơn. (Hà Nội Mới 29/8, tr3) đầu trang(
Thừa lệnh Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, ông Nguyễn Duy Nghị - Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh vừa ký công văn chỉ đạo ngành chức năng và chính quyền địa phương kiểm tra, báo cáo nội dung Báo Hà Tĩnh nêu về tình trạng phá rừng phòng hộ Sông Tiêm.
Công văn nêu rõ: Báo Hà Tĩnh Online ngày 25 và 26/8 đăng loạt bài "Ai tiếp tay cho lâm tặc phá rừng phòng hộ Sông Tiêm?" phản ánh tình trạng chặt phá rừng trái phép xảy ra tại rừng phòng hộ Sông Tiêm.
UBND tỉnh giao Sở NN&PTNT chủ trì, phối hợp với UBND huyện Hương Khê và các cơ quan liên quan kiểm tra, làm rõ nội dung báo nêu; xử lý nghiêm túc các tổ chức, cá nhân vi phạm, báo cáo UBND tỉnh trước ngày 5/9. (Báo Hà Tĩnh 28/8) đầu trang(
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ có diện tích hơn 15.000 ha bao gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt; phục hồi sinh thái; dịch vụ hành chính và vùng đệm trong. Diện tích khu nằm trên địa phận các xã Lạng San, Ân Tình, Lương Thượng, Kim Hỷ, Côn Minh (Na Rì) và Cao Sơn, Vũ Muộn (Bạch Thông).
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ có 798 loài thực vật bậc cao, 65 loài quý hiếm, thuộc 46 họ có giá trị cao được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, như: Nghiến, Trai lý, Đinh, Lát hoa, Du Sam núi đá, Thiết sam giả, Lan kim tuyến… Hệ động vật có 386 loài, đã phát hiện được 56 loài động vật có tên trong sách đỏ Việt Nam.
Sự đa dạng sinh học và nhất là việc nhiều loài gỗ, động vật quý hiếm có giá trị cao đã khiến việc bảo tồn đa dạng sinh học tại đây gặp rất nhiều khó khăn. Trong nhiều năm trở lại đây, tình trạng khai thác, săn bắn trái phép trong khu bảo tồn thường xuyên diễn ra với quy mô nhỏ, lẻ.
Đó là chưa kể việc khai thác vàng trái phép trong vùng lõi đã gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái. Tại các khu rừng đặc dụng, nhóm gỗ quý như nghiến, đinh... đã bị suy giảm nhiều về số lượng; đặc biệt những loài hiếm như thông đá (du vân sam) số lượng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, gỗ đinh thì gần như đã biến mất. Những loài thú lớn như hổ, báo, gấu... đã rất hiếm khi tìm thấy dấu vết.
Để bảo tồn đa dạng sinh học cho khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ nói riêng và toàn tỉnh nói chung, Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị 08 về ngăn chặn, xử lý hoạt động khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép gây hủy hoại môi trường trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Nhờ vậy, tình trạng khai thác, vận chuyển trái phép lâm sản, nhất là gỗ quý hiếm đã tạm lắng. Quy chế về quản lý cưa xăng, cưa máy đã quản lý chặt chẽ loại máy móc thường được sử dụng để chặt hạ gỗ quý này.
Mới đây, UBND tỉnh Bắc Kạn đã phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ giai đoạn 2013 - 2020. Điều này mở ra một lộ trình bảo vệ đa dạng sinh học quy củ và bài bản, chặt chẽ trong thời gian tới. Khu bảo tồn được quy hoạch diện tích, ranh giới các phân khu và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Các chương trình bảo vệ, bảo tồn được lồng ghép gồm bảo vệ rừng; phát triển rừng theo hướng trồng rừng, khoanh nuôi, tái sinh rừng tự nhiên; đào tạo phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn đa dạng sinh học; lập dự án chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Đối với đa dạng sinh học của khu bảo tồn, trong thời gian tới, các ngành chức năng sẽ điều tra chi tiết thành phần loài, đặc điểm phân bố và giá trị bảo tồn của khu hệ động thực vật rừng. Đặc biệt là đánh giá hiện trạng, cấu trúc quần thể, mật độ, trữ lượng, phân bố các loài hươu sạ, voọc đen má trắng, gà lôi trắng, gà tiền mặt vàng, hồng hoàng, du sam đá vôi, lan một lá, bảy lá một hoa.
Cùng với đó là nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuốc; các kiểu thảm thực vật rừng; điều tra cơ bản khu hệ côn trùng và đánh giá mức độ sâu hại gây bệnh trong khu bảo tồn… (Tuổi Trẻ 28/8) đầu trang(
Khu vực đầu nguồn sông Kôn thuộc xã Vĩnh Kim, nơi giáp ranh với huyện An Lão (Bình Định) và Kbang (Gia Lai) vốn tập trung nhiều gỗ quý nhóm I như hương, gõ, cà te.
Sau nhiều năm tấn công vào rừng tự nhiên phía dưới, nay đội quân phá rừng tứ xứ đang ra tay tàn sát nguồn tài nguyên sót lại trên các điểm cao.
Tại Vĩnh Kim, bất chấp việc chính quyền địa phương và cơ quan kiểm lâm tuyên bố tăng cường kiểm soát, dòng gỗ lậu vẫn miệt mài, ngất ngễu trên những chiếc xe máy, thậm chí cả ô tô đổ về xuôi.
Việc mua bán gỗ có thể diễn ra tại cửa rừng, nơi trung chuyển hay trong nhà một số hộ đồng bào dân tộc địa phương. Gỗ “trôi” trên sông, gỗ cõng lặc lè góc rừng, gỗ nghỉ “giải lao” nơi đầu dốc. Gỗ tập kết ban đêm, thậm chí cả ban ngày. Gỗ bán trôi nổi chỉ trên dưới 10 triệu đồng hoặc thấp hơn trên đầu khối danh mộc. (Lao Động 29/8, tr7) đầu trang(
"Gần đây, số lượng người dân thông báo các vi phạm về động vật hoang dã ngày càng tăng. Đây là những tín hiệu đáng mừng vì để bảo vệ được đa dạng sinh học của đất nước cần có người dân tham gia tích cực”, bà Nguyễn Thị Phương Dung, Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) chia sẻ, sau một tháng ENV ra mắt ứng dụng thông báo vi phạm về động vật hoang dã qua điện thoại thông minh.
Bà Nguyễn Thị Phương Dung cho biết, ứng dụng "ENV – SOS Động vật hoang dã” trên điện thoại thông minh có ý tưởng chính là giúp người dân thông báo vi phạm về động vật hoang dã (ĐVHD) một cách dễ dàng, nhanh chóng và chính xác. Chỉ vài phút sử dụng ứng dụng này, người dân đã có thể cập nhật những thông tin chính xác nhất cho các cơ quan chức năng về vi phạm ĐVHD mà họ chứng kiến.
Quy trình rất đơn giản. Khi phát hiện một cá thể vượn, người dân có thể mở ứng dụng, chụp vài tấm ảnh, điền một số thông tin miêu tả vi phạm và nhấn nút "gửi báo cáo”. Toàn bộ thông tin, ảnh và địa điểm nơi vụ việc xảy ra được định vị bằng GPS sẽ ngay lập tức được gửi tới phòng Bảo vệ ĐVHD của ENV. Sau đó, ENV sẽ chuyển giao vụ việc tới các cơ quan chức năng địa phương, giúp các cơ quan chức năng xử lý, phản hồi lại tin báo của người dân một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Cho đến nay, ENV đã tiếp nhận được 7.500 vụ vi phạm, trong đó rất nhiều vi phạm là do người dân thông báo. ENV luôn ưu tiên việc bảo mật thông tin cá nhân của người báo tin lên hàng đầu. Khi tiếp nhận thông báo vi phạm về ĐVHD từ người dân, ENV sẽ kiểm tra độ chính xác của thông tin và chuyển giao cho các cơ quan chức năng chuyên trách như Kiểm lâm, Cảnh sát môi trường, Công an… nhưng ENV không cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng thông tin về người báo tin, chỉ trong một số ít trường hợp rất đặc biệt có sự đồng ý của người báo tin thì ENV mới cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng. ENV chỉ lưu trữ thông tin của người báo tin để có thể phản hồi kết quả cho người báo tin sau khi vụ việc được giải quyết.
Như đã nói, chúng tôi luôn coi trọng việc bảo vệ an toàn đối với người cung cấp thông tin. ENV có các quy định nghiêm ngặt về vấn đề bảo vệ thông tin cho người cung cấp. Nhân viên của ENV tham gia vào xử lý các vụ việc được thông báo đều đã qua một chương trình đào tạo nghiêm ngặt. Chỉ có những người chứng tỏ được là họ nắm rất rõ các nguyên tắc xử lý thông tin, vụ việc mới được chính thức tham gia vào công việc này.
Chính vì vậy, đến nay ENV đã không để trường hợp nào đáng tiếc xảy ra. Và vì sự tin tưởng vào năng lực đó, ENV ngày càng nhận được nhiều thông báo các vi phạm từ người dân. ENV tin tưởng ngày càng có nhiều người dân tham gia tích cực góp sức cùng các cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm ĐVHD.
Phòng Bảo vệ ĐVHD của ENV thành lập từ năm 2005. Với hơn 8 năm kinh nghiệm làm việc trực tiếp với cộng đồng và các cơ quan chức năng để giải quyết các vụ vi phạm về ĐVHD, chúng tôi nhận thấy rất rõ sự chuyển biến tích cực trong ý thức bảo vệ ĐVHD của người dân.
Thời gian đầu khi đường dây nóng 18001522 mới thành lập, chúng tôi tiếp nhận được rất ít cuộc gọi từ người dân. Vài năm trở lại đây, số lượng thông báo các vi phạm ngày càng tăng. Nhiều bạn trẻ còn rất tích cực tham gia vào các hoạt động của mạng lưới tình nguyện viên của ENV, tham gia điều tra, giám sát các vi phạm, tổ chức các chương trình nâng cao nhận thức cho cộng đồng. Đây là những tín hiệu vô cùng đáng mừng, vì chúng ta không thể bảo vệ được đa dạng sinh học của đất nước nếu không có sự tham gia tích cực từ phía người dân.
Hiện tại, các bậc học phổ thông của Việt Nam chưa có môn học chuyên sâu về môi trường và ĐVHD. ENV hi vọng tương lai không xa, môn học này sẽ được chính thức đưa vào giảng dạy tại các bậc học, nuôi dưỡng tình yêu thiên nhiên, môi trường và các loài ĐVHD của các em học sinh, sinh viên. Đặc biệt nhà trường nên có các buổi ngoại khóa và hoạt động thực tiễn để học sinh có thể tham gia bảo vệ thiên nhiên, môi trường và ĐVHD.
Một thực tại lớn là lực lượng kiểm lâm còn quá mỏng, địa bàn quản lý lại quá rộng. Bởi vậy, chính quyền địa phương, công an và kiểm lâm cần phối hợp truy quét các điểm nóng và xử lý nghiêm các vụ vi phạm về ĐVHD. Các cơ quan bảo vệ pháp luật ở các địa phương cũng cần điều tra, đưa ra truy tố, xét xử nghiêm các vụ vi phạm về ĐVHD để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm.
Điều quan trọng nhất là làm thế nào để  truyền cảm hứng cho người dân để mỗi người dân Việt Nam hiểu và cảm nhận được rằng nếu thiên nhiên bị tàn phá, các loài ĐVHD bị tàn phá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của họ. Chúng ta cần nâng cao tinh thần, trách nhiệm để mỗi người dân nhận thấy việc bảo vệ ĐVHD, thiên nhiên, môi trường là trách nhiệm của chính mình chứ không chỉ của Kiểm lâm hay Cảnh sát môi trường. Điều đầu tiên mà mỗi người có thể làm là không tiêu thụ ĐVHD và khuyến khích những người thân, bạn bè của mình cùng hành động. (Đại Đoàn Kết 29/8) đầu trang(
Một tháng nay, các bãi vàng nằm dọc khu vực miền Trung và Tây Nguyên đang nóng trở lại. Đặc biệt sau khi xuất hiện tin đồn một nhóm làm vàng quê ở xã Hòa Liên (huyện Hòa Vang) đã trúng nguyên một vỉa vàng ròng trong khi đang khai thác vàng trái phép ở bãi vàng Khe Đương.
Lần theo lời đồn có người trúng đậm vàng ở bãi Khe Đương (thuộc xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang), dân làm vàng từ nhiều địa phương không hẹn mà cùng nhau đánh đường tìm về hướng Khe Đương để “đánh cược với trời” và chờ đợi tìm vận may từ trong lòng đất.
Một cán bộ trong Đoàn kiểm tra liên ngành của huyện Hòa Vang cho biết: Không biết thực hư thế nào, nhưng tin đồn nhóm thợ trúng vàng cứ từng ngày được truyền đi trong giới làm vàng mỗi lúc một ly kỳ hơn. Bãi vàng Khe Đương nơi Công ty Trường Sơn (có trụ sở tại Hà Nội) được cấp phép khai thác vàng từ năm 2009 và đã hết giấy phép khai thác hồi đầu năm 2014, suốt một thời gian qua tưởng chừng đã yên ắng, nay sục sôi trở lại.
PV đánh đường tìm đến bãi Khe Đương để tận mục sở thị cảnh đào bới tan hoang ở những cánh rừng thuộc Tiểu khu 27, 29 của vùng rừng Hòa Bắc. Suốt dọc con đường rất nhiều khúc quanh, đá núi ghồ ghề, lởm chởm. Nhiều cành cây bị dân làm vàng chặt phá để sử dụng vào việc dựng lán trại trú thân, thậm chí có những điểm lửa thổi cơm vẫn còn ngùn ngụt cháy…
Khoát một vòng tay về phía cánh rừng, Trung tá Nguyễn Văn Tăng – Phó trưởng Công an huyện Hòa Vang cho biết: “Dân làm vàng có một đặc tính, cứ hễ nghe đồn ở đâu trúng vàng là xúm tụm lại để bới đào, kiếm tìm. Vàng có hay không chưa biết, nhưng tình trạng lộn xộn, gây mất an ninh trật tự ở vùng núi rừng này là điều có thật. Mỗi khi như thế, chúng tôi lại thành lập đoàn liên ngành để đến kiểm tra, đẩy đuổi, tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là khi khuất bóng đoàn kiểm tra thì vàng tặc lại tái diễn sự lộng hành…”.
Ở khu vực bãi vàng Khe Đương này, dân săn vàng chủ yếu tận dụng những hầm vàng do Công ty Trường Sơn khai thác trước đây còn dang dở họ đánh mìn, đào bới rồi sàng đãi hòng tìm chút lộc trời. Nhiều đậu nậu săn vàng cho biết: Vốn liếng đầu tư cho công việc này là không hề nhỏ, có những nhóm đã nhiều tháng qua nhọc công tìm kiếm nhưng vàng đối với họ vẫn chỉ là một giấc mơ xa vời. Nhiều người lỡ phóng lao đành phải theo lao, nhưng cũng không ít người “ngã ngựa” đành phải từ giã rừng xanh, từ giã giấc mơ vàng…
Một nhóm thợ vàng đang làm việc ở bãi Khe Đương cho biết, ở nơi rừng thiêng nước độc này vẫn có quy luật riêng của nó. Tại bãi vàng dù lớn hay bé đều có các cai, còn gọi “đại bàng”. Để tồn tại, các “đại bàng” thường thiết lập một hệ thống “ra đa” cảnh giới. Vì vậy, thông tin từ bãi này, bãi khác, thông tin các đoàn kiểm tra được thường xuyên cập nhật để họ thay đổi phương thức làm ăn và đối phó với chính quyền sở tại…
Nguyễn N., một phu vàng có thâm niên ở bãi vàng Khe Đương kể: Anh cùng những người bạn quê ở huyện Hòa Vang có nhiều năm sống bằng nghề tìm vàng ở đây. Ngày ra đi với thân phận của một kẻ tọ mọ (phu) thì hơn mười năm sau vẫn vậy, có khác chăng là ngày mới vào rừng các anh là những chàng thanh niên lực lưỡng, còn bây giờ là những xác thân cỗi cằn với nhiều thứ bệnh tật trong người.
Vừa nói, anh N. vừa chỉ tay về phía dòng nước ngầu đỏ: “Đời sống ở đây vô cùng khắc nghiệt, suốt ngày phải tiếp xúc với tiếng nổ đến inh tai nhức óc của mìn, rồi bụi đất đá, nguồn nước ô nhiễm. Chưa kể là vì làm vàng theo kiểu bòn mót, tận dụng nên suốt ngày phải chui nhủi trong những hầm vàng rất sâu, có khi đến cả trăm mét trong lòng đất, ẩm thấp, ngột ngạt, thiếu ánh sáng và không khí. Cũng vì vậy mà đã có không ít những phu vàng xấu số đã mãi mãi bỏ mạng lại nơi này”.
Trao đổi với báo giới, ông Nguyễn Trí - Giám đốc Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên sông Thanh, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm rừng đặc dụng sông Thanh cho biết: Địa bàn xã Đắc Pring có 28 nghìn héc-ta đất lâm nghiệp, trong đó 23 nghìn héc-ta có rừng với 7 tiểu khu thuộc vùng lõi, Khu Bảo tồn thiên nhiên sông Thanh. Năm 2013, Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên sông Thanh và Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng sông Thanh xử lý tình hình khai thác vàng trái phép ở đây không nổi nên đã cầu cứu tỉnh.
Trong các năm 2012, 2013 và những tháng đầu năm 2014, Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh đã cùng với Hạt kiểm lâm tổ chức hàng chục đợt truy quét, đập phá 19 máy xúc, nhiều máy nổ, tháo dỡ nhiều lán trại của bon khai thác vàng trái phép. Tuy nhiên, cứ sau những lần truy quét ấy thì vàng tặc vẫn quay trở lại để phá rừng…
Không riêng gì ở huyện Nam Giang. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay đa số các huyện miền núi đều bị vàng tặc tấn công một cách không thương tiếc. Nhiều cánh rừng ở huyện Đông Giang, Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My hiện nay đều đang chịu sự tàn phá của những đội quân khai thác vàng trái phép.
Hàng ngày, người dân sinh sống gần với các bãi vàng vẫn chịu cảnh điếc tai nhức óc vì vàng tặc nổ mìn để phá núi, đời sống thường nhật của họ cũng bị ảnh hưởng trầm trọng bởi nguồn nước bị ô nhiễm nặng, đó là chưa kể đến hiện tượng lũ quét, lũ ông đang như chực chờ đổ ụp lên cuộc sống của họ mỗi khi mùa mưa lũ đang đến gần.
Những ngày đầu tháng 8 này, khi Tập đoàn Besra “mẹ” của Công ty vàng Bồng Miêu và Công ty vàng Phước Sơn tuyên bố đóng cửa và để lại những khoản nợ kếch sù, thì chỉ ít ngày sau, những công nhân từng làm việc tại đây đã rủ nhau đi vào rừng để làm…”vàng tặc”. Để tìm kiếm vàng sa khoáng trong lòng đất đổi lấy miếng cơm manh áo mỗi ngày, những “vàng tặc” vốn dĩ trước đó là công nhân hiền lành chất phác đã không ngần ngại đào bới, chặt phá cây rừng, gây nên cảnh tan hoang, đổ nát…
Anh Nguyễn Văn T., trước đây là công nhân của Công ty vàng Bông Miêu cho biết: Không phải những người đi khai thác vàng sa khoáng trái phép trong rừng không biết đến hậu quả khôn lường của việc chặt phá cây rừng và đào xới đất đá. Họ cũng biết sử dụng hóa chất, thậm chí là chất độc Cyanua để làm vàng là một tội ác với những người dân đang sinh sống dọc những dòng sông và vùng hạ lưu…(Đời Sống & Pháp Luật 28/8) đầu trang(
Những cánh rừng phòng hộ đang xanh tươi bỗng dưng bị phá đi để triển khai một dự án trồng rừng mới. Câu chuyện này đang xảy ra trên địa bàn huyện Sông Hinh đã khiến người dân vô cùng bức xúc.
Với những gì đã và đang diễn ra ở đây thì cũng cần phải nhìn lại cách quản lý rừng cũng như cách  triển khai các dự án trồng rừng kinh tế hiện nay. Cây to, câu nhỏ và ở đây không hề có có cây bụi. Vậy mà cả một cánh rừng phòng hộ nằm trên địa bàn xã sông Hinh, huyện Sông Hinh bị cưa bỏ, san bằng.
1 tuần này tiếng cưa gầm rú cả một khu vực rộng lớn nằm ở tiểu khu 301 thuộc huyện Sông Hinh. Những người được thuê phá rừng cho biết,  diện tích mà họ đã san bằng ít nhất đã 3ha và sẽ có thêm 7ha nữa sẽ được chặt và cưa tiếp.
Ở một tiểu khu khác thuộc khu vực Suối Dứa của xã Sông Hinh. Cũng nằm trong khu vực rừng phòng hộ, diện tích  rừng bị phá đi còn nhiều hơn và lượng cây to ngã xuống cũng  không hề ít.
Cả một cách rừng nằm trên địa bàn xã sông Hinh đã bị tàn phá. Không chỉ cây nhỏ mà hàng loạt cây to như thế này đã bị triệt hạ không thương tiếc. Điều khó hiểu ở đây là vì sao chúng bị  phá bỏ như vậy.
Khu vực hiện đang xảy ra phá rừng theo tìm hiểu của phóng viên thời sự: Đây là nơi để triển khai dự án trồng rừng mới với diện tích 25ha. Trên giấy tờ đã được cơ quan chức năng thẩm định và phê duyệt  thì diện tích này chỉ là đất trống, có tranh, nứa và  còn 1 vài cây to sót lại nhưng với hiện trường này thì không thể gọi là đất trống.
Trên một ngọn núi cao, thực bì đã dọn sẵn. Hàng loại cây rừng này sẽ được cưa đi để thực hiện dự án được cho là để trồng rừng mới. Rồi sẽ phải mất từ 10 đến 20 năm sau, dự án trồng rừng mới được triển khai trên khu vực rừng đã bị phá này chắc chắn cũng không thể bằng được như khu rừng đang chuẩn bị cưa tiếp như thế này.
Cũng cần nói thêm những khu vực bị phá để triển khai dự án trồng rừng mới này, hàng ngày vẫn có cán bộ lâm nghiệm giám sát, kiểm tra. Vậy nhưng họ vẫn để cho rừng ngã xuống. (VTV9 27/8) đầu trang(
27-8, Hạt Kiểm lâm H. Hiệp Đức phát hiện ô-tô tải BKS 92C-04719 do Lê Thanh Từ (trú TT Đông Phú, H. Quế Sơn) điều khiển lưu thông trên QL14E chở gỗ trái phép được ngụy trang dưới lớp củi.
Qua kiểm tra, lực lượng chức năng phát hiện trên xe chở 35 hộp gỗ Chò nâu (8,106m3). Người điều khiển phương tiện không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc số lâm sản vận chuyển. Hạt Kiểm lâm Hiệp Đức đã lập biên bản tạm giữ phương tiện và tang vật để điều tra xử lý. (Công An Đà Nẵng 29/8) đầu trang(
Theo Ban Giám đốc Vườn Quốc gia Tràm Chim, từ tháng 9 sẽ triển khai chương trình du lịch trải nghiệm mùa nước nổi - 2014.
Theo đó, du khách sẽ được cùng nông dân thực hiện công việc sinh kế mùa lũ của người dân vùng lũ: Săn chuột đồng; đập lúa trời; thả lưới, trúm, lờ - lợp bắt cá...; ngắm chim sinh sản từ một đài quan sát dã chiến.
Đơn vị cũng vừa thả khoảng 6.000 con cá dầy - một loài thủy sản bản địa quý hiếm - vào phân khu A1 nhằm bảo tồn - phát triển đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường... Đây là nguồn cá do Vườn Quốc gia Tràm Chim ương nuôi, được 3 tháng tuổi. (Lao Động 29/8, tr3) đầu trang(
Thông tin nhanh qua đường dây nóng trên báo Nhân Dân cho biết: Khu bảo tồn thiên nhiên An Toàn (An Lão) đang bị khai thác gỗ quý và săn bắn trái phép. (Nhân Dân 29/8, tr7) đầu trang(
Sín Thầu (huyện Mường Nhé) là xã biên giới, có diện tích rừng lớn, chủ yếu thuộc khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé với hệ thực vật phong phú và có nhiều loại động vật quý hiếm. Vì vậy, quản lý, bảo vệ rừng là nhiệm vụ được cấp ủy Đảng, chính quyền xã Sín Thầu quan tâm chỉ đạo sát sao.
Xã Sín Thầu có 8.920ha đất có rừng. Trong đó: 6.011ha rừng đặc dụng; 714,94ha rừng phòng hộ và 2.114,4ha rừng sản xuất; tỷ lệ che phủ rừng đạt 53,83%. Ông Pờ Dần Sinh, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND xã Sín Thầu cho biết: Xác định quản lý, bảo vệ rừng là một nhiệm vụ quan trọng, nhất là đối với những xã biên giới, những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục người dân những quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng được cấp ủy, chính quyền xã chú trọng thực hiện. UBND xã Sín Thầu luôn phối hợp chặt chẽ với Đồn Biên phòng A Pa Chải xây dựng các phương án cụ thể để quản lý, bảo vệ và phòng cháy chữa cháy rừng.
Trong 6 tháng đầu năm, chính quyền xã đã chỉ đạo các tổ chức đoàn thể xã, bản tổ chức 7 buổi tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cho hơn 1.000 lượt người. Cùng với đó, lực lượng dân quân phối hợp với kiểm lâm địa bàn và bộ đội biên phòng Đồn A Pa Chải đã tổ chức 53 lượt đi tuần tra, kiểm soát rừng với 218 lượt người tham gia.
Xã Sín Thầu 100% dân tộc Hà Nhì, đã định canh định cư từ lâu đời và cũng là xã duy nhất huyện không có dân di cư tự do vào địa bàn, điều này góp phần quan trọng trong việc giữ rừng không bị tàn phá bởi nạn di cư tự do. Có được kết quả này, một mặt là do chính quyền xã Sín Thầu đã có thái độ cương quyết và triển khai nhiều biện pháp cứng rắn để ngăn chặn, một mặt do người dân Hà Nhì ở đây có tinh thần đoàn kết, quyết tâm không cho những đối tượng di cư vào địa bàn.
Ở Sín Thầu, hầu hết các hộ đều tích trữ củi khô để sử dụng vào mùa đông nhưng đáng chú ý là củi mà người dân tích trữ không có một thanh củi chẻ nào. Bởi vì, người dân Sín Thầu không chặt cây gỗ to để làm củi mà chỉ vào rừng tỉa cành, chặt những cây gỗ đã chết mang về sử dụng.
Mặt khác, xã Sín thầu có diện tích sản xuất nông nghiệp khá lớn với 378,2ha (trong đó: 131ha lúa ruộng một vụ). Năm 2013, UBND xã phối hợp với Đồn Biên phòng A Pa Chải sản xuất thí điểm vụ chiêm xuân với diện tích 3ha cho năng suất cao. Với diện tích đất sản xuất như vậy đã đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn nên người dân chỉ tập trung sản xuất, phát triển kinh tế, từ bỏ ý nghĩ phá rừng để tìm đất sản xuất mới.
Ngoài việc chăm sóc, bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, UBND xã Sín Thầu còn tham mưu với UBND huyện Mường Nhé cấp cây giống để trồng thêm rừng, phủ xanh đất trống. Trong 3 năm (2010 - 2013), người dân xã Sín Thầu đã trồng được 49ha rừng thông, phủ xanh các bãi chăn thả gia súc không còn được sử dụng.
Tuy nhiên, năm 2013, do người dân đốt nương để chuẩn bị vào vụ sản xuất mới đã bất cẩn để ngọn lửa cháy lan rộng không kiểm soát được nên đã gây cháy rừng, thiệt hại 44ha rừng (33ha rừng trồng mới, 7ha rừng phòng hộ và 4ha rừng sản xuất).
Theo Chủ tịch UBND xã Sín Thầu, Pờ Dần Sinh: Hiện nay, chính quyền và nhân dân xã Sín Thầu đều mong muốn UBND huyện nhanh chóng hoàn chỉnh thủ tục giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cộng đồng 7/7 bản của xã để người dân sớm được hưởng chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. (Báo Điện Biên Phủ 27/8) đầu trang(
27/8, Vườn quốc gia Tràm Chim phối hợp với hội liên hiệp phụ nữ huyện Tam Nông tổ chức tuyên truyền phòng chống cháy rừng và bảo vệ hệ sinh thái vườn quốc gia Tràm Chim cho hơn 70 chị em phụ nữ trên đại bàn xã Phú Đức
Tại đây, chị em phụ nữ được thông tin về công tác phòng chống cháy rừng ở Vườn quốc gia Tràm Chim từ đầu năm đến nay, khuyến cáo chị em không được vào vườn khi thác tài nguyên rừng khi chưa được phép đặc biệt là săn bắt ong lấy mật rất dễ xãy ra cháy.
Ngoài ra, chị em còn được cán bộ Vườn tuyên truyền về tầm quan trọng của tài nguyên rừng, vùng đất ngập nước, bảo vệ động vật hoang dã, không được xâm nhập trái phép và chăn thả gia súc vào Vườn làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái…
Được biết từ đầu năm 2014 đến nay Vườn quốc gia Tràm Chim kết hợp với các ngành đoàn thể huyện Tam Nông đã mở 26 lớp tuyên truyên phòng chống cháy rừng và bảo vệ hệ sinh thái Vườn cho gần 2.000 người dân của 5 xã-thị trấn vùng đệm. (Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Tam Nông 28/8) đầu trang(
7 tháng đầu năm, huyện Bảo Lâm đã phát hiện 142 vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, tăng 8 vụ so với cùng kỳ. Qua điều tra, huyện đã xử lý 33 vụ phá rừng trái phép, 35 vụ khai thác rừng trái phép, mua bán - cất giữ, vận chuyển lâm sản trái phép 50 vụ và vi phạm khác là 24 vụ.
Đến nay, huyện đã xử lý 134 vụ vi phạm, thu nộp ngân sách nhà nước trên 3 tỷ đồng. Hiện, UBND huyện Bảo Lâm và các ngành hữu quan đang tiếp tục điều tra xử lý 8 vụ còn lại do chưa phát hiện được đối tượng vi phạm. (Đài PTTH Lâm Đồng 27/8) đầu trang(
Mới đây, UBND TP. Quy Nhơn đã ban hành Văn bản số 1942/UBND-KT về việc tăng cường các biện pháp cấp bách trong bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (BVR và PCCCR).
Theo đó, Chủ tịch UBND thành phố yêu cầu Chủ tịch UBND các phường, xã có rừng chỉ đạo kiểm lâm địa bàn phối hợp với các ban, ngành liên quan tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân ý thức sử dụng lửa an toàn trong rừng và ven rừng.
Đối với các khu rừng gần khu vực dân cư tại các phường, xã: Ghềnh Ráng, Quang Trung, Ngô Mây, Lê Hồng Phong, Đống Đa, Bùi Thị Xuân, Nhơn Lý, Nhơn Hải, Phước Mỹ, Trần Quang Diệu, Nhơn Phú… thường xuyên nhắc nhở người dân ý thức trong việc thu gom đốt rác, đốt vàng mã, đốt ong phòng tránh cháy lan vào rừng.
Các chủ rừng tăng cường công tác tuần tra, canh gác lửa rừng, vào thời điểm nắng nóng cao điểm cấp dự báo cháy rừng ở cấp IV, V – tức cấp nguy hiểm và cực kỳ nguy hiểm, phải cử người trực canh gác lửa rừng 24/24 giờ trong ngày, để kịp thời phát hiện lửa rừng và huy động lực lượng chữa cháy nhanh chóng hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về rừng.
Khi phát hiện cháy rừng, chủ rừng phải huy động lực lượng, phương tiện chữa cháy kịp thời, nếu vượt khả năng chữa cháy phải nhanh chóng báo cáo lên Ban chỉ huy các vấn đề cấp bách trong BVR và PCCCR các cấp để huy động lực lượng, phương tiện hỗ trợ chữa cháy. Chủ rừng phải tự bảo đảm kinh phí đầu tư cho các hoạt động PCCCR như: mua sắm các phương tiện, dụng cụ, xây dựng các công trình, biển báo PCCCR và chi hỗ trợ cho lực lượng tham gia chữa cháy rừng.
Hạt Kiểm lâm liên huyện Tuy Phước – Quy Nhơn chỉ đạo các bộ phận chuyên môn, kiểm lâm địa bàn hướng dẫn, tuyên truyền người dân xử lý thực bì để trồng rừng và xử lý thực bì trước, trong, sau khai thác phải tuân thủ quy trình hướng dẫn của Sở NN&PTNT tỉnh và đảm bảo công tác PCCCR.
Sau khi dập tắt đám cháy, phối hợp với chủ rừng, chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan tổ chức kiểm tra xác định thiệt hại, nguyên nhân cháy, đối tượng gây ra cháy để tham mưu cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo đúng quy định pháp luật. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị liên quan triển khai thực hiện đảm bảo tốt công tác PCCCR trên địa bàn TP. Quy Nhơn.
Khi xảy ra cháy rừng, Ban chỉ huy các vấn đề cấp bách trong BVR và PCCCR phường, xã phải báo cáo nhanh bằng điện thoại lên cơ quan thường trực Ban chỉ huy các vấn đề cấp bách trong BVR và PCCCR thành phố về thời gian, địa diểm cháy, loại rừng, mức độ cháy và lực lượng huy động tham gia chữa cháy để theo dõi, chỉ đạo và tổng hợp tình hình kịp thời báo cáo lên cấp trên. (Binhdinh.gov.vn 25/8) đầu trang(
Vườn Quốc gia (VQG) Tam Đảo có diện tích 34.995 ha, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, với nhiều đơn vị hành chính (23 xã của 6 huyện, thị xã thuộc 3 tỉnh), địa hình phức tạp, núi cao, xa và dốc, nếu xảy ra cháy rừng thì rất khó khăn trong việc cứu chữa.
Theo thống kê, Vườn Quốc gia Tam Đảo hiện có tổng số trên 5.400 ha diện tích rừng dễ cháy, tập trung ở các xã Minh Quang, Đạo Trù, Hồ Sơn, Đại Đình của tỉnh Vĩnh Phúc; Quân Chu, La Bằng, Hoàng Nông của tỉnh Thái Nguyên; Hợp Hòa của tỉnh Tuyên Quang.
Chính vì vậy, Vườn Quốc gia Tam Đảo được xác định là một trong 6 trọng điểm cháy rừng quốc gia. Đây là những thách thức đối với lãnh đạo VQG, ngành kiểm lâm địa phương và cán bộ, nhân viên đang công tác tại VQG trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Do đó, công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) được VQG đặc biệt chú trọng ở tất cả các hoạt động.
Nguyên nhân gây ra cháy rừng ở VQG Tam Đảo được xác định chủ yếu là do con người gây ra trong quá trình sử dụng lửa cố ý hoặc vô ý gây cháy rừng. Biện pháp phòng cháy quan trọng và hiệu quả nhất được Vườn triển khai đầu tiên là tuyên truyền, tập huấn giáo dục pháp luật về bảo vệ rừng; nhắc nhở người dân ra vào rừng về sử dụng lửa an toàn trong rừng và ven rừng.
Kẻ vẽ lại các bảng, biển, pano, áp phích đã bị hư hỏng, hợp đồng với Ban văn hóa xã, Đài truyền thanh tại địa phương và tuyên truyền lưu động tại địa bàn xung quanh VQG Tam Đảo; Tổ chức tốt việc họp thôn, bản liền rừng để thực hiện bản cam kết bảo vệ rừng và đánh giá kết quả bảo vệ rừng của từng thôn, bản.
Hàng năm, Vườn tiến hành tu sửa hệ thống công trình phòng cháy đã có (đường ranh cản lửa, chòi canh lửa, các bảng, biển tuyên truyền,...) trên lâm phần quản lý đảm bảo hiệu quả cho công tác phòng cháy. Có kế hoạch bổ sung thêm các công trình phòng cháy ở tất cả các khu vực trọng điểm.
Các khu vực rừng trồng đã hết thời kỳ xây dựng cơ bản, nếu xác định là trọng điểm cháy rừng thì có kế hoạch làm đường ranh cản lửa hàng năm, đảm bảo có thể ngăn cách được đám cháy khi có cháy rừng xảy ra hoặc phát dọn thực bì trước mùa khô hanh, phân công trực thường xuyên vào thời kỳ cao điểm để phát hiện và dập tắt đám cháy kịp thời.
Hơn nữa, căn cứ bản tin cấp dự báo cháy rừng trên các phương tiện thông tin đại chúng, dự báo cháy của chi cục Kiểm lâm 3 tỉnh, Cơ quan Kiểm lâm vùng I và căn cứ vào tình hình cụ thể tại mỗi khu vực, vùng trọng điểm, Ban chỉ huy PCCCR VQG Tam Đảo xác định những ngày cao điểm có nhiều khả năng cháy.
Từ đó, chỉ huy, đôn đốc lực lượng cán bộ trong đơn vị tăng cường tuần tra, canh gác ở những khu vực dễ xảy ra cháy rừng đồng thời chuẩn bị tốt những phương án chữa cháy nếu cháy rừng xảy ra. Ở tại địa phương, mỗi xã trong vùng đệm của Vườn đều có Ban chỉ huy PCCCR và có các tổ, đội xung kích chữa cháy rừng tại mỗi thôn, bản.
Trong những ngày có cảnh báo, các tổ đội xung kích càng phải bám chắc mọi hoạt động của địa bàn mình hơn để kịp thời có thông tin cũng như cứu cháy tại chỗ. Đến nay VQG Tam Đảo đã xây dựng được 16 chòi canh lửa tại các khu rừng, dễ cháy để theo dõi, phát hiện lửa rừng và tổ chức chữa cháy một cách nhanh nhất.
Mỗi năm tu sửa và làm mới được 40 km đường băng cản lửa. Tất cả các thôn liền rừng đều thành lập tổ xung kích phòng cháy, chữa cháy rừng. Ban Chỉ đạo PCCC rừng của đơn vị đã tổ chức nhiều đợt diễn tập cứu chữa cháy rừng theo phương án đã được phê duyệt. Tất cả các trạm kiểm lâm đều có phương án cứu, chữa cháy rừng để hướng dẫn và đưa đường cho người đi chữa cháy rừng đến đúng địa điểm một cách nhanh nhất khi xảy ra cháy rừng.
Do làm tốt công tác PCCC ngay từ ban đầu nên trong những năm qua, mặc dù được coi là 1 trong 6 trọng điểm cháy rừng của cả nước nhưng VQG không bị thiệt hại nhiều do “bà hỏa”. Qua thống kê cho thấy trong 5 năm trở lại đây, rừng tự nhiên của Vườn Quốc gia Tam Đảo không xảy ra cháy lớn.
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn VQG đã xảy ra 24 vụ cháy rừng với diện tích trên 33ha nhưng chủ yếu là những vụ cháy nhỏ, dập tắt ngay tại chỗ và đối tượng rừng bị cháy là rừng thông già (cháy dưới tán rừng), đồi cỏ, rừng tái sinh nên mức độ thiệt hại không đáng kể.
Hiện nay, để phục vụ công tác PCCCR mùa khô năm 2013 - 2014, Vườn Quốc gia Tam Đảo đã có kế hoạch xây dựng một số công trình mới (25km đường băng cản lửa), duy tu bảo dưỡng các công trình đã có để kịp thời ứng phó với tình huống cháy xảy ra. (Báo Vĩnh Phúc 26/8) đầu trang(
Ban quản lý khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai (BQL KDTSQĐN) đang soạn thảo, sưu tầm tài liệu, biên tập nội dung cuốn sách “KDTSQĐN – nơi gặp gỡ giữa con người và thiên nhiên”.
Đặc biệt, Ban đề xuất 12 dự án nhằm quản lý, bảo vệ, khôi phục, bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học của khu. Trong thời gian tới, BQL sẽ tập trung xây dựng đề án bảo tồn, phát triển KDTSQĐN giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030.
Đề án gồm các chương trình, hoạt động như: Quản lý bảo vệ vùng lõi, vùng đệm; thu thập và nắm bắt thông tin vùng chuyển tiếp; truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng; xây dựng thương hiệu các sản phẩm đặc trưng của địa phương; hợp tác đầu tư, phát triển du lịch sinh thái – văn hóa – lịch sử; vận động xây dựng quỹ để tạo nguồn lực cho các hoạt động của Khu.
Theo báo cáo tại cuộc họp chiều 26/8, trong 8 tháng qua, BQL KDTSQĐN đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền, quảng bá Khu; quản lý bảo vệ rừng và thực hiện các chương trình, dự án được tài trợ.
Cụ thể là xuất bản các sổ tay giới thiệu khu dự trữ sinh quyển, thiết kế bút bi, tờ rơi, vở học sinh, lịch, huy hiệu có logo để tuyên truyền bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học; tổ chức 4 hội nghị, diễn đàn giới thiệu, tuyên truyền; tổ chức mit- tinh hưởng ứng ngày đa dạng sinh học, ngày môi trường thế giới… (Đài PTTH Đồng Nai 27/8) đầu trang(
Ông Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết: Ổ dịch Ebola vừa phát hiện ở Congo không phải do lây truyền từ 4 quốc gia ở Tây Phi đang có dịch, mà là ổ dịch mới hoàn toàn.
Kết quả xét nghiệm và điều tra dịch tễ cho thấy, trường hợp mắc đầu tiên tại nước này có liên quan đến việc lây truyền bệnh từ động vật sang người trong quá trình chế biến giết thịt thú rừng, sau đó từ người này lây tiếp sang những người trong gia đình và hàng xóm.
Để ngăn ngừa dịch nguy hiểm này xâm nhập vào nước ta, cần có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Ngoài việc kiểm soát tốt hành khách nhập cảnh, cần tăng cường thực hiện các biện pháp kiểm soát tình trạng nhập lậu động vật vào Việt Nam. Cho đến nay, nước ta chưa cho phép nhập động vật từ Châu Phi. (Hà Nội Mới 29/8; Người Lao Động 29/8, tr13) đầu trang(
Lúc trước, PV thường nghĩ chắc chỉ có ở Việt Nam hoặc vài nước châu Á mới có cảnh thịt thú rừng treo lủng lẳng ở cửa hàng trên những con đường chuyên buôn bán thực phẩm cấm này.
Nhưng hôm rồi được một anh bạn đưa đến khu Bronx ở New York (Mỹ), những suy nghĩ trước đây thay đổi hẳn. Cách sân vận động Yankee hơn 4 cây số, la liệt các cửa hàng bán thịt mà anh bạn tiết lộ là có thịt thú rừng. Các cửa hàng ở đây được trang trí bằng nhiều loại đèn đủ màu sắc.
Một bà chủ hàng người da màu chào đón PV bằng nụ cười rạng rỡ. Nhưng khi hỏi về thịt thú rừng, bà chủ đổi thái độ, xua tay và cho biết bà không biết và không bán thịt thú rừng. Ra khỏi cửa hàng, anh bạn đoán chắc bà chủ không an tâm, sợ là người của cơ quan chức năng đến bắt việc bán thịt cấm.
Bỗng một người đàn ông da màu cho biết, ông ta có thể bán bất cứ thứ thịt rừng gì PV cần. Quả thật, cửa hàng của người đàn ông gốc Ghana này không thiếu thịt thú rừng nào, từ thịt khỉ, heo rừng cho đến nhiều loại thịt động vật mà lần đầu tiên được nghe thấy. Tuy nhiên, thịt không bày bán công khai mà giấu trong những thùng được ngụy trang kỹ, và giá không hề mềm chút nào: 100 USD/2kg thịt heo rừng.
Qua câu chuyện với ông chủ cửa hàng này, được biết nguồn cung thịt thú rừng rất đa dạng, đến từ nhiều quốc gia như Guinea, Liberia, Nigeria, Sierra Leone… PV bất chợt giật mình khi nghe đến các địa danh trên bởi đây là những nơi mà dịch bệnh Ebola đang hoành hành.
Theo PV biết, virus Ebola được cho có nguồn gốc từ loài dơi ăn quả. Động vật linh trưởng và nhiều loài khác ăn phải những quả loài dơi này ăn dở sẽ bị nhiễm virus Ebola do trái cây đó có nước dãi của loài dơi. Vậy thì lấy gì đảm bảo thứ thịt rừng chuẩn bị mua không phải là từ những con vật có mang trong mình virus Ebola chết người?
Cơ quan y tế của Mỹ từng cho biết trong một lần xét nghiệm thịt thú rừng nhập lậu vào Mỹ bao gồm khỉ đầu chó, tinh tinh, lợn rừng năm 2012 đã phát hiện chúng đều có vi sinh vật gây hại cho sức khỏe con người.
Ở New York, có gần 77.000 người đến từ châu Phi. Thịt thú rừng là món ăn truyền thống của họ. Số người châu Phi nhập cư vào Mỹ ngày một tăng. Rồi những thế hệ người Mỹ gốc Phi sinh trưởng trên đất Mỹ lớn dần theo thời gian sẽ là những đối tượng tiêu thụ thịt thú rừng mạnh mẽ.
Chẳng thế mà dù đây là mặt hàng bị cấm kinh doanh, bị xử phạt nặng nếu bị bắt, các cửa hàng bán thịt thú rừng vẫn mọc lên như nấm. PV hỏi ông chủ “không sợ bị cơ quan chức năng bắt hay sao”, ông chỉ cười và nói rằng “tôi phải kiếm tiền nuôi gia đình”.
Đúng là không trách được nhưng họ có biết được rằng chính những mặt hàng họ đang kinh doanh này có thể là ổ dịch bùng phát các loại bệnh, trong đó có Ebola, ngay trong nước Mỹ. Tự nhiên nghĩ làm gì đến cái dịch bệnh Ebola để giờ đối diện với món ngon thơm phức trước mặt mà ngán. (Sài Gòn Giải Phóng 28/8, tr8) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Sở Tài nguyên và Môi trường vừa tổ chức hội nghị tập huấn việc lập kế hoạch sử dụng đất năm 2015 cấp huyện; danh mục công trình, dự án chuyển mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cho cán bộ làm công tác tài nguyên, môi trường 30 quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố.
Theo đó, trên cơ sở Luật Đất đai năm 2013, nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của bộ, ngành liên quan và hướng dẫn kế hoạch sử dụng đất năm 2015 cấp huyện, các địa phương có trách nhiệm lập danh mục các công trình, dự án thu hồi đất năm 2015; danh mục, công trình dự án chuyển mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng năm 2015 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường trước ngày 30-9.
Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo UBND thành phố trình HĐND thành phố thông qua đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất dưới l0ha đất trồng lúa hoặc dưới héc ta đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; báo cáo Bộ Tài nguyên - Môi trưòng và Bộ NN&PTNT trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10ha đất trồng lúa trở lên hoặc từ 20ha đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên... (Hà Nội Mới 29/8, tr3) đầu trang(
Dự án WB 3, vay vốn ủy thác giải ngân qua VBSP, mang lại cơ hội thoát nghèo cho người dân Quảng Nam.
Không chỉ nổi tiếng với công trình thủy điện, Bắc Trà My (Quảng Nam) còn được biết đến là một trong những huyện trồng cây keo hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế cao.
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bắc Trà My, năm 2013 toàn huyện có hơn 1.000 ha rừng tại các xã Trà Đông, Trà Dương, Trà Nú, Trà Kót, Trà Giang, Trà Sơn theo dự án vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) 3, được ủy thác giải ngân qua Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP).
Trong đó, cây keo chiếm diện tích khá lớn. Từ chương trình giải ngân trên của VBSP, hàng trăm hộ dân đã thoát nghèo ngay trên mảnh đất quê hương mình.
Trên chiếc xe Suzuki Vitara quen thuộc của hệ thống VBSP, anh Nguyễn Dũng, Tổ trưởng Tổ Kế hoạch tín dụng VBSP huyện Bắc Trà My đưa PV đến xã Trà Giang, một trong những xã điển hình về trồng cây keo và chăn nuôi hiệu quả. Hai bên đường từ thị trấn huyện đến xã phủ một màu xanh ngắt của rừng keo lai dịu mát, khiến đoạn đường dài chục km như ngắn lại.
Ông Nguyễn Ngọc Bích, Phó chủ tịch UBND xã Trà Giang cho biết, xã có 667 hộ với 2.004 nhân khẩu, trong đó 95% dân số làm nông nghiệp với hai nghề chính là chăn nuôi, trồng rừng. Kể về sự vất vả của người dân Trà Giang, ông Bích chia sẻ: “Xã còn nhiều khó khăn lắm các anh ạ”.
Năm 2003, Trà Giang có tỷ lệ hộ nghèo lên tới 73%, nhưng đến năm 2006 đã không còn thuộc diện địa phương nằm trong Chương trình 135. Năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo của xã còn 47,54%. “Tuy nhiên, vùng đất chúng tôi vẫn luôn cầu mong cho mưa thuận gió hòa, ít bão lũ. Bởi chỉ cần một trận lũ là nỗ lực thoát nghèo lại đi tong”, ông Bích chùng giọng.
Theo chính quyền xã Trà Giang, nguyên nhân dẫn tới đói nghèo một mặt do điều kiện hạ tầng còn kém, dân trí thấp với 6 thôn mùa mưa đi lại khó khăn, hay xảy ra gió lốc. Ngoài ra, thiếu vốn sản xuất cũng là nguyên nhân dễ xảy ra nghèo đói ở Trà Giang.
Hiện nay, VBSP giao dịch tại xã vào ngày 16 hàng tháng và công khai, minh bạch chính sách cho vay vốn. Đồng thời, VBSP cũng tổ chức tập huấn thường xuyên cho 19 tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) nên đa số tổ TK&VV trên địa bàn xã đều đạt loại tốt và khá. Dư nợ của VBSP tại xã Trà Giang đạt gần 30 tỷ đồng với 9 chương trình tín dụng.
Có vốn tín dụng chính sách đời sống người dân ngày càng cải thiện do nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả. Chẳng hạn như gia đình chị Lê Thị Học ở thôn 3, xã Trà Giang, nhờ được vay vốn hộ nghèo và vốn ưu đãi cách đây mấy năm đã trồng được 10 ha keo nguyên liệu giấy. Tới nay, gia đình chị đã có đời sống khấm khá nhờ 40% diện tích keo đã cho thu hoạch.
Cùng xã Trà Giang, hộ ông Triệu Khánh Hòa ở thôn 5 cũng vừa thu hoạch 3 ha keo, thu về khoảng 60 triệu đồng/ha, trong khi 4 ha khác sẽ cho thu hoạch vào những năm tới. Chị Y Nong, dân tộc K’ Dong ở thôn 2 cũng được vay 76 triệu đồng vốn ưu đãi, trong đó riêng vốn trồng rừng là 48 triệu đồng. “Trước đây, cứ 1 ha rừng trồng nhà tôi được vay 10 triệu đồng vốn ưu đãi, năm 2012 nâng lên 15 triệu đồng/ha…”, chị Y Nong cho hay.
Toàn xã Trà Giang hiện có hơn 2.000 ha đất lâm nghiệp, trong đó riêng đất rừng sản xuất đã phủ xanh cây là 850 ha. Tổng vốn WB 3 giải ngân cho xã là 9 tỷ đồng với 197 hộ được vay vốn. Năm 2013, nhờ được vay vốn ưu đãi nên đã có 157 hộ trồng hơn 250 ha rừng kinh tế. “Có vốn ưu đãi nên bà con đã hăng hái trồng rừng. Dù trồng trước hay trồng sau thì chắc chắn đời sống, thu nhập của bà con trong xã sẽ được cải thiện theo hướng bền vững, lâu dài”, ông Nguyễn Ngọc Bích, Phó chủ tịch UBND xã nói.
Vị Phó chủ tịch này cũng đề nghị, do nhiều hộ dân trồng cây keo và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao nên VBSP cần tiếp tục tăng nguồn vốn, nâng mức cho vay bình quân tối đa lên 50 triệu đồng/hộ để người dân nghèo có vốn tiếp tục trồng trọt, sản xuất. Qua công tác trồng rừng, một mặt phủ xanh đất trống, mặt khác còn là công cụ xóa đói, giảm nghèo hiệu quả ở địa phương.
Tổng dư nợ vốn vay ưu đãi cho nông dân trồng rừng theo dự án phát triển lâm nghiệp do WB tài trợ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện đạt hơn 150 tỷ đồng. Dự án được thực hiện trên địa bàn huyện Tiên Phước, Bắc Trà My, Hiệp Đức và Quế Sơn với 4.765 hộ nông dân được hưởng lợi. (Thời Báo Ngân Hàng 28/8) đầu trang(
Chi cục Lâm nghiệp Thanh Hóa là đơn vị thực hiện chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành về lâm nghiệp, trồng rừng, phát triển tài nguyên rừng, khai thác và chế biến lâm sản trên địa bàn tỉnh.
Những năm vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn lực nhưng cán bộ, công nhân viên Chi cục đã đoàn kết hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao như: Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn; chương trình, đề án, dự án về trồng rừng, phát triển tài nguyên rừng, khai thác lâm sản trên địa bàn toàn tỉnh.
Hướng dẫn việc lập và thẩm định quy hoạch, kế hoạch trồng rừng, phát triển tài nguyên rừng của các địa phương; tổ chức phân loại rừng, xác định ranh giới các loại rừng; thống kê, kiểm kê, lập bản đồ rừng theo hướng dẫn của Bộ NN-PTNT.
Triển khai giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng, công nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện dự án đầu tư về lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời, xây dựng phương án, biện pháp, chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm về sản xuất giống cây trồng lâm nghiệp và sử dụng vật tư lâm nghiệp; trồng rừng; chế biến và bảo quản lâm sản; phòng chống dịch bệnh gây hại rừng tại các địa phương. Hướng dẫn, kiểm tra việc cho phép mở cửa rừng khai thác và giao kế hoạch khai thác cho chủ rừng sau khi đuợc phê duyệt...
Bên cạnh thực hiện các nhiệm vụ trên, công tác phát triển rừng trồng hằng năm theo Quyết định 147/2007/QĐ-TTg; Dự án WB3; JICA Nhật Bản... luôn được Chi cục đặt lên hàng đầu.
Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, dù nguồn kinh phí từ các dự án phân bổ cho địa phương chưa đủ để hoàn thành kế hoạch giao trồng rừng, nhưng nhờ chủ động trong việc định hướng kế hoạch nên tính đến hết tháng 7, Thanh Hóa đã trồng được hơn 8.000/10.860 ha rừng (đạt trên 75% kế hoạch). Trong đó, Dự án JICA đạt 77,2%; Quyết định 147 đạt 80,7%; WB3 trên 60%; DN và nhân dân tự trồng trên 65%.
Thời gian tới, Chi cục Lâm nghiệp Thanh Hóa tiếp tục tham mưu cho Sở NN-PTNT thực hiện các chương trình, dự án phát triển và bảo vệ rừng. Đồng thời, hoàn thành kế hoạch trồng rừng đã được giao từ đầu năm. (Nông Nghiệp Việt Nam Số Đặc Biệt 2/9) đầu trang(
27/8, đoàn công tác do bà Đinh Thị Kim Tuyến - Phó Trưởng ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh làm trưởng đoàn đã tiến hành giám sát công tác xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động quản lý, khai thác, vận chuyển, sản xuất và chế biến lâm sản trên địa bàn huyện Ba Bể.
Theo báo cáo của Hạt Kiểm lâm huyện Ba Bể, từ năm 2013 đến nay đơn vị thường xuyên chỉ đạo cán bộ chuyên môn phụ trách địa bàn có trách nhiệm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản.
Đồng thời, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra việc khai thác, chế biến gỗ trên địa bàn, xử lý nghiêm các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là tại khu vực vùng lõi, vùng đệm của Vườn Quốc gia Ba Bể. Trong 8 tháng, Hạt Kiểm lâm huyện Ba Bể đã lập biên bản 8 vụ việc trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng; tang vật thu giữ là 13,444m3 gỗ các loại và 1 cưa xăng, thu nộp ngân sách hơn 50 triệu đồng.
Việc theo dõi cấp phép khai thác của các chủ rừng đều được thực hiện đúng quy định. Tổng khối lượng gỗ được cấp phép là hơn 1 triệu mét khối. Theo kiểm kê hiện nay trên địa bàn huyện Ba Bể có 283 cưa xăng, tuy nhiên mới chỉ có 41 cưa xăng được đưa về quản lý tập trung tại các trạm kiểm lâm.
Hiện nay công tác quản lý, bảo vệ rừng ở Ba Bể vẫn còn nhiều khó khăn do cấp ủy, chính quyền một số xã chưa thực sự vào cuộc, coi đó là trách nhiệm của lực lượng kiểm lâm và các cơ quan chức năng. Công tác bảo vệ vật chứng là 38 cây gỗ nghiến tại khu vực Hang Diễn, xã Hoàng Trĩ (đã khởi tố năm 2011) hiện nay đang gặp nhiều khó khăn vì gỗ chưa được xẻ ra, chưa có khả năng vận chuyển được về nơi tập kết để quản lý, bảo vệ…
Cũng trong buổi giám sát, đoàn công tác đã đi thực tế tại cơ sở chế biến gỗ của doanh nghiệp Nguyễn Minh Tuấn ở thôn Nà Ngò, xã Mỹ Phương và Công ty TNHH Một thành viên Ô Kim Chất ở thôn Thôm Lạnh, xã Hà Hiệu.
Theo phản ánh của các doanh nghiệp này, quá trình hoạt động sản xuất còn gặp khó khăn do nguồn nguyên liệu đầu vào ít; việc áp dụng mức thuế đối với thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất còn nhiều bất cập; thủ tục cấp phép còn rườm rà...
Các doanh nghiệp này đều cho rằng cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần tạo môi trường hành chính thông thoáng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất hiệu quả. Những ý kiến, kiến nghị nêu lên tại buổi làm việc và phản ánh của các doanh nghiệp đã được đoàn giám sát ghi nhận để chuyển đến cấp có thẩm quyền xem xét. (Báo Bắc Kạn 28/8) đầu trang(
Theo số liệu từ Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Nghệ An, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 116 đơn vị quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng rừng từ trước tới nay nhưng chưa nộp tiền tái tạo rừng với diện tích lên đến hơn 2.561ha, tổng số tiền truy thu tạm tính là trên 38,4 tỷ đồng.
Theo quy định tại Nghị định 05/2008/NĐ-CP ngày 14/01/2008 của Chính phủ về Quỹ bảo vệ phát triển rừng, các đối tượng đóng góp bắt buộc cho Quỹ ở cấp tỉnh, trong đó có đóng góp từ các dự án đầu tư phải khai thác rừng để gải phóng mặt bằng và có yêu cầu trồng lại rừng nhưng không có điều kiện.
Do ở Nghệ An, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng mới được thành lập vào nửa cuối năm 2012 nên UBND tỉnh Nghệ An đã có Quyết định 3186/QĐ-UBND ngày 21/8/2012 về việc phê duyệt mức tạm thu đối với các dự án đầu tư phải chuyển đổi mục đích sử dụng để giải phóng mặt bằng và yêu cầu trồng lại rừng nhưng không có điều kiện.
Do đó, các dự án trước ngày 21/8/2012 trở về trước đã được tỉnh Nghệ An ra Quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng rừng nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ nộp tiền vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
Theo đó, toàn tỉnh có 116 dự án với tổng diện tích đã chuyển đổi mục đích sử dụng rừng từ trước tới nay nhưng chưa nộp tiền tái tạo rừng là 2.561,25ha; trong đó diện tích rừng tự nhiên là gần 1.900ha; diện tích rừng trồng là gần 663ha. Tổng số tiền phải truy thu là hơn 38,4 tỷ đồng.
Trong đó, diện tích chuyển đổi sang mục đích khai thác khoáng sản là 747ha (chiếm trên 29%); thủy điện là 1.741ha (chiếm đến 68%); xây dựng khu du lịch sinh thái hơn 30ha; xây dựng nhà máy, văn phòng gần 43ha. Số diện tích rừng bị chuyển đổi mục đích nhiều nhất nằm ở huyện Quế Phong với 1.567ha; huyện Quỳ Hợp là 351ha; huyện Tương Dương là 187ha...
Cũng theo Chi cục lâm nghiệp Nghệ An, tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác từ năm 2012 đến năm 2014 có tổng diện tích là gần 103 ha với số tiền phải nộp tái tạo rừng là 1,54 tỷ đồng (số tiền này đã được nộp vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Nghệ An).
Năm 2013, UBND tỉnh Nghệ An đã có quyết định cho phép phân bổ số tiền gần 1,3 tỷ đồng thu được từ các dự án phải chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để hỗ trợ không hoàn lại cho dự án trồng rừng sản xuất theo Quyết định 147/200/QĐ-TTg và tỉnh Nghệ An đã triển khai trồng được hơn 1.304ha, tập trung ở các huyện Quỳ Hợp; Quế Phong; Anh Sơn; Diễn Châu; Nghi Lộc.
Theo kế hoạch, những công trình đã chuyển đổi mục đích sử dụng rừng phải hoàn thành trồng rừng thay thế chậm nhất vào năm 2016. (Tài Nguyên & Môi Trường 27/8) đầu trang(
Trong tháng 8, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 15,4 nghìn ha, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 8 triệu cây, giảm 2,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 622 nghìn m3, tăng 6,1%.
Tính chung 8 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 120,6 nghìn ha, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2013; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 134,5 triệu cây, giảm 1,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3656 nghìn m3, tăng 7,8%.
Do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng kéo dài, nhất là ở các tỉnh miền Trung nên xảy ra cháy rừng tại một số địa phương. Trong tháng Tám có 448 ha rừng bị thiệt hại, trong đó chủ yếu là diện tích rừng bị cháy với 440 ha.
Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy: Bình Định 251 ha; Phú Yên 99 ha; Quảng Trị 42 ha; Thanh Hóa 23 ha. Tính chung 8 tháng, cả nước có 3014 ha rừng bị thiệt hại, tăng 113% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2504 ha, tăng 188,3%; diện tích rừng bị chặt, phá là 510 ha, giảm 6,7%. (Trung Tâm Thông Tin Công Nghiệp Và Thương Mại - Bộ Công Thương 27/8) đầu trang(
Mục tiêu trồng rừng giai đoạn 2011-2014 mà Nghị quyết số 29 ngày 10/11/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (về phát triển lâm nghiệp tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011-2020) đề ra là trồng mới trên 45.000 ha.
Năm 2014 được coi là năm bản lề thực hiện mục tiêu và thời điểm này khi còn hơn 2 tháng nữa vụ trồng rừng mới kết thúc, nhưng diện tích trồng mới đã vượt 3,7% kế hoạch năm.
Trồng rừng 2014 khởi động với rất nhiều khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất là vốn. Trong khi chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng năm nay là 9.500 ha, cao hơn so với 3 năm đầu giai đoạn 2011-2015, thì nguồn lực ngân sách nhà nước bố trí thực hiện nhiệm vụ trồng rừng chỉ đảm bảo được 62,1% (tương đương 5.900 ha) còn lại phải huy động từ các nguồn vốn khác.
Tính tới đầu tháng 5 vừa qua, toàn tỉnh mới chỉ trồng mới đạt 511 ha, hầu như các dự án trồng rừng tập trung chưa thể khởi động, các diện tích này phần lớn là từ phong trào trồng cây đầu xuân.
Để tháo gỡ khó khăn, ngày 5/5/2014, UBND tỉnh đã ra công văn số 416/UBND-KTN chỉ đạo tăng cường thực hiện kế hoạch trồng rừng năm2014. Theo đó các cấp ngành đẩy mạnh chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuẩn bị hiện trường, cây giống trồng rừng.
Mặt khác tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân đầu tư, vay vốn ưu đãi trồng rừng và nghiên cứu tham mưu cho UBND tỉnh các chính sách để phát triển rừng... đồng thời cũng tích cực thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng.
Một mặt vận động nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa trồng rừng, mặt khác các cấp từ huyện tới cơ sở tích cực đẩy nhanh tiến độ triển khai các nội dung có vốn. Theo hướng đi này, tới trung tuần tháng 7/2014, hầu hết các huyện đã hoàn thành nội dung trồng rừng phòng hộ, phần có ngân sách cấp. Đến nay diện tích rừng phòng hộ đã trồng mới là 338 ha, đạt 86,7% kế hoạch giao cho các huyện, dự kiến thời gian tới sẽ hoàn thành đạt chỉ tiêu này.
Trồng cây phân tán trong những năm qua được nhân dân đồng tình, ủng hộ và ngoài ngân sách của tỉnh thì các huyện cũng chủ động phân bổ kinh phí cho nội dung này. Bà Nguyễn Thị Kim Loan, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển Lâm nghiệp khẳng định: nhân dân và chính quyền cơ sở đã rất tích cực thực hiện tốt nội dung trồng cây phân tán, nếu như các năm trước Văn Lãng luôn không hoàn thành kế hoạch trong nội dung này, thì đến nay đã trồng được trên 328 ha, vượt kế hoạch. Tổng số diện tích trồng cây phân tán của toàn tỉnh đến nay đã là 6.026 ha, gấp hai lần so với chỉ tiêu 3.000 ha đã đề ra. Trong đó nhân dân tự trồng trên 2.200 ha.
Nội dung được nhận định khó thực hiện nhất là dự án trồng rừng hỗ trợ sản xuất, bởi nguồn vốn ngân sách cho nội dung trồng rừng này năm nay rất hạn chế. Tuy nhiên vụ trồng rừng năm nay nhân dân tiếp tục mạnh dạn vay vốn ưu đãi và tự đầu tư trồng rừng cùng với sự tham gia của một số doanh nghiệp tư nhân và một phần từ vốn khuyến lâm Trung ương đã nâng cao tỷ lệ xã hội hóa. Qua đó đưa tổng diện tích rừng hỗ trợ sản xuất trồng mới lên con số trên 3.000 ha.
Như vậy, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã trồng mới được 9.851,1 ha, vượt 3,7% kế hoạch và dự ước tới hết tháng 9, toàn tỉnh sẽ trồng mới trên 10.700 ha rừng, vượt 13,3% kế hoạch.
Kết thúc vụ trồng rừng 2014, dự kiến diện tích có thể tăng thêm. Tính tổng thể trong 3 năm đầu của của giai đoạn 2011-2015, toàn tỉnh đã trồng mới khoảng 28.500 ha rừng. Thắng lợi của vụ trồng rừng 2014 dự kiến sẽ nâng tổng diện tích trồng từ năm 2011 đến nay lên khoảng 39.000 ha.
Con số này so với mục tiêu của Nghị quyết số 29 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh không còn xa. Phấn đấu, quyết liệt ngay từ những năm đầu giai đoạn, vụ trồng rừng năm 2015 đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều và đó cũng là điều kiện rất thuận lợi để hoàn thành thắng lợi Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh đề ra. (Báo Lạng Sơn 27/8) đầu trang(
Giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo điều kiện cho người dân quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng lâm sản cũng như các lợi ích khác của rừng.
Đó là giải pháp để người dân từng bước xóa đói giảm nghèo và trách nhiệm hơn trong việc quản lý sử dụng đất, rừng được giao. Nghị định 99/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng được triển khai thực hiện trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh, nhiều diện tích đất lâm nghiệp, rừng được giao cho người dân quản lý, sử dụng.
Điều đó cũng có nghĩa rừng thực sự có chủ đã mang lại lợi ích to lớn giúp nhân dân ổn định cuộc sống. Đến huyện Nậm Pồ vào mùa mưa, con đường từ Thành phố Điện Biên Phủ đến trung tâm huyện Nậm Pồ dài gần 200km vốn đã quanh co, dốc đá, nay lại thêm trơn trượt và sạt lở. Ðúng với những gì được nghe, tuy thực hiện muộn hơn một số địa phương trong tỉnh nhưng Nậm Pồ đã hoàn thành cơ bản việc thực hiện giao đất, giao rừng, triển khai công tác chi trả dịch vụ môi trường rừng cho 15/15 xã trên địa bàn huyện, những cánh rừng xanh tốt nay đã có chủ.
Xã Nà Khoa có hơn 2.500ha rừng đã được giao khoán bảo vệ, từ năm 2011 - 2014, tỉnh đã chi trả hơn 1,4 tỷ đồng cho 7 cộng đồng với gần 500 hộ gia đình được giao khoán chăm sóc, bảo vệ, trung bình mỗi hộ được nhận từ 2,6 - 2,7 triệu đồng/năm. Các hộ dân chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, Kháng, kinh tế còn rất khó khăn nên số tiền nhận được đã tác động rất lớn đến đời sống vật chất  và tinh thần của họ.
Trao đổi với PV, ông Khoàng Văn Khoa, Phó Chủ tịch UBND xã Nà Khoa cho biết: "Từ khi thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã không chỉ giúp cho địa phương thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ rừng mà nguồn kinh phí hỗ trợ đã giúp người dân trong xã thêm ổn định đời sống, hạn chế tình trạng phá rừng làm nương như những năm trước đây."
Bản Nà Khoa 1, xã Nà Khoa có hơn 50 hộ gia đình, đây cũng là bản có diện tích rừng lớn nhất xã, với khoảng hơn 500ha. Nhiều năm qua, công tác bảo vệ rừng ở bản đã được nhân dân chú trọng quan tâm, tỷ lệ che phủ rừng ở đây luôn đạt trên 50%. Ở đây, nhiều năm qua rất ít có hộ gia đình vi phạm luật bảo vệ rừng, tình trạng phát nương làm rẫy gần như không còn.
Ông Thùng Văn Pản, Trưởng bản Nà Khoa 1 chia sẻ: "Bà con các dân tộc trong bản rất phấn khởi khi được nhận tiền hỗ trợ từ dịch vụ môi trường rừng. Các hộ dân trong xã giờ đây coi rừng như vườn nhà mình nên công tác chăm sóc, bảo vệ được thực hiện thường xuyên, liên tục, rất hiệu quả".
Theo ông Pản, Nghị định 99/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ra đời là chính sách phù hợp, tạo điều kiện để nhân dân từng bước có thể sống được bằng nghề rừng. Do đó, gia đình ông cũng như các hộ khác trong bản được giao khoán rừng sẽ làm thật tốt công tác bảo vệ để ngăn chặn kịp thời những hành vi, vi phạm đến diện tích rừng của mình và đôn đốc bà con thường xuyên đi kiểm tra, nhất là vào mùa khô.
Năm 2010, Nghị định 99 của Chính phủ chính thức được triển khai trên phạm vi cả nước. Trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Nậm Pồ là huyện mới chia tách thành lập, do đó việc đo đạc quy chủ rừng cũng gặp nhiều trở ngại do có nhiều thay đổi về địa giới hành chính. Tuy nhiên đến nay, huyện cũng đã hoàn thành cơ bản việc đo đạc, quy chủ và hoàn thành công tác giao đất, giao rừng tới người dân và cộng đồng các thôn, bản.
Ông Lê Văn Mão, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Nậm Pồ cho biết: "Với sự giúp đỡ trách nhiệm của các sở, ngành liên quan cùng với sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền địa phương và sự đồng thuận từ phía người dân, đến năm 2014, huyện Nậm Pồ đã hoàn thành giao đất, giao rừng với tổng diện tích là hơn 51.000ha cho gần 100 cộng đồng thôn, bản và hộ gia đình, đã có hơn 40.000 hộ gia đình thuộc 15 xã trên địa bàn huyện nhận khoán khoanh nuôi, bảo vệ rừng".
Với việc hoàn thành giao đất, giao rừng, người dân trên địa bàn huyện đã được hưởng lợi ban đầu từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Cụ thể, từ năm 2011 đến 2014, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Điện Biên đã chi trả cho các chủ rừng với tổng số tiền gần 10 tỷ đồng nguồn vốn hỗ trợ từ dịch vụ môi trường rừng.
Nhận định về hiệu quả từ khi triển khai thực hiện Nghị định 99, ông Lê Văn Mão, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Nậm Pồ cho rằng: Từ khi rừng có chủ, công tác quản lý, bảo vệ có nhiều chuyển biến tích cực, rừng không bị xâm hại và được chăm sóc tốt hơn, góp phần từng bước nâng cao độ che phủ. Nậm Pồ phấn đấu đến hết năm 2014, độ che phủ rừng toàn huyện đạt 50%.
Mục tiêu của chính sách giao rừng gắn liền với giao đất lâm nghiệp là làm cho mỗi mảnh rừng và đất rừng đều có chủ thực sự. Trên cơ sở đó, giảm thiểu và ngăn chặn nạn phá rừng, suy thoái đất đai, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện cuộc sống người dân nông thôn miền núi.
Chính vì vậy, dù gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện như: Kinh phí đo đạc hạn chế, việc rà soát kiểm tra trữ lượng, trạng thái rừng mất nhiều thời gian, địa hình chia cắt, giao thông khó khăn... nhưng các sở, ngành chức năng chủ động phối hợp với chính quyền địa phương phấn đấu hoàn thành việc giao đất, giao rừng sớm nhất để người dân phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng từ đất rừng.
Có thể thấy, hiệu ứng của việc thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường trên địa bàn huyện Nậm Pồ thời gian qua không những từng bước nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ rừng, nâng số hộ nhận khoán bảo vệ rừng mà còn huy động được một nguồn nhân lực lớn cho công tác tuần tra, bảo vệ rừng một cách thường xuyên. Từ đó, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề rừng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị và trật tự xã hội được ổn định, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Với  phương châm "lấy rừng để nuôi rừng", chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng thực sự là bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong việc giúp người dân nhận khoán, khoanh nuôi bảo vệ rừng hưởng lợi, nâng cao thu nhập, góp phần từng bước nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ rừng, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề rừng.
Đối với huyện biên giới Nậm Pồ, việc triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định 99 của Chính phủ sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn cho hàng nghìn hộ dân nông nghiệp và tạo điều kiện phát triển nghề rừng, hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững từ nghề rừng. (Đài PTTH Điện Biên 28/8) đầu trang(
Ngày 01 tháng 7 năm 2011, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU về phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững giai đoạn 2011-2015, sau ba năm triển khai thực hiện, công tác phát triển và bảo vệ rừng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng…
Qua 3 năm triển khai thực hiện có thể khẳng định Nghị quyết đã đi vào cuộc sống. Hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị chủ rừng bước đầu chuyển biến tích cực; trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền địa phương có rừng từng bước được xác định rõ ràng, cụ thể hơn.
Nhận thức về vai trò của rừng đối với đời sống xã hội và về công tác bảo vệ, phát triển rừng của các cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân được nâng lên rõ rệt. Đầu tư trồng rừng theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng; diện tích rừng trồng tăng dần qua từng năm. Rừng tự nhiên được khai thác theo phương án quản lý rừng bền vững. Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết được tăng cường.
Sự phát triển của ngành lâm nghiệp đã và đang góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, làm cho diện mạo nông thôn của tỉnh khởi sắc hơn; đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Bộ máy chỉ đạo quản lý ngành lâm nghiệp đã được củng cố, kiện toàn từ tỉnh đến cơ sở. Một số chính sách hỗ trợ, phát triển lâm nghiệp được ban hành kịp thời; công tác lập quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển lâm nghiệp được chú trọng.
Đã huy động được nhiều nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng; vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong công tác quản lý, bảo vệ rừng tiếp tục được củng cố và tăng cường. Quyền và vai trò làm chủ của nhân dân được đề cao, vai trò lãnh đạo của Đảng trong các tổ chức lâm nghiệp được chú trọng, an ninh trật tự ở nông thôn được giữ vững...
Đến cuối quý II năm 2014, đã trồng mới được 5.935 ha rừng; khoanh nuôi phục hồi 12.896 ha rừng; trồng 12,8 triệu cây phân tán; bảo tồn và phát triển 7,88 ha Sâm Ngọc Linh; khai thác 32.495,2 m3 gỗ chính phẩm... duy trì và nâng cao độ che phủ của rừng đạt 67,4%.
Một số huyện ủy chưa xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết; có nơi xây dựng chương trình còn chung chung, chưa thật cụ thể và sát với tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị; công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên và hiệu quả chưa cao; tình trạng xâm canh, phá rừng trái pháp luật để làm nương rẫy, việc vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn xảy ra nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý dứt điểm; trách nhiệm của một số chủ rừng trong việc bảo vệ rừng tại gốc còn hạn chế; tác động của ngành lâm nghiệp đối với sự phát triển kinh tế-xã hội chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, người dân chưa thể sống và vươn lên làm giàu bằng nghề rừng; công tác trồng rừng sản xuất, trồng Sâm Ngọc Linh, nuôi dưỡng rừng, khai thác gỗ đạt tỷ lệ thấp.
Những hạn chế, thiếu sót trên có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu là do nguồn lực đầu tư của Nhà nước còn hạn chế; hệ thống chính sách lâm nghiệp chưa đồng bộ và chưa phù hợp với yêu cầu thực tế; việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết ở một số cấp uỷ, chính quyền địa phương và các ngành của tỉnh chưa thật sự quyết liệt, năng động; tình trạng bao che, tiếp tay của lực lượng chức năng còn xảy ra ở một số nơi.
Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém, tập trung triển khai thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 02 đã đề ra, ngày 14 tháng 8 năm 2014 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 1415-KL/TU yêu cầu:
Thứ nhất, Các cơ quan tham mưu giúp việc, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các huyện ủy, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh ủy, các sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nội dung Nghị quyết 02 và các văn bản của Trung ương, của tỉnh liên quan đến công tác bảo vệ, phát triển rừng để các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu các tổ chức, cơ quan và các tầng lớp nhân dân có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng bền vững, từ đó tập trung tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Đồng thời, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện ở cấp mình, ngành mình.
Thứ hai, Cấp uỷ, chính quyền các huyện, thành phố, các sở, ngành liên quan, các chủ rừng cần nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm chính trị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 02-NQ/TU; tăng cường công tác phối hợp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm đạt hiệu quả cao nhất. Huy động cả hệ thống chính trị và tập trung nguồn lực để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết 02-NQ/TU đã đề ra.
Thứ ba, Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các phương án của Ủy ban nhân dân tỉnh về chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2015, về giải quyết đất chồng lấn, lấn chiếm nằm trong lâm phần của các đơn vị chủ rừng.
Tập trung xác định, khoanh vùng những khu vực trọng điểm có khả năng xảy ra tình trạng vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; tăng cường tổ chức lực lượng đủ mạnh để truy quét, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Có giải pháp xử lý triệt để các loại phương tiện xe độ chế, nhất là xe máy độ chế đang hoạt động lưu thông trên địa bàn; chỉ đạo điều tra, xác định đối tượng và triệt phá những đơn vị, cá nhâncầm đầu tổ chức buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép.
Cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra người và phương tiện ra vào khu vực biên giới, nhất là khu vực biên giới giáp với Vương quốc Campuchia để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm.
Thứ tư, Xây dựng và ban hành các quy chế làm việc, quy trình công tác của các Trạm Kiểm soát liên ngành, bảo đảm tính thống nhất, kỷ luật cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ. Đồng thời, quán triệt, vận động cán bộ và chiến sỹ đang công tác tại các Trạm khắc phục khó khăn, yên tâm công tác, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra, triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Rà soát, nắm chắc số hộ thiếu đất sản xuất ở các địa phương để có giải pháp bố trí đất sản xuất cho nhân dân. Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy để quản lý và giải quyết đất sản xuất cho nhân dân, nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số để giảm sức ép về đất sản xuất nhằm hạn chế tình trạng người dân lấn chiếm rừng và đất rừng trái pháp luật.
Thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Tăng cường đầu tư cho phát triển rừng trồng, nâng cao hiệu quả rừng sản xuất. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển Sâm Ngọc Linh đã được phê duyệt. Thực hiện tốt công tác khai thác gỗ theo phương án quản lý rừng bền vững tại Công ty TNHH MTV lâm nghiệp Đăk Tô, khai thác tận dụng gỗ trên các công trình, dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
Có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện nghiêm chủ trương dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên. Triển khai thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty lâm nghiệp trên địa bàn theo Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị và Quyết định số 686/QĐ-TTg ngày 11-5-2014 của Thủ tướng Chính phủ. Trước mắt, thực hiện có hiệu quả Quy hoạch mạng lưới chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh.
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt các các nhiệm vụ, giải pháp trên đây, tin rằng việc phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững trong thời gian tới sẽ đạt được nhiều kết quả quan trọng hơn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. (Kontum.gov.vn 27/8) đầu trang(
UBND TPHCM vừa kiện toàn nhân sự Ban Chỉ đạo trồng rừng, bảo vệ rừng và phát triển cây xanh trên địa bàn TP giai đoạn 2011 – 2020.
Ban Chỉ đạo gồm 41 thành viên, do ông Lê Thanh Liêm, Phó Chủ tịch UBND TP, làm Trưởng ban; ông Lê Minh Dũng, Phó Giám đốc Thường trực Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, làm Phó Trưởng ban Thường trực; ông Dương Hồng Thanh, Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải và ông Nguyễn Văn Phước, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, làm Phó Trưởng ban.
Các nội dung khác giữ nguyên theo Quyết định số 5781/QĐ-UBND ngày 30-11-2011 của Chủ tịch UBND TP về thành lập Ban Chỉ đạo trồng rừng, bảo vệ rừng và phát triển cây xanh trên địa bàn TP giai đoạn 2011-2020. (Hochiminhcity.gov.vn 26/8) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Theo tờ The Sun Jonesboro, các nhân viên làm việc tại trang trại rùa Northeast Ark ở Amagon, Arkansas, Mỹ đã tình cờ phát hiện ra một con rùa 2 đầu trong lô hàng 30.000 con được chuyển tới từ Trung Quốc.
Con rùa trên hiện chưa được đặt bên nhưng đại diện của trang trại cho biết, họ có thể sẽ bán chú rùa cho một nhà sưu tập.
Đại diện của trang trại cũng cho biết trước đây họ đã từng thấy một con rùa hai đầu nhưng nó đã chết từ khi sinh ra. Bên cạnh đó, họ cũng phát hiện những con rùa có nhiều hơn 4 chân hoặc không có đuôi.
Theo một nhà sinh vật học, những con rùa đột biến thường rất hiếm khi xuất hiện trong quá khứ. Tuy nhiên, số lượng các sinh vật đặc biệt đang gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. (VietnamPlus 28/8; Đại Đoàn Kết 29/8, tr16)
28/8, cảnh sát Brazil cho biết đã triệt phá thành công một băng nhóm phá rừng Amazon tại bang Para, miền Bắc nước này. Đây được coi là nhóm lâm tặc lớn nhất đang hoạt động mạnh mẽ tại khu vực nói trên.
Theo lực lượng cảnh sát liên bang, nhóm lâm tặc trên đã chiếm đất công, đốt rừng, chia đất thành lô và rao bán. Cảnh sát không nêu rõ số lượng đối tượng bị bắt.
Theo Viện Môi trường Brazil, những đối tượng trên phải chịu trách nhiệm với hành vi phá hủy và làm ô nhiễm môi trường. Ước tính, hậu quả từ các hoạt động phạm pháp này đối với môi trường lên tới 230 triệu USD.
Nhóm lâm tặc trên sẽ phải đối mặt với nhiều cáo buộc như chiếm đất công, làm giả giấy tờ, phá rừng, tội phạm có tổ chức và rửa tiền. Nếu như bị kết tội, các đối tượng sẽ phải chịu mức án lên tới hơn 50 năm tù giam.
Rừng rậm nhiệt đới Amazon thuộc lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ. Với diện tích gần 7 triệu km2, rừng Amazon trải dải trên lãnh thổ của 8 nước gồm Brazil, Peru, Bolivia, Ecuador, Colombia, Venezuela, Guyana và Suriname.
Trong đó, 60% diện tích rừng nằm trên lãnh thổ của Brazil. Rừng rậm Amazon được coi là lá phổi của Trái Đất và là ngôi nhà sinh thái của hàng nghìn loài động thực vật.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp, khai thác mỏ và chăn nuôi gia súc bên cạnh xây dựng đập thủy điện đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái khu rừng lớn nhất Nam Mỹ này. (VietnamPlus 28/8) đầu trang(
Mới đây, tại đầm phá Spekboom - vườn quốc gia Nam Phi, du khách đã chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng.
Một chú voi con đến khiêu chiến với một con bò đực đầu đàn. Và hậu quả của hành động này là chú voi con bị con bò hung dữ đánh một trận “thừa sống thiếu chết”, húc tung nhiều lần lên không trung đến khi có bầy đàn của chú voi đến giải cứu. (Lao Động 29/8) đầu trang(
Con gấu túi được nuôi ở Công viên Động vật hoang dã Ballarat, đông nam Australia. Đây là một con đực, có kích thước khá lớn và nặng khoảng 40 kg. Nó thường được đặt trong một chiếc xe đẩy để tiện chăm sóc và theo dõi. Theo Newsweek, con gấu túi này chưa từng có bạn đời và cũng chưa có con.
Gấu túi bước sang tuổi 29 hôm 25/8, được cho là cá thể già nhất trong môi trường nuôi nhốt. Tuổi thọ trung bình của loài gấu túi ở môi trường tự nhiên là khoảng 5 năm và trong điều kiện nuôi nhốt là 20 năm.
Gấu túi thông thường (Vombatus ursinus) còn được gọi là gấu túi mũi trần, có nguồn gốc từ Australia. Loài động vật này thường có chiều dài cơ thể từ 70 đến 100 cm, nặng khoảng 26 kg. Đây là loài thú có túi, thường đi ăn đêm và đào hang. (VnExpress 28/8) đầu trang(./.
Biên tập: Lê Vòng