Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 25 tháng 08 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Trong quá trình phát thực bì để thực hiện chính sách, dự án trồng rừng phòng hộ năm 2014, Ban quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) Anh Sơn không chỉ vi phạm các quy trình kỹ thuật mà còn có những dấu hiệu lợi dụng chính sách để phá rừng.
Năm 2014, BQLRPH Anh Sơn được UBND tỉnh và Sở NN-PTNT Nghệ An giao chỉ tiêu và phê duyệt dự án trồng 75,2 ha rừng phòng hộ. Sau khi nhận chỉ tiêu và lên kế hoạch, cuối tháng 7 vừa rồi BQLRPH Anh Sơn ra quyết định phân công các trạm bảo vệ rừng tổ chức phát thực bì để trồng rừng xen dặm. Nhưng khi đơn vị này mới chỉ thực hiện công tác phát thực bì được vài ngày thì Phòng Cảnh sát điều tra phòng chống tội phạm về môi trường (PC49, Công an tỉnh Nghệ An) đã phát hiện một khối lượng gỗ trên chính diện tích mà BQLRPH Anh Sơn được giao trồng rừng phòng hộ.
Cụ thể, ngày 2/8, lực lượng cảnh sát môi trường phối hợp với lực lượng kiểm lâm huyện Anh Sơn tổ chức bắt giữ tổng cộng 29,35 m3 gỗ tại lô A khoảnh 13 và lô A khoảnh 9 thuộc tiểu khu 946, diện tích khoảng 0,5 ha ở xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn. Đây là vị trí nằm trong diện tích BQLRPH Anh Sơn ra quyết định giao cho Trạm bảo vệ rừng Cao Vều tổ chức phát thực bì để trồng rừng phòng hộ trên tổng diện tích khoảng 19,2 ha. Hầu hết số gỗ bị bắt giữ ở dạng gỗ tròn, dấu vết còn rất mới. Sau khi bị phát hiện và bắt giữ, toàn bộ số gỗ vi phạm hiện đang được cất giữ tại khuôn viên của Trạm BVR Cao Vều.
Đến thời điểm hiện tại, chưa có bất cứ thông tin chính thức nào từ phía các cơ quan chức năng do vụ việc vẫn đang trong quá trình điều tra. Nhưng điều dư luận hết sức quan tâm và hoài nghi là liệu trong quá trình phát thực bì, Trạm BVR Cao Vều chỉ chặt 29,35 m3 gỗ hay thực tế số lượng bị đốn hạ còn lớn hơn nhiều? Việc phê duyệt và thẩm định cho BQLRPH Anh Sơn phát thực bì để trồng rừng liệu có đúng quy trình? Do phía cơ quan điều tra chưa khép hồ sơ nên để tìm hiểu cụ thể về vấn đề này, PV NNVN đã vượt rừng điều tra độc lập và phát hiện nhiều tình tiết đáng lưu ý.
Tại vị trí thực địa ở tiểu khu 946, theo quan sát của PV, một diện tích lớn không chỉ bị phát trắng mà thậm chí còn bị đốt cháy nham nhở. Hàng trăm gốc cây nằm chỏng chơ dọc theo cánh rừng hai bên khu vực Khe Dâu và Khe Nứa. Theo người dân địa phương, khu rừng này khoảng gần 20 năm trước là rừng khai thác và bãi tập kết gỗ của Lâm trường Anh Sơn.
Sau khi chuyển từ hoạt động khai thác sang bảo vệ, rừng đang trong quá trình phục hồi, vậy nhưng không hiểu sao BQLRPH Anh Sơn ại thiết kế quy hoạch để xin Sở NN-PTNT đồng ý phê duyệt cho họ đuợc trồng rừng phòng hộ? Điều đáng quan tâm là nếu nhìn vào thực trạng khu vực bị phát đốt, thì những nghi ngờ về số luợng gỗ thực sự đã bị đốn hạ ở khu vực này vượt quá số lượng mà PC49 đã bắt giữ cũng không phải là không có lý.
Đặc biệt, ở cách Trạm BVR Cao Vều không xa, PV đã phát hiện một số lượng gỗ khá lớn được che giấu trong các bụi rậm, dấu vết còn rất mới, khối lượng gỗ cũng rất giống với số lượng PC49 đã bắt giữ. Rất có thể, số gỗ này cũng nằm trong số “thực bì” mà Trạm BVR Cao Vều đã “phát”? Mặc dù vậy, khi PV thắc mắc về số gỗ bí ẩn này, cả ông Nguyễn Văn Đức, Phó Giám đốc BQL-RPH Anh Sơn và ông Nguyễn Trọng Độ, Trạm trưởng Trạm BVR Cao Vều đều phủ nhận. Họ cho rằng đó có thể là gỗ “vô chủ” do đặc thù của khu vực này tập trung nhiều gỗ của các DN kinh doanh lâm sản?.
Đến thời điểm này, tất cả các đầu mối của vụ việc hiện vẫn còn nằm trong quá trình điều tra của PC49. Cả BQLRPH Anh Sơn, Hạt Kiểm lâm Anh Sơn, Chi cục Lâm nghiệp Nghệ An đều không có nhiều thông tin về số lượng gỗ bị bắt giữ thật sự cũng như những đối tượng liên quan đến vụ việc. Với hy vọng có thêm thông tin, ngày 21/8 PV đã liên hệ làm việc với PC49 (CA tỉnh Nghệ An), nhưng Đại tá Trần Hữu Hồng, Trưởng phòng PC49 lại từ chối cung cấp thông tin với lý do vụ việc đang trong quá trình điều tra.
Bất đắc dĩ, PV đành cung cấp cho ông Hồng một số hình ảnh về số gỗ “vô chủ” nói trên. Chỉ một vài giờ đồng hồ sau đó, PV nhận được tin báo của người dân địa phương là PC49 tiếp tục bắt giữ một khối lượng gỗ nữa trong khu vực quản lý của BQL-RPH Anh Sơn, tuy nhiên, khối lượng cụ thể bao nhiêu thì cơ quan này tiếp tục giữ kín, không tiết lộ.
Theo quyết định của BQL-DARPH Anh Sơn thì tiểu khu 946 được giao cho Trạm BVR Cao Vều phát và trồng rừng. Hai người phụ trách là Trạm trưởng Nguyễn Trọng Độ và ông Nguyễn Sinh Cùng. Ông Độ cho biết: Sau khi nhận được quyết định, ngày 31/7 ông thuê người dân trong bản Cao Vều chia thành nhiều tổ phát thực bì, nhưng “do bận đi học, không có điều kiện giám sát nên một số người dân đốn hạ luôn cây đứng, mới làm được mấy ngày thì công an lên bắt”.
“Sau khi thấy số lượng gỗ bị bắt giữ tôi cũng thấy “nóng ruột”, nhưng cứ nghĩ rừng toàn dây leo bụi rậm nên không để ý. BQL tự lập thiết kế trình lên Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Nghệ An thẩm định rồi nên quy trình chắc không có vấn đề gì, tự nhiên thấy cảnh sát môi trường vào bắt giữ, còn khối lượng bị bắt giữ bao nhiêu tôi cũng không rõ”.
Đại diện BQLRPH Anh Sơn, ông Nguyễn Văn Đức, Phó Giám đốc cũng trả lời hết sức vô tư: “Toàn bộ vấn đề chưa có kết luận và thông báo nào gửi cho đơn vị cả nên chúng tôi vẫn cho anh em phát thực bì tiếp. Theo tôi, toàn bộ quy trình trồng rừng phòng hộ đều thực hiện đúng, chỉ có người thực hiện là sai. Cụ thể, những nhân công được thuê phát thực bì hơi sơ suất”. Ông Đức cũng nói rằng, bản thân ông thừa hiểu đối tượng thiết kế trồng rừng phân thành 3 loại, la, lb và lc. Không có chuyện lợi dụng chính sách để phá rừng.
Khi thông tin rằng Trạm BVR Cao vều không chỉ đốn cây mà còn phát đốt, ông Đức khẳng định: Ngày hôm qua tôi mới đi kiểm tra trồng rừng, có thấy hiện tượng đốt ở chỗ nào đâu.
Trong buổi làm việc với PV, ông Đinh Nho Trọng, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Anh Sơn khẳng định chắc nịch: Trước hết, để xảy ra vấn đề này là do quá trình thiết kế hơi lơ là, làm không cẩn thận. Trách nhiệm lớn nhất thuộc về cơ quan ký quyết định phê duyệt, cơ quan tham mưu thẩm định và chủ rừng. Trồng rừng phòng hộ có quy trình khác với trồng rừng sản xuất. Phải phát theo lô theo luống, không được phát trắng mà phải tuân thủ nguyên tắc “băng chặt băng trừ”. Những cây có khả năng phục hồi phải trừ ra, đằng này các ông phát đốt là sai rõ ràng rồi.. Chưa kẻ, về nguyên tắc, trước khi phát thực bì BQLRPH Anh Sơn phải trình hồ sơ để lực lượng kiểm lâm giám sát nhưng phải đến khi PC49 bắt giữ số lượng gỗ trên thì Hạt Kiểm lâm mới nhận được hồ sơ”.
Nếu theo lời ông Trọng thì có vẻ như quy trình thẩm định để BQLRPH Anh Sơn “phá rừng để trồng rừng” là có vấn đề. Tuy nhiên, trả lời Báo NNVN, ông Đặng Xuân Minh, Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Nghệ An cho biết: Hiện Chi cục chưa có báo cáo chính thức của BQLRPH Anh Sơn, tuy nhiên tôi có thể cam đoan việc thẩm định và phê duyệt là đúng quy trình, đủ các tiêu chí phát thực bì và trồng rừng phòng hộ.
Cái sai rõ ràng ở đây là do công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện không đúng với quy trình kỹ thuật. Trong diện tích thiết kế, về nguyên tắc không được chặt, phải giữ lại các cây gỗ đang trong trạng thái phục hồi. Tuyệt đối không được đốt. Về chuyện khối lượng gỗ bị PC49 bắt giữ thì bản thân Chi cục Lâm nghiệp cũng không được biết là bao nhiêu. (Nông Nghiệp Việt Nam 25/8, tr15) đầu trang(
Dân trong nghề thường gọi việc lên rừng “ngậm ngải tìm trầm” bằng cái tên “Đi điệu”. Những “chuyến đi” trĩu nặng cơm- áo- gạo- tiền, đong đầy hi vọng và ẩn họa cả những nỗi đau của những người dân vùng gió Lào cát cháy Quảng Bình.
Mấy mươi năm qua, cái nghề “mạt” ấy đã cướp đi bao sinh mạng của người dân nơi đây, vậy mà cái đói, cái nghèo đã và đang thúc giục nhiều bước chân lên rừng làm kiếp phu trầm.
Trầm hương là phần gỗ có chứa nhiều nhựa thơm sinh ra từ thân cây dó lưỡi trâu và dó lang. Còn kỳ hương hay còn gọi là kỳ nam là phần gỗ được chuyển hóa qua hàng chục, thậm chí hàng trăm năm của loại dó bầu. Cây dó thường tự mọc đơn lẻ trong các khu rừng thuộc miền Trung và Nam Trung bộ. Đặc điểm của sản vật này là ở hương thơm hết sức đặc biệt. Những vật phẩm chế tác từ kỳ hương có hương thơm gần như là mãi mãi. Có những đồ trang sức người ta làm từ kỳ nam đeo vài chục năm vẫn còn tỏa hương thơm.
Đông y gọi kỳ nam là "già nam", ngoài ra còn có những tên gọi khác như: Già nam hương, mật kết, hổ ban kim ty kết và kỳ nam hương… Trong đông y, người ta thường dùng trầm để làm thuốc hơn là kỳ, bởi kỳ quá hiếm và đắt tiền. Trầm có tác dụng như bổ nguyên dương; bổ thận khí; trợ tim, trợ sức cho công năng vận hóa của tỳ thận. Còn kỳ nam có công dụng chữa trị chứng đi tiểu không cầm được; giúp cho bền vững tinh khí; rất hay trong điều trị các bệnh tiêu hóa, bệnh khí thống...
Vì những lí do đó mà giá cả của Trầm và Kỳ càng ngày càng tăng chóng mặt. Chỉ trong vòng vài thập niên trở lại đây, trầm, kỳ trở thành một thứ được săn lùng hơn bao giờ hết. Người ta đổ xô đi tìm trầm, thế hệ này đi trước, thế hệ sau nối gót theo sau. Bỏ lại làng mạc, nhà cửa, ruộng vườn, con cái cho phụ nữ trông nom. Những ngôi làng vắng bóng đàn ông, chỉ có trẻ con, người già yếu và phụ nữ, không khác thời chiến là mấy.
Người đi tìm trầm không hẹn ngày về, đa phần kiếm được đồng nào thì gửi tiền về nuôi gia đình thông qua thương lái, còn không thì biệt xứ một vài năm là chuyện thường. Trong số những phu trầm thì cũng có một vài người trúng tiền tỷ, xây nhà cao cửa rộng, sắm xe sắm cộ, nhưng cũng không ít người tay trắng, phải mang thương tật suốt đời hoặc bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc, để lại những người vợ góa chồng và đàn con thơ dại.
Thế nhưng, sự nghiệt ngã đó vẫn không ngăn được nhiều người tiếp tục nuôi ảo mộng nhờ trầm. Bởi, những ngôi nhà khang trang của những phu phất lên nhờ trúng trầm luôn là niềm mơ ước, thế nên, ngày qua ngày, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, con theo cha, em theo anh, đoàn người đi về phía rừng chưa bao giờ dứt.
Phu trầm thường đi thành từ “xâu”, nghĩa là mỗi nhóm có từ 3-4 người. Các “xâu” sẽ phân chia nhau đổ vào các cánh rừng dựng lán trại, thay phiên nhau tìm trầm, nấu ăn. Trung bình hàng ngày mỗi phu trầm phải lội 20-30km, cuối ngày thì về lại lán. Phu trầm nhiều khi đi lạc phải tìm lèn đá hoặc trèo lên cây cao ngủ qua đêm chờ sáng mới về. Lương thực họ mang theo thường đủ dùng trong một đến hai tháng, may mắn trúng được ít nhiều trầm thì họ ra khỏi rừng gọi điện cho chủ trầm để được chở về đồng bằng bán rồi tiếp tục “đóng gùi” - chuẩn bị các nhu yếu phẩm -  quay vào rừng.
Còn nếu như cả tháng không được cái gì thì các phu trầm phải “hãm” gạo lại, tìm thêm rau rừng mà ăn, đập vỏ cây tre nứa lấy nước uống. Gắng cầm cự hi vọng kiếm thêm chút đỉnh bù lại tiền “đóng gùi”. Nhiều “xâu” trước khi đi còn chuẩn bị thêm “ngải” - một loại dược thảo gần giống sâm giúp phu trầm cầm cự được giữa rừng sâu nếu không may bị lạc đường hoặc gặp thiên tai không về kịp.
Mỗi khi tới địa điểm tìm trầm, các phu trầm được chủ trầm bố trí cho chỗ ăn uống, nghỉ ngơi lấy sức từ 2 - 3 ngày. Lúc này dân trầm được các chủ trầm cho ứng tiền để đóng gùi, chuẩn bị gạo, thức ăn, chăn màn, dao rựa, dụng cụ xoi trầm, hương hoa để cúng thần rừng. Khi phu trầm trúng thì bán lại cho họ, trừ nợ.
Những hiểm nguy mà phu trầm phải đối mặt không chỉ là lạc sang rừng các nước láng giềng rồi bị cảnh sát nước bạn bắt mà nguy hiểm hơn là gặp tộc người hung dữ mà họ thường gọi là Mẹo. Những người Mẹo này hễ gặp phu trầm là giết cho nên nếu gặp Mẹo thì dù có mang trên người rất nhiều trầm trị giá tiền tỉ cũng phải bỏ của chạy lấy người. Rất nhiều “xâu” trầm bị Mẹo giết chết hết.
Cay cực là thế, nhưng cám dỗ ước vọng đổi đời từ những mảnh trầm dường như đã ngấm sâu vào tiềm thức của những con người nơi đây, dẫn dụ những người đàn ông ở vùng rừng Quảng Bình lên đường xa xứ. Vì đói nghèo, họ liều lĩnh vào chốn rừng sâu núi thẳm, dù chẳng ai trong số họ có thể đoán trước tương lai xảy ra những gì, là phúc hay là họa! Đỉnh điểm của tai họa ấy diễn ra vào cuối tháng 3-2013, 5 phu trầm ở Quảng Trạch, Quảng Bình bị giết dã man trong lúc đi tìm trầm tại vùng rừng núi giáp ranh giữa xã Hướng Lập, Hướng Hoá, Quảng Trị; huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình và tỉnh Savanakhet - Lào.
Vụ án đã làm chấn động dư luận trong suốt thời gian qua. Những kẻ máu lạnh giết người không ghê tay đã phải đứng trước vành móng ngựa. Nhưng sự trả giá của chúng có làm người chết sống lại? Có xoa dịu được nỗi đau của người còn sống? Có làm vơi đi gánh nặng cuộc đời?
Tính đến giờ, đã nửa năm trôi qua kể từ ngày 5 phu trầm bị sát hại, thế nhưng, dường như nỗi đau vẫn còn rỉ máu và hành hạ những người đang sống. Nỗi mất mát không lời nào tả được hiện hữu trên những khuôn mặt khắc khổ, mòn mỏi đợi chờ. Giữa nắng cháy và gió Lào rát mặt, tiếng ai oán của những người mẹ khóc con, người vợ khóc chồng, con khóc nhớ cha bật lên não nề.
Chỉ vì mặc cảm với cái nghèo đeo đẳng, hai người con trai đã ở cái tuổi ngoại tứ tuần của bà cụ Hoàng Thị Nhung (82 tuổi, Quảng Minh, Quảng Trạch, Quảng Bình) vẫn quyết tâm theo đuổi nghiệp tìm trầm trong những cánh rừng heo hút bạt ngàn mà chưa lập gia đình. Quyết tâm thay đổi số phận mình bằng viễn cảnh giàu có sung túc khiến họ biền biệt nơi rừng thiêng nước độc, bỏ lại người mẹ già sống cô quạnh.
Nhưng tiền bạc, giàu sang đâu không thấy, họ lần lượt nằm lại giữa rừng xanh. Nhận được tin hai con trai bị kẻ xấu sát hại, trái tim người mẹ già chết lặng. Liệu có nỗi đau nào hơn thế? Giờ đây, người con trai còn lại của bà lại tiếp tục lên rừng, để bà bơ vơ giữa ngổn ngang của những nỗi đau và chờ đợi.
Trong 5 nạn nhân xấu số đó thì Đinh Xuân Thân ở thôn Tân Sơn (xã Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình) là nạn nhân ít tuổi nhất. Tuy mới 19 tuổi, nhưng từ lâu Thân đã là trụ cột gia đình không chỉ kinh tế mà còn là chỗ dựa tinh thần cho người mẹ bị bệnh tim. Sau sự ra đi của Thân, người mẹ đáng thương đó đã gần như suy sụp hoàn toàn. Không biết bao nhiêu nước mắt của bà đã đổ xuống trong những đêm hiu quạnh.
“Đời phu trầm là trầm luân, khổ ải” một lão làng trong nghề “đi điệu” đã kết luận đầy triết lí. Ngẫm ra cũng chẳng sai là mấy. Người bỏ mạng đã đành một lẽ, ngay cả những người may mắn trở về cũng không ít người phải sống nốt phần đời còn lại trong bóng tối. Như trường hợp ông Nguyễn Văn Nhiệm ở Quảng Sơn, Quảng Trạch.
Ông Nhiệm từng là một phu trầm mòn mỏi trên những chặng đường rừng suốt mấy chục năm ròng, song những trận sốt rét rừng ác tính trong mỗi chuyến đạp trầm đã vắt kiệt sức khỏe của ông. Ông trở về sau một trận ốm dài ngày ông đã bị liệt cả hai chân, mọi sinh hoạt, ăn uống đều nhờ cả vào vợ và con trai đang phiêu bạt đâu đó bên các cánh rừng của Malaysia tìm trầm...
Vậy mà, có một điều đáng nói ở đây là những mất mát đau thương đó dường như vẫn không làm chùn bước chân những phu trầm khác. Họ vẫn gùi đồ và lặng lẽ hướng về rừng…(Hải Quan 25/8) đầu trang(
24-8, thông tin từ Cục Kiểm lâm (Tổng cục Lâm nghiệp-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tại nhiều khu vực ở các địa phương lâu ngày không có mưa, thời tiết khô hanh kéo dài, có nguy cơ xảy ra cháy rừng.
Cụ thể: Rừng ở huyện  Phù Cát, An Nhơn, Vân Canh, Tuy Phước, Tây Sơn, TP Quy Nhơn (Bình Định), huyện Bố Trạch (Quảng Bình) đang có nguy cơ cháy cấp 5-cấp cực kỳ nguy hiểm. Các khu vực của huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn (Bình Định); Khánh Sơn, thị xã Cam Ranh (Khánh Hòa); các khu vực của huyện Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Mộ Đức, Đức Phổ, Nghĩa Hành (Quảng Ngãi) và rừng ở TP Đà  Nẵng đang có nguy cơ cháy cấp 4-cấp nguy hiểm.
Ban Chỉ đạo Nhà nước về Kế hoạch bảo vệ và Phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 yêu cầu UBND các cấp và chủ rừng thuộc  những địa phương trên thực hiện ngay các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng. (Quân Đội Nhân Dân 25/8) đầu trang(
Cho đến cuối giờ chiều 24.8 hai đám cháy lớn tại rừng đặc dụng Nam Hải Vân (thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng) mới được khống chế, vẫn chưa có thống kê thiệt hại.
Khoảng 12 giờ trưa 24.8, người dân nghe thấy tiếng nổ lớn ở tiểu khu 4A rừng đặc dụng Nam Hải Vân, nghi ngờ là do bom đạn còn sót lại trong chiến tranh gặp nắng nóng kéo dài phát nổ, sau đó phát hiện khói lửa mù trời. Nhận tin báo, UBND quận Liên Chiểu huy động hơn 100 cán bộ chiến sĩ Phòng Cảnh sát PCCC số 4, Hạt Kiểm lâm Liên Chiểu, lực lượng phường Hòa Hiệp Bắc và các đơn vị quân đội đóng trên địa bàn cứu rừng.
Tuy nhiên do vị trí đám cháy nằm ở đỉnh cao 400 mét, xe cứu hỏa không thể tiếp cận, nên lực lượng chỉ có thể tiếp cận và dập lửa bằng phương tiện thô sơ, đồng thời phát quang tạo vành đai ngăn cháy lan.
Ông Nguyễn Hữu Thiết, Phó chủ tịch UBND quận Liên Chiểu, cho hay lực lượng cứu rừng bị phân tán do cùng thời điểm ở tiểu khu 16 gần đó cũng đã xảy ra vụ cháy rừng, hơn 100 người cũng đã được huy động nhưng việc khống chế đám cháy rất khó khăn do địa hình hiểm trở, không có đường mòn tiếp cận.
Tại tiểu khu 16, nguyên nhân vụ việc được xác định là do người dân đi rừng đốt củi lấy than đã gây cháy lan, hậu quả nhiều ha rừng trồng keo lá tràm của địa phương gần đó bị thiêu trụi. Hiện lực lượng kiểm lâm đang thống kê thiệt hại và làm rõ vụ việc. (Thanh Niên 25/8; Công An TP Đà Nẵng 25/8) đầu trang(
24/8, Cơ quan chức năng huyện Tương Dương cho biết, cuối tháng 7 năm 2014, Kiểm lâm địa bàn phối hợp với lực lượng Bộ đội biên phòng xã Tam Hợp và lực lượng bảo vệ rừng phòng hộ tiến hành tuần tra kiểm tra rừng khu vực biên giới và phát hiện 1 vụ khai thác rừng gỗ rừng trái phép trên một diện tích khá lớn ở khu vực biên giới.
Sau khi Hạt Kiểm lâm báo cáo tình hình, UBND huyện Tương Dương đã ban hành Quyết định số 998/QĐ-UBND ngày 31/7/2014 về việc thành lập đoàn kiểm tra liên ngành. Theo đó, đoàn gồm Lãnh đạo Hạt Kiểm lâm Tương Dương, Lãnh đạo BQL rừng phòng hộ Tương Dương, cán bộ Tổ Kiểm lâm địa bàn Tam Hợp, cán bộ Trạm bảo vệ rừng phòng hộ Tương Dương, cán bộ UBND xã Tam Hợp, cán bộ Đồn Biên phòng Tam Hợp.
Đoàn có nhiệm vụ phối hợp tiến hành kiểm tra làm rõ tình hình vụ việc khai thác lâm sản trái phép nói trên. Từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 8, đoàn đã tiến hành kiểm tra hiện trường rừng bị khai thác và điều tra nắm tình hình các đối tượng có liên quan.
Theo đó, đoàn đã phát hiện vụ khai thác rừng lớn trái phép tại khu vực biên giới xã Tam Hợp tại 5 chỏm đồi liền kề nhau thuộc các lô rừng: lô 3 khoảnh 6 và lô 3 khoảnh 10 tiểu khu 704, lô 1 khoảnh 10 tiểu khu 700; Độ cao trung bình của khu vực bị khai rừng trái phép có độ cao khoảng 1300 - 1500m so với mặt nước biển, khoảng cách từ Trạm Biên phòng cửa khẩu Tam Hợp đến đầu vị trí vùng bị chặt hạ khoảng 3,6km.
Số lâm sản bị chặt hạ đa phần là gỗ Pơ mu nhóm IIA và một cây gỗ Dổi nhóm III, phần lớn là gỗ tròn, chỉ số ít đã xẻ thành hộp, bao gồm 50 gốc chặt cưa thành 60 lóng gỗ tròn Pơ mu, Dổi và 46 tấm gỗ xẻ Pơ mu. Cơ quan chức năng xác định dấu chặt còn mới, lá cây héo chưa khô hẳn.
Tổng khối lượng lâm sản là 156,768 m3 gỗ tròn và xẻ. Trong đó (ỗ tròn Pơ mu nhóm IIA: 59 lóng = 150,534m3; Gỗ tròn Dổi: 01 lóng = 0,800m3 và Gỗ xẻ Pơ mu: 46 tấm = 5,434 m3).
UBND huyện Tương Dương cho biết thêm, khu vực rừng bị chặt phá là rừng phòng hộ vùng biên giới Việt - Lào thuộc xã Tam Hợp do Ban quản lý rừng phòng hộ Tương Dương quản lý, bảo vệ.
Sau khi vào cuộc,các cơ quan chức năng nhận định ban đầu, có 4 nhóm người liên quan đến việc khai thác rừng trái phép nói trên, họ là 1 số người dân tộc Hơ Mông thuộc 2 bản Phà Lỏm và bản Văng Môn của xã Tam Hợp.
Theo đó, UBND xã đã triệu tập các đối tượng ra Văn phòng UBND xã Tam Hợp để làm việc, tuy nhiên mới có 3 đối tượng đã chấp hành đến làm việc và tự viết bản tường trình. Theo nội dung bản tường trình đã có 2 người tự khai nhận ở cùng 1 nhóm và chặt hạ 27 cây Pơ Mu.
Xác định đây là một vụ chặt phá rừng có tổ chức với quy mô lớn, nghiêm trọng và cần được xác minh làm rõ và xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật. Đồng thời nhận thấy vụ việc có tính chất phức tạp do địa bàn xảy ra vụ việc ở vùng biên giới giáp với nước bạn Lào, người vi phạm chủ yếu là người dân tộc Mông, nằm sát biên giới và có thể do một số đối tượng tiếp tay.
Theo đó, để điều tra xử lý vụ việc thuận lợi, UBND huyện Tương Dương đã chỉ đạo và giao cho Công an huyện Tương Dương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan trên địa bàn huyện và UBND xã Tam Hợp kiên quyết điều tra làm rõ những cá nhân và tổ chức liên quan để xử lý theo quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, UBND huyện Tương Dương cũng giao cho Ban quản lý rừng Phòng hộ Tương Dương phối hợp với Đồn Biên phòng Tam Hợp thường xuyên bố trí lực lượng tăng cường tuần tra bảo vệ tài nguyên rừng khu vực Biên giới, bảo vệ nguyên trạng hiện trường và số lâm sản bị khai thác trái phép, tuyệt đối không để tẩu tán tang vật vụ việc trên.
Sau khi cơ quan Công an tổ chức khám nghiệm hiện trường xong, giao cho Hạt Kiểm lâm chủ trì tham mưu phương án đưa số lâm sản nói trên ra khỏi rừng và quản lý số lâm sản đó để phục vụ công tác điều tra xử lý.
Hiện vụ việc đang được Công an huyện Tương Dương và cơ quan liên quan phối hợp điều tra làm rõ. (Dân Trí 24/8) đầu trang(
Những năm trước đây, rừng ở vùng giáp ranh tại các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum bị "lâm tặc", "khoáng tặc" tàn phá nghiêm trọng. Nhưng, từ khi các địa phương này cùng đưa ra quy chế phối hợp, công tác quản lý, bảo vệ rừng và lâm sản ở khu vực vùng giáp ranh đã đạt được những kết quả đáng mừng.
Tuy nhiên, để những khu rừng ở vùng giáp ranh được hồi sinh, các địa phương cần "siết chặt tay" hơn nữa...Theo chân các kiểm lâm viên của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam, PV có dịp đi dọc theo các tuyến đường giáp ranh giữa các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum vào những ngày giữa tháng 8.
Mùa này, ở khu vực miền núi thường có những cơn mưa chiều ập đến, làm cho các tuyến đường đất nhão ra, khó đi, cho nên công tác tuần tra, truy quét các đối tượng khai thác, vận chuyển trái phép lâm sản gặp nhiều khó khăn. Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam Phan Tuấn, người đã có hàng chục năm gắn bó với núi rừng cho biết: Khu vực rừng giáp ranh giữa ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum là khu vực có hệ sinh thái đa dạng và phong phú; trữ lượng gỗ lớn, có những loài động vật, thực vật và dược liệu quý hiếm, đặc hữu của vùng Ðông, Tây Trường Sơn hội tụ, do đó dễ bị tác động bởi các đối tượng xâm hại đến rừng.
Những khu rừng ở đây có tác dụng phòng hộ đầu nguồn của các con sông lớn, giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống của nhân dân ở các tỉnh trong khu vực miền trung. Tuy nhiên, do địa bàn rộng, địa hình hiểm trở, nằm xa trung tâm các tỉnh và các huyện, cho nên công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp muôn vàn khó khăn.
Qua tìm hiểu PV được biết, phần lớn dân cư sinh sống ở địa bàn vùng giáp ranh là đồng bào các dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, phương thức canh tác chủ yếu là phát nương làm rẫy. Những năm gần đây, phong trào trồng rừng nguyên liệu phát triển mạnh, một số đồng bào đã lấn chiếm đất lâm nghiệp, phá rừng trái pháp luật để lấy đất sản xuất, làm cho vốn rừng ở khu vực này bị suy giảm.
Ðiều đáng nói nữa là khi các tuyến đường liên huyện, liên xã ở miền núi được đầu tư xây dựng, đi lại thuận lợi, cũng dễ tạo điều kiện cho các đối tượng vận chuyển gỗ trái phép về xuôi. Còn nhớ, cách đây chừng vài năm, khi tuyến đường nam Quảng Nam nối từ TP Tam Kỳ, qua thị trấn Trà My lên huyện Tu Mơ Rông (tỉnh Kon Tum) được hình thành đã "mở ra" cơ hội cho lâm tặc tuồn gỗ lậu khai thác được từ vùng giáp ranh qua tỉnh Kon Tum để vận chuyển về đồng bằng.
Không chỉ khai thác rừng trái phép, tình hình khai thác khoáng sản ở vùng giáp ranh tại các khu vực: Sông Bua (vùng giáp ranh giữa huyện Nam Trà My, Quảng Nam và huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi) và sông Lon (vùng giáp ranh giữa huyện Tây Trà - huyện Bắc Trà My) cũng diễn ra khá phức tạp; hàng chục ha rừng bị tàn phá do nạn khai thác vàng trái phép.
Những năm trước đây, khi các địa phương ra quân tổ chức truy đuổi, các đối tượng khai thác gỗ, khoáng sản trái phép thường lẩn tránh và ẩn nấp vào các khu vực vùng giáp ranh. Hễ bên này tổ chức truy quét, đẩy đuổi thì các đối tượng dạt sang bên kia ranh giới ẩn nấp và ngược lại..., chờ khi các cơ quan chức năng rút về thì lại tiếp tục khai thác trái phép.
Có thời điểm, Quảng Nam đã huy động lực lượng hàng trăm người tập trung truy quét nạn khai thác vàng trái phép ở khu vực Trà My (vùng giáp ranh với các huyện Tây Trà, Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi) cả tháng trời. Nhưng xong đợt rồi, các đối tượng khai thác vàng lại tiếp tục quay về khai thác, tàn phá môi trường.
Ở Quảng Ngãi cũng vậy, sau nhiều đợt đưa quân lên kiểm tra, đẩy đuổi cũng không ngăn nổi nạn khai thác trái phép ở khu vực huyện Tây Trà, nằm tiếp giáp với Quảng Nam, Phó Chủ tịch UBND huyện Nam Trà My Lê Văn Kích bộc bạch: Nhiều khi chính quyền cũng bị lúng túng trong việc ra quân truy quét, xử lý nạn khai thác rừng, lâm sản trái phép. Cứ mỗi lần ra quân, các đối tượng bỏ phương tiện, lẩn tránh vào khu rừng giáp ranh, rồi chạy ngược lên phía Kon Tum hoặc dạt sang bên tỉnh Quảng Ngãi...
Xuất phát từ thực trạng đó, vào cuối năm 2011, lãnh đạo ba tỉnh này đã có cuộc trao đổi, bàn bạc và đưa ra quy chế phối hợp trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và lâm sản vùng giáp ranh giữa các tỉnh. Theo quy chế này, chi cục kiểm lâm và hạt kiểm lâm các địa phương kịp thời thông báo cho nhau những nội dung liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng và khoáng sản; đồng thời phối hợp theo dõi các đối tượng xâm hại đến rừng để có biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời.
Nhờ nắm thông tin kịp thời, vào đầu năm 2013, Ðội Kiểm lâm cơ động và Phòng cháy chữa cháy hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi đã phối hợp, chặn đường, bắt giữ một vụ vận chuyển gỗ với khối lượng lớn từ Quảng Nam vào Quảng Ngãi để tiêu thụ. Và cũng qua phối hợp, trong năm 2013, lực lượng kiểm lâm của tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum đã tóm gọn các đối tượng vận chuyển hàng chục mét khối gỗ trái phép trên tuyến đường Hồ Chí Minh.
Ðáng nói là, Hạt Kiểm lâm Bắc Trà My đã phối hợp với Hạt Kiểm lâm Tây Trà tổ chức nhiều đợt truy quét nạn khai thác lâm sản và khoáng sản trái phép tại vùng giáp ranh sông Lon. Qua đó, đã phá hủy nhiều lán trại và các phương tiện khai thác vàng trái phép, đồng thời đưa ra khỏi địa bàn hàng chục đối tượng làm vàng trái phép.
Mới đây, lực lượng chức năng của huyện Núi Thành (Quảng Nam) đã phối hợp với lực lượng kiểm lâm các địa phương lân cận mở đợt truy quét khai thác vàng làm xâm hại đến khu rừng giáp ranh giữa huyện Núi Thành với các huyện: Bình Sơn, Trà Bồng (Quảng Ngãi). Tại đây, cơ quan chức năng đã phá hủy hơn 10 máy nổ, máy phát điện, máy xay đá cùng gần chục lán trại...
Theo số liệu tổng hợp của các tỉnh, qua hơn hai năm thực hiện quy chế phối hợp, các địa phương đã tổ chức hơn một nghìn đợt kiểm tra truy quét các đối tượng xâm hại đến tài nguyên rừng vùng giáp ranh. Qua đó, cơ quan chức năng đã phát hiện, lập biên bản 554 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng; tịch thu 550 m3 gỗ (quy tròn), gần 100 ô-tô, mô-tô, xe máy và hàng chục cưa răng, thu nộp vào ngân sách nhà nước hơn 6,2 tỷ đồng.
Dù đã đạt được kết quả bước đầu như vậy, nhưng công tác quản lý, bảo vệ rừng và lâm sản ở khu vực vùng giáp ranh còn nhiều điều cần tiếp tục khắc phục. Lãnh đạo các tỉnh thừa nhận, thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được thường xuyên, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Việc phối hợp kiểm tra, phát hiện, xử lý các đối tượng chưa được duy trì đều đặn; công tác xác minh, phân loại đối tượng có thủ đoạn phá hại rừng còn hạn chế; tình trạng vận chuyển, buôn bán lâm sản trái phép trên tuyến đường Hồ Chí Minh còn diễn biến phức tạp và ngày càng tinh vi nhưng chưa được ngăn chặn và xử lý triệt để.
Mặt khác, công tác phòng cháy, chữa cháy rừng vùng giáp ranh chưa được các địa phương quan tâm đúng mức. Chủ tịch UBND xã Pờ Ê (huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) Nguyễn Ðức Thọ bày tỏ phấn khởi: Ðến nay, công tác phối hợp quản lý, bảo vệ rừng và lâm sản ở khu vực vùng giáp ranh đã đạt được kết quả đáng mừng; các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng tại vùng giáp ranh của địa phương với các xã: Ba Ngạc, Ba Tiêu (huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi) đã được hạn chế, việc phá rừng làm nương rẫy đã được kiểm soát chặt chẽ.
Tuy nhiên, các địa phương trong vùng giáp ranh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản đến cộng đồng nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho nhân dân.
Ðồng thời tăng cường tuần tra, kiểm tra, phát hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm các đối tượng khai thác rừng và khoáng sản trái phép. Có vậy, mới hy vọng ngăn chặn kịp thời nạn chảy máu rừng ở vùng giáp ranh. (Nhân Dân 25/8, tr1) đầu trang(
21.8, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã có văn bản gửi UBND tỉnh liên quan đến việc cơ quan CA TP.Đông Hà tạm giữ 2,6m3 gỗ cẩm lai của Cty TNHH MTV Hân Thịnh (LĐ số 153 đã có bài viết).
Văn bản khẳng định, trong hồ sơ vi phạm hành chính (VPHC) của Cty Hân Thịnh, sau ngày 2.3 đến 4.8, cơ quan CA không có quyết định kéo dài thời gian tạm giữ tang vật; trong biên bản VPHC được lập ngày 4.8, cơ quan CA cũng không thể hiện việc tạm giữ tang vật VPHC đối với chủ gỗ (ông Hòa, GĐ Cty Hân Thịnh).
Mức xử phạt do cơ quan CA đề nghị không đúng quy định của pháp luật. Chi cục Kiểm lâm đề nghị chuyển giao hồ sơ cùng tang vật 2,6m3 gỗ cẩm lai cho cơ quan kiểm lâm cùng cấp tiếp nhận để xử lý. (Lao Động 22/8, tr7) đầu trang(
21.8, trung tá Phạm Hữu Tình - điều tra viên Cơ quan điều tra Công an quận 1, TPHCM đã có buổi làm việc với ông Uông Bá Quyển (ngụ thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắc Nông; bị án trong vụ mua bán hổ Đông Dương xảy ra vào tháng 11.2007 tại quận 1) để làm rõ đơn tố giác đồng phạm của ông Quyển.
Liên quan đến vụ án này, có một đối tượng đặt mua hổ tên Đông. Theo bản án, khi nào cơ quan điều tra bắt được Đông sẽ xử lý sau. Theo hồ sơ vụ án, vào tháng 9.2007, ông Đông nhờ ông Quyển tìm mua một con hổ và một con gấu để nấu cao hổ cốt.
Đến tháng 11.2007, ông Quyển tìm được hàng, trên đường đi giao cho ông Đông tại quận 8, TPHCM thì bị kiểm lâm và công an bắt giữ. Sau khi ra tù, ông Quyển đã đi tìm và đến tháng 6.2014 thì phát hiện ông Đông là thượng tá, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường phía nam (C49) Bộ Công an.
Thiếu tướng Nguyễn Xuân Lý - Cục trưởng C49 - xác nhận, thượng tá Võ Văn Đông là người đặt mua hổ và gấu trong vụ án xảy ra năm 2007. Tuy nhiên, khi được hỏi sâu thêm về vụ việc này, Thiếu tướng Lý từ chối và cho biết: “Đây là chuyên án, là bí mật nhà nước, nên sẽ không cung cấp thông tin cho báo chí”. Hiện Cơ quan điều tra Công an quận 1 đang làm rõ những thông tin do ông Uông Bá Quyển cung cấp. (Lao Động 23/8, tr5) đầu trang(
Ngày 22.8, lực lượng CA Môi trường tỉnh Thừa Thiên – Huế cho biết, vừa tiến hành bắt giữ 3 vụ vận chuyển gỗ trái phép với khối lượng 10m3.
Vào khoảng 4h sáng, tại xã Bình Thành (thị xã Hương Trà), lực lượng CA phát hiện 19 phách gỗ chua vô chủ được tập kết tại bìa rừng.
Trước đó, tại thôn Tân Mỹ (xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền), lực lượng CA liên tiếp phát hiện bắt giữ 2 xe tải vận chuyển gỗ trái phép. Xe thứ nhất do tài xế Nguyễn Hữu Tài (trú tại xã Phong Mỹ) chở 20 phách gỗ chò, chũa với khổi lượng khoảng 4m3.
Xe thứ 2 do tài xế Phan Văn Xuân (trú tại xã Phong Mỹ) chở 29 phách gỗ cùng chủng loại với khối lượng hơn 4m3.  Số gỗ trên 2 xe không có dấu búa kiểm lâm, tài xế không trình được giấy tờ hợp pháp tại thời điểm bị phát hiện bắt giữ.
Hiện, lực lượng CA Môi trường đã bàn giao số gỗ trên cho kiểm lâm xử lý theo thẩm quyền. (Lao Động 23/8; Nhân Dân 22/8) đầu trang(
Trong khi rất nhiều cánh rừng ở Việt Nam bị tàn phá nghiêm trọng thì những cánh rừng nguyên sinh ở huyện Thường Xuân (Thanh Hóa) vẫn còn nguyên vẹn. Đó là thành quả của công tác quản lý của chính quyền huyện Thường Xuân, cùng với quân dân các xã vùng cao biên giới.
Đến với Bát Mọt mới thấy rõ ‘rừng vàng, biển bạc’. Những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn với một màu xanh ngút quá tầm mắt. Nhiều loài muông thú, các loại gỗ và thực vật quý hiếm cũng vô cùng phong phú.
Bát Mọt là một xã vùng cao miền biên giới của huyện Thường Xuân, giáp ranh với huyện Hủa Phăn (Sầm Tớ) của nước bạn Lào và huyện Quế Phong (Nghệ An). Cuộc sống người dân nơi đây nhìn chung vẫn còn khó khăn, hầu hết là người dân tộc thiểu số. Họ sống trong những ngôi làng nhỏ dọc chân núi và làm ruộng bậc thang.
Mặc dù trong nhiều năm, Bát Mọt là một điểm nóng về đói nghèo của huyện, nhưng hiện tượng phá rừng để làm giàu không xảy ra. Các gia đình trong xã đều được nhận khoán rừng để chăm sóc, bảo vệ và trồng mới rừng.
Dưới sự chỉ đạo sát sao của huyện Thường Xuân, xã phối hợp với đồn biên phòng Bát Mọt tăng cường bảo vệ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên với 16.390ha rừng tự nhiên. Chính quyền luôn đưa ra biện pháp bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng để tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện đúng quy định.
Ông Phan Thanh Bình, Đồn Phó Đồn biên phòng Bát Mọt cho biết: ‘Công tác bảo vệ rừng được thực hiện rất nghiêm túc. Chúng tôi tiến hành kiểm tra, tuần tra thường xuyên, tuyệt đối không để xảy ra nạn chặt phá rừng. Thậm chí, khi thấy người dân cầm dao, cầm cưa đến gần khu vực rừng nguyên sinh là phải kiểm tra và có biện pháp xử phạt ngay nếu phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm’.
Nhờ tinh thần tận tụy, quyết liệt trong công tác bảo vệ rừng của các cán bộ chiến sĩ biên phòng và chính quyền xã Bát Mọt mà những cánh rừng nguyên sinh với nhiều tài nguyên thiên nhiên quý giá còn được giữ gìn.
Ông Cầm Bá Đứng, Phó Chủ tịch huyện Thường Xuân chia sẻ: ‘Mặc dù Thường Xuân vẫn còn là một trong những huyện nghèo của cả nước, bởi thu nhập chủ yếu của người dân chỉ từ nghề nông và lâm nghiệp, nhưng tiềm năng chúng ta có là rất lớn nằm ở tài nguyên rừng. Trong tương lai không xa, Thường Xuân có thể phát triển thành những khu du lịch sinh thái, chắc chắn sẽ thu hút những người thích khám phá vẻ đẹp thiên nhiên’..
Bên cạnh những thành tích đã làm được, vẫn còn những vấn đề đáng băn khoăn trong công tác bảo vệ động vật hoang dã. Hiện tượng người dân săn thú rừng làm thương phẩm buôn bán vẫn còn tồn tại, rất cần sự quyết liệt hơn nữa của cơ quan chức năng trong vấn đề này.
Thường Xuân đang có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng lớn. Việc bảo vệ và phát huy làm sao để giúp nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo thành công mà không nguy hại đến nguồn tài nguyên phong phú, đó là bài toán không chỉ với các cấp chính quyền mà còn cần ý thức  và trách nhiệm chung của đồng bào vùng cao Bát Mọt. (Người Đưa Tin 25/8) đầu trang(
Liên quan tới việc lâm tặc phá rừng phòng hộ tại thôn Cụt Ạc, xã Xuân Chinh (huyện Thường Xuân), Chi cục kiểm lâm Thanh Hóa cho biết đang làm rõ trách nhiệm những người liên quan, vì khối lượng gỗ đủ cơ sở xem xét khởi tôc vụ án.
Sau khi có loạt bài phản ánh lâm tặc phá rừng phòng hộ tại thôn Cụt Ạc, Chi cục kiểm lâm Thanh Hóa đã chỉ đạo Hạt trưởng kiểm lâm huyện Thường Xuân báo cáo UBND huyện, xã Xuân Chinh phối hợp tổ chức kiểm tra, xác minh.
Theo báo cáo của Chi cục kiểm lâm Thanh Hóa, thông tin ban đầu sau khi kiểm tra cho biết, từ ngày 23/7 trạm kiểm lâm Bù Đồn phối hợp với UBND xã Xuân Chinh kiểm tra và phát hiện tại lô 7, khoảnh 1, tiểu khu 544 bị khai thác trái phép 3 cây gỗ nhóm 6, đã được cắt thành 11 khúc, khối lượng 1,2m3.
Tiếp đó, ngày 26/7 theo tố giác của nhân dân trạm kiểm lâm Bù Đồn và UBND xã lại phát hiện 10 hộp gỗ xẻ (nhóm 6) đang tập kết tại đập tràn thôn Chinh khối lượng 1,2m3; ngày 31/7 lại tiếp tục phát hiện 21 khúc gỗ tròn, khối lượng 3,4m3; ngày 1/8 phát hiện 21 khúc gỗ tròn 2,9m3 đang chuẩn bị đưa xuống suối.
Cho đến 5/8, trạm kiểm lâm Bù Đồn tiếp tục mở rộng kiểm tra phát hiện tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 561; lô 3 khoảnh 5, tiểu khu 554 có 11 cây gỗ nhóm 6, trữ lượng 9,1m3 bị khai thác trái phép, gỗ đã được lấy hết khỏi rừng; ngày 16/8, kiểm tra tại suối Cụt Ạc vẫn còn phát hiện 15 khúc gỗ tròn nhóm 6 đang tập kết tại bờ suối, khối lượng 2,3m3. Như vậy trong các lần kiểm tra, bắt giữ kiểm lâm và UBND xã đã đưa được hơn 10m3 gỗ về trụ sở UBND xã, còn lại hơn 9m3 gỗ đã bị lấy mất khỏi rừng.
Nguồn tin của VietNamNet, con số báo cáo của Chi cục kiểm lâm vẫn chưa chính xác, thực tế số lượng gỗ còn rất nhiều. Phóng viên đã mục sở thị, có khoảnh rừng lâm tặc đã chặt tới hàng chục gốc, chưa kể đến việc càng đi sâu vào bên trong diện tích phá càng nhiều.
Ông Nguyễn Văn Vân, Trưởng phòng Thanh tra Pháp chế (Chi cục kiểm lâm Thanh Hóa) cho biết báo nêu là có cơ sở. Tuy nhiên kết quả kiểm tra trên vẫn chưa chính xác. Hiện tại Chi cục vẫn đang chỉ đạo
“Với khối lượng gỗ như thực tế là đã đủ cơ sở xem xét khởi tố vụ án. Tuy nhiên, đây chỉ mới có dấu hiệu, cần phải xem xét lại đối tượng (rừng) trên thuộc loại rừng gì, phải được xác minh kỹ lưỡng trên GPS mới có đủ cơ sở”, ông Vân cho biết.
Liên quan tới việc để xảy ra phá rừng trên, ông Vân cho biết sẽ xử lý nghiêm các đối tượng liên quan theo đúng quy định pháp luật. Hiện nay, Chi cục cũng đang làm rõ từng các nhân, tập thể liên quan, nhất là đầu nậu phá rừng. Cụ thể, trước tiên phải làm rõ trách nhiệm của kiểm lâm địa bàn. Theo ông Vân, để diễn ra thực trạng trên chứng tỏ kiểm lâm địa bàn không nắm bắt được địa bàn.
Hơn nữa, việc UBND xã “cấp phép” cho các hộ dân khai thác là hoàn toàn sai, xong theo ông Chủ tịch xã này thì có cả kiểm lâm địa bàn đi khảo sát, xác nhận số cây, khoảnh rừng.
Tiếp theo làm rõ trách nhiệm trạm kiểm lâm Bù Đồn về việc quản lý. Thực tế việc khai thác đã kéo dài hơn một tháng, xong đến khi rừng “tan nát” mới phát hiện ra, hay cố tình không phát hiện?.
Bởi theo thông tin, trung bình mỗi tuần có vài lượt xe ô tô vào bốc gỗ ra ngoài, người dân đã gọi điện báo tin, xong suốt thời gian trên trạm kiểm lâm không hề bắt được một xe gỗ nào!?. Và cuối cùng là trách nhiệm của người đứng đầu là Hạt trưởng hạt kiểm lâm liên quan tới công tác tham mưu.
Bên cạnh đó, Chi cục chỉ đạo Hạt kiểm lâm tham mưu cho UBND huyện xem xét trách nhiệm của chủ tịch xã về việc “cấp phép” khai thác gỗ trái phép; ban chỉ đạo về kế hoạch bảo và phát triển rừng, trưởng thôn và các hộ gia đình được giao rừng để rừng bị khai thác trái phép nhưng chưa có biện pháp đấu tranh ngăn chặn.
Từ thực trạng trên, dư luận cho rằng lâm tặc phá rừng công khai là có sự tiếp tay của kiểm lâm? Và việc “bất lực” của kiểm lâm dẫn đến thời gian qua có rất nhiều rừng phòng hộ, đầu nguồn trên địa bàn bị chặt phá, cụ thể VietNamNet đã phản ánh.
Lý giải về điều này, ông Vân cho rằng lực lượng kiểm lâm hiện nay rất mỏng. Với diện tích 700.000ha rừng, nhưng chỉ có hơn 300 cán bộ kiểm lâm. Do vậy rừng bị tàn phá là do chính quyền địa phương làm ngơ không vào cuộc. Khi họ đã đồng loạt vào cuộc thì sẽ không ai dám phá rừng nữa.
“Còn việc tiếp tay, nhận hối lộ như dư luận phản ánh chúng ta cũng chỉ biết với nhau như thế, nhưng thực tế không có cơ sở nào để chứng minh, đây cũng là điều rất khó để chúng tôi kiểm soát”.
“Chúng tôi cũng đã báo cáo với UBND tỉnh, Sở NN-PTNT để có hướng chỉ đạo. Sau khi có kết luận cuối cùng, căn cứ vào đó sẽ xử lý nghiêm đúng người đúng tôi theo pháp luật”, ông Vân cho biết. (VietnamNet 23/8) đầu trang(
Việc tôn tạo đền Hàn Sơn ở xã Hà sơn, huyện Hà Trung được UBND huyện Hà Trung quyết định phê duyệt vào những ngày cuối năm 2013. Lạ một điều là diện tích mở rộng tôn tạo đền lại nằm trong quy hoạch rừng phòng hộ mà đến nay vẫn chưa hề được cấp có thẩm quyền chuyển đổi mục đích sử dụng.
Cùng với đó, đất rừng phòng hộ nơi đây vẫn được tuồn trái phép ra ngoài như thách thức cơ quan chức năng? Từ Quốc lộ 217 vào không xa là ngã Ba Bông nơi “con gà gáy năm huyện cùng nghe” và cũng là nơi đền Hàn Sơn (hay còn gọi là đền Đức Ông) ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung tọa lạc. Một ngôi đền linh thiêng mà bất kỳ du khách nội hay ngoại tỉnh đều muốn ghé thăm mỗi khi đặt chân đến vùng đất này. Ấy vậy mà gần một năm trở lại đây, việc tôn tạo, mở rộng ngôi đền này lại khiến dư luận bất bình.
Theo sự chỉ dẫn của người dân, PV có mặt tại khu vực đền Hàn Sơn, phía tây một khu vực rộng lớn đồi thông, bạch đàn và keo đã bị san ủi thẳng tắp. Những gốc thông, gốc keo lâu năm trên đất rừng phòng hộ nằm trơ gân dưới nắng gió. Cạnh đó, các công trình dần dần được hình thành. Ngay sát tuyến đường liên xã, những chiếc xe vẫn nối đuôi nhau chờ đến phiên “ăn” đất rồi tỏa đi các hướng.
Trao đổi về vấn đề này, ông Hoàng Đình Dưỡng – Chủ tịch UBND xã Hà Sơn cho biết: Việc mở rộng, tôn tạo đền Hàn Sơn được bắt đầu từ ngày 31/12/2013 và được sự đồng ý chủ trương của UBND huyện Hà Trung, nhà thầu của dự án là Công ty Cổ phần Xây dựng và Thương mại Mạnh Phú (gọi tắt là Công ty Mạnh Phú).
Hiện nay đang vướng mắc đất rừng và các cơ quan chức năng từ huyện đến tỉnh đang giải quyết, xã đã chỉ đạo quyết liệt nên không thể xảy ra việc khai thác đất rừng trái phép? Tuy nhiên, khi PV đưa những hình ảnh về tình trạng khai thác đất rừng vẫn ngang nhiên diễn ra thì vị này viện lý do là sáng đi họp huyện nên không hay biết anh em ở nhà có “làm” ít xe để đổ đường?
Chẳng hiểu ít xe là bao nhiêu khi chỉ tính riêng một buổi sáng đã có vài chục lượt xe ra vào tấp nập? Hơn nữa, những chiếc xe này lại không hề được che bạt, khiến con đường thêm bịt bùng vì bụi, gây ô nhiễm môi trường và nguy hiểm cho người tham gia giao thông.
Sau nhiều cuộc gọi điện xuống cấp dưới thì ông Dưỡng cho biết việc khai thác đất này được thực hiện bởi Công ty Mạnh Phú, đồng thời một cán bộ tên Cường của công ty này cũng đã xác nhận việc khai thác đất ở đền Hàn Sơn ngay tại UBND xã Hà Sơn với Chủ tịch xã (!?).
Tuy nhiên, khi PV Báo Tài nguyên & Môi trường liên hệ qua điện thoại với ông Hoàng Chí Minh – Giám đốc Công ty Mạnh Phú thì ông này cho rằng công ty không khai thác mà là đơn vị nào đấy làm và không quên dặn PV rằng “thấy đứa nào làm thì báo xã thu máy cho chừa đi”?
Trong Công văn số 2015/SNN&PTNT – PTNT ngày 14/08/2014 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hóa ghi rõ: Việc UBND huyện Hà Trung ban hành Quyết định 1207/QĐ – UBND ngày 30/05/2013 phê duyệt báo cáo KTKT, TKBVTC – dự toán công trình phục dựng tôn tạo Di tích danh lam Văn hóa và danh thắng đền Hàn sơn xã Hà Sơn, huyện Hà Trung trên diện tích 1,9 ha, thuộc khoảnh 9, tiểu khu 154 đất lâm nghiệp có hiện trạng rừng trồng keo, bạch đàn được quy hoạch rừng phòng hộ khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác là chưa đúng quy định tại Điều 27 của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Điều 28 và Điều 29 Nghị định 24/2006/NĐ – CP ngày 03/03/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
Ngoài ra, khi thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác Công ty Mạnh Phú chưa hề có phương án trồng rừng thay thế được cấp thẩm quyền phê duyệt theo tinh thần của Thông tư số 24/2013/TT – BNNPTNT ngày 06/05/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 28 của Luật Khoáng sản năm 2010 chỉ rõ: Khu vực cấm hoạt động khoáng sản gồm có: Khu vực đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ hoặc đất quy hoạch trồng rừng phòng hộ, khu bảo tồn địa chất.
Rõ ràng Quyết định 1207/QĐ – UBND của UBND huyện Hà Trung đã để lại nhiều hệ lụy khiến người dân bất bình. Câu hỏi được nhiều người đặt ra: Phải chăng UBND huyện Hà Trung đã “ bật đèn xanh” để cho lâm tặc phá rừng và đánh cắp tài nguyên? Rất mong UBND tỉnh làm rõ những tắc trách, sai trái và xử lý nghiêm những cá nhân, tập thể để ra sai phạm trên. (Tài Nguyên & Môi Trường 22/8) đầu trang(
Hàng trăm cây phi lao cổ thụ 70-80 năm tuổi bị chặt phá không thương tiếc, cả dải rừng phi lao phòng hộ ven biển, có chức năng bảo vệ người dân khỏi bão tố, cát và gió biển chỉ trong một ngày bị triệt hạ, chỉ còn trơ lại một vùng cát trắng.
Những ngày đầu tháng 7, nhận được tin cấp báo của người dân khu tái định cư thôn Ba Đồng, thuộc xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, PV vào chứng kiến cả rừng phi lao cổ thụ ở đây bị chặt phá tan hoang. Không còn màu xanh ngút tầm mắt, với hàng trăm thân cây phi lao cổ thụ 2-3 người ôm, chỉ còn những hố cát sâu hoắm, cùng với vài ba người đàn bà đang đội nắng sàng, sảy, nhặt nhạnh những mẫu than phi lao còn sót lại.
“Họ đưa máy móc vào chặt phá rừng phi lao ni cách đây một tuần rồi các chú ạ. Hàng trăm cây phi lao to rứa, mà họ chặt nhoáng trong 3-4 ngày là hết. Nhiều cây cổ thụ đẹp, họ bững lên xe đưa đi, còn lại thì cưa, xẻ lấy gỗ, phần cành, lá sót lại thì họ đốt hết”- một người phụ nữ nói với PV.
Được biết, rừng phi lao cổ thụ này có từ thời Pháp thuộc, tuổi đời ít nhất cũng 70-80 năm. “Mỗi cây mọc ngay hàng, thẳng lối đều tăm tắp. Cứ cách 2m là một cây cổ thụ 2-3 người ôm. Gần trăm năm qua đã bao bọc, bảo vệ cho người dân vùng ven biển này, rứa mà họ nỡ triệt hạ chỉ để dành đất cho doanh nghiệp nuôi tôm”- ông Điểm, người dân Ba Đồng bức xúc.
Theo người dân nơi đây, thì rừng phi lao cổ thụ này thuộc diện tích rừng phòng hộ ven biển bao đời nay, nhưng từ khi Công ty TNHH Grobest Việt Nam vào trình dự án nuôi tôm trên cát sạch, thì chính quyền nhẫn tâm “dâng đất, chặt phá rừng” để cho doanh nghiệp làm.
Điều đáng nói, dự án này ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, cũng như sự an toàn trước mỗi mùa gió chướng của hàng trăm hộ dân vùng tái định cư, nhưng chẳng một người dân nào được thông tin đầy đủ, chỉ đến khi xe, máy của doanh nghiệp vào chặt phá rừng, thì người dân mới biết.
“Ngày đơn vị thi công đưa máy móc vào chặt phá rừng, bà con trong thôn ra ngăn cản, nhưng không được, học cứ chặt, cứ phá bất chấp sự phản đối của người dân chúng tôi”- Bà Quèn, 77 tuổi cho biết.
Tìm hiểu kỹ hơn, PV được biết Dự án nuôi tôm trên cát công nghệ cao do Công ty TNHH Grobest Việt Nam làm chủ đầu tư. Tháng 2/2014 đã có công văn xin tỉnh Hà Tĩnh chủ trương, đến ngày 26/3/2014 UBND tỉnh đã có văn bản đồng ý chủ trương cho công ty TNHH Grobest Việt Nam khảo sát, thực hiện các trình tự thủ tục để triển khai, đồng thời giao cho Ban quản lý khu kinh tế chủ trì, phối hợp với các sở: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, kế hoạch đầu tư, Tài nguyên môi trường và huyện Kỳ Anh thực hiện.
UBND tỉnh Hà Tĩnh còn “ưu ái” chỉ đạo “sớm triển khai dự án và nuôi tôm ngay trong quý II/2014”. Phải chăng vì UBND tỉnh “nóng ruột” thực hiện dự án như vậy, nên mặc dầu khu đất doanh nghiệp khảo sát, lập dự án là vùng rừng phi lao phòng hộ, có tuổi đời 70-80 năm, nhưng tỉnh vẫn quyết liệt cho doanh nghiệp làm bằng được, bằng cách có công văn điều chỉnh quy hoạch cục bộ Khu kinh tế Vũng Áng, điều chỉnh khu đất khoảng 40h tại thôn Ba Đồng (nơi có rừng phi lao cổ thụ phòng hộ) từ cây xanh sinh thái tự nhiên sang nuôi trồng thủy sản.
Càng bất thường hơn, khi dự án đang trong giai đoạn khảo sát, dự kiến đền bù cho người dân, thì doanh nghiệp lại ngang nhiên vào chặt phá rừng phòng hộ. Ngang ngược hơn, trong quá trình chặt phá rừng phi lao phòng hộ này, lực lượng Kiểm lâm địa bàn đã đến kiểm tra, lập biên bản nhưng phía doanh nghiệp vẫn không chấp hành, sau 3-4 ngày cả khu rừng với gần 200 gốc cây phi lao cổ thụ bị triệt hạ ngổn ngang.
Trao đổi với PV, ông Lê Văn Chương- Chủ tịch UBND xã Kỳ Phương cho biết “đây là rừng phòng hộ, trồng từ thời pháp, sau ta có trồng lại, trồng dắm vô, rừng có diện tích khoảng 36 ha, bao đời nay bảo vệ dân vùng ven biển đó. Sau này, tỉnh có quy hoạch thành hành lang cây xanh từ năm 2009, nhưng khi chặt thì chưa có quyết định chuyển đổi rừng phòng hộ của tỉnh”.
Ông Chương cũng khẳng định “Dự án này xã có được thông báo, nhưng vẫn do các ông ở trên làm”. Và cho biết thêm “Khi doanh nghiệp vào chặt, thủ tục vẫn chưa đầy đủ, Kiểm lâm huyện có vào và gọi cán bộ xã xuống, lập biên bản đình chỉ vì chưa đầy đủ thủ tục. Nhưng sáng hôm sau thì vẫn tiếp tục triển khai, họ chặt khoảng 304 ngày thì xong, với lực lượng đông, dử dụng cưa máy…”.
Nói thêm về sự hợp lý của dự án, cũng như việc chặt rừng phi lao phòng hộ, vị Chủ tịch xã có vẻ cam chịu “Xã thấy không hợp lý nhưng vì họ cam kết sử dụng lao động tại địa phương nên cũng hi vọng giải quyết được số lao động dôi dư cho con em trên địa bàn xã. Họ cam kết bằng văn bản như vậy nhưng không biết khi đi vào thực hiện thì thế nào….”.
Như vậy, bằng bất cứ sự biện minh nào, thì việc chặt hàng chục ha rừng phi lao cổ thụ phòng hộ ven biển, chỉ để phục vụ dự án nuôi trồng thủy sản ở vùng tái định cư này là không thể chấp nhận được. Càng không thể chấp nhận hơn, khi dự án đang triển khai, các trình tự thủ tục đang được thực hiện, doanh nghiệp đã ngang nhiên đưa người và máy móc vào triệt phá rừng phòng hộ một cách tàn nhẫn. (Hà Tĩnh News 21/8) đầu trang(
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn huyện Phù Cát đã xảy ra 12 vụ cháy rừng tại 8 xã, làm thiệt hại hơn 121,5 ha rừng, chủ yếu là rừng trồng keo và bạch đàn. Đây là năm Phù Cát bị hạn hán nghiêm trọng nhất, và xảy ra nhiều vụ cháy rừng nhất kể từ trước đến nay.
Trong đó, từ 6.8 đến 13.8, đã xảy ra 5 vụ cháy rừng làm thiệt hại gần 91 ha. Tuy các vụ cháy rừng đều được phát hiện sớm, Ban chỉ huy phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) huyện đã phối hợp với các địa phương, các ngành chức năng và các chủ rừng tổ chức dập lửa, hạn chế được thiệt hại, song do thời tiết nắng nóng, nguồn nước khan hiếm, diện tích rừng trồng bị khô, chết rất nhiều, việc chữa cháy gặp nhiều khó khăn.
Để ngăn chặn tình trạng cháy rừng tiếp diễn, huyện Phù Cát đã triển khai những biện pháp cấp bách PCCCR, tập trung chỉ đạo các ngành chức năng, các địa phương và chủ rừng tăng cường tuyên truyền phòng chống cháy rừng trong nhân dân, chủ động lực lượng và phương tiện thực hiện các biện pháp PCCCR. (Báo Bình Định 21/8) đầu trang(
Nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến, UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định số 22/2014 về quy định mức chi cho các tổ chức, cá nhân được huy động để ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái pháp luật và phòng cháy, chữa cháy rừng.
Kinh phí sẽ hỗ trợ cho các đối tượng được huy động hoặc tự nguyện tham gia ngăn chặn tình trạng phá rừng trái pháp luật về phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ chi phí tiêu hao nhiên liệu, thiệt hại cho phương tiện (trừ phương tiện của chủ rừng) được huy động để ngăn chặn phá rừng trái phép và phòng cháy, chữa cháy.
Các khoản chi gồm: Bồi dưỡng cho người được huy động để ngăn chặn tình trạng phá rừng trái phép và phòng cháy, chữa cháy; tặng quà thăm hỏi, động viên cho các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đột xuất ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái pháp luật và PCCC rừng có thành tích xuất sắc hoặc bị thương trong khi làm nhiệm vụ.
Ngoài ra, còn quy định mức chi cho các đối tượng khi tham gia chỉ đạo, điều hành, họp bàn biện pháp triển khai nhiệm vụ đột xuất ngoài giờ làm việc để ngăn chặn tình trạng phá rừng trái phép và PCCC rừng. (Đoàn ĐBQH & HĐND Quảng Nam 21/8) đầu trang(
Ngoài có đường biên giới chung với Khu Bảo tồn thiên nhiên quốc gia Nakai Nam Theun thuộc tỉnh Bô-ly-khăm-xay và Khăm-muộn của nước bạn Lào thì Hà Tĩnh còn có nhiều diện tích rừng giáp ranh với Quảng Bình.
Dù còn nhiều khó khăn nhưng công tác quản lý, bảo vệ rừng ở các khu vực này những năm gần đây đã được các chủ rừng, địa phương và cơ quan chức năng quan tâm hơn. Nhờ đó, tình hình khai thác, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng lâm sản trái phép đã dần yên ắng, các vụ việc nổi cộm ngày càng được hạn chế...
Rừng giáp ranh là khu vực rừng nhạy cảm, dễ bị xâm hại, những năm qua, các chủ rừng trên địa bàn tăng cường công tác quản lý, bảo vệ tài sản được giao, chủ động triển khai các biện pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Các BQL rừng phòng hộ Nam Hà Tĩnh, Ngàn Sâu, Công ty TNHH MTV Chúc A, Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ phối hợp thường xuyên với BQL rừng phòng hộ Tuyên Hóa, Minh Hóa (Quảng Bình) để trao đổi thông tin, xây dựng kế hoạch phối hợp với các ngành chức năng trên địa bàn tổ chức kiểm tra, truy quét lâm tặc nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng xâm hại rừng thuộc lâm phần mình quản lý.
Các chủ rừng cũng đã phối hợp chặt chẽ với địa phương và các cơ quan chức năng để tăng cường tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật, cải thiện đời sống theo các chương trình xóa đói giảm nghèo, triển khai các dự án cơ sở hạ tầng và đầu tư phát triển, xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng bằng các chính sách giao đất, giao rừng, phát triển kinh tế trang trại...
Giám đốc BQL rừng phòng hộ Ngàn Sâu (Hương Khê) Nguyễn Kim Hùng cho biết: “Chúng tôi là đơn vị có khá nhiều diện tích giáp ranh với 2 huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa như tiểu khu 270, 274, 269, 266...
Do tính chất phức tạp, đặc thù của khu vực giáp ranh nên công tác bảo vệ rừng ở các khu vực này luôn được chúng tôi quan tâm, thực hiện khá tốt. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng đơn vị vẫn bố trí tương đối đầy đủ lực lượng, phương tiện, kinh phí để đóng chốt, ngăn chặn, truy đuổi, bảo vệ lâm phần nên tình hình cơ bản ổn định. Ngoài ra, chúng tôi phối hợp với các cơ quan chức năng và các đơn vị của tỉnh bạn để thực hiện nhiệm vụ chung”.
Khu vực rừng giáp ranh là địa bàn rất khó khăn trong việc triển khai thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ rừng, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Thực tế cho thấy nguy cơ xâm hại rừng ở khu vực này rất cao và khó khăn trong kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn, xử lý. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trên lĩnh vực này, những năm gần đây, lực lượng kiểm lâm Hà Tĩnh đã có nhiều hoạt động tích cực, hiệu quả.
Các hạt kiểm lâm Hương Khê, Kỳ Anh, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng Trạch cũng như đội kiểm lâm cơ động và PCCCR của 2 tỉnh thường xuyên trao đổi thông tin, diễn biến tình hình về công tác quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản tại địa bàn giáp ranh. Qua đó, thống nhất xây dựng phương án, tổ chức kiểm tra, truy quét, tuần tra, kiểm soát lâm sản để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm.
Các bên liên quan cũng tăng cường phối hợp trong kiểm soát khai thác, săn bắt, buôn bán, vận chuyển động vật, thực vật trong nội địa và qua biên giới. Ngoài ra, lực lượng kiểm lâm thực hiện tốt việc hợp tác tin báo tội phạm, phối hợp với công an, bộ đội biên phòng, hải quan kiểm tra, bắt giữ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, triệt phá nhiều đường dây buôn bán, vận chuyển lâm sản và động vật hoang dã trái phép...
Lực lượng kiểm lâm cùng với các chủ rừng, cơ quan chức năng, chính quyền các cấp chung tay bảo vệ các cánh rừng ở những nơi được xem là “phên giậu”. (Báo Hà Tĩnh 23/8) đầu trang(
Nhận được nguồn tin báo của quần chúng nhân dân ô tô tải màu trắng hiệu THACO loại 750 kg; mang biển kiểm soát 93C-00813 đang vận chuyển lâm sản trái phép đang lưu thông từ hướng cửa khẩu Hoàng Diệu về hướng chợ Bù Đốp.
Tổ Kiểm lâm cơ động và Phòng cháy chữa cháy rừng của Hạt ( Tổ công tác)  đã triển khai  tuần tra trên tuyến đường liên thôn thuộc khu vực ấp 6 - xã Thiện Hưng-huyện Bù Đốp, vào lúc 05 giờ 00 phút ngày 13/8 phát hiện xe ô tô tải đang lưu thông trên đoạn đường trên, có đặc điểm và biển kiểm soát giống như tin báo.
Tổ công tác ra  hiệu lệnh dừng  xe để kiểm tra và phát hiện trên xe 93C-00813 vận chuyển 09 hộp gỗ xẽ loại gỗ gõ đỏ thuộc nhóm IIA, gỗ không có dấu búa Kiểm lâm, lái xe không xuất trình được các giấy tờ, hồ sơ hợp pháp liên quan đến số gỗ này.
Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính, đưa tang vật và phương tiện vi phạm về Hạt Kiểm lâm huyện Bù Đốp để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật. Qua đo đếm xác định khối lượng số gỗ gõ trên là  0,590 m3. (Kiểm Lâm Bình Phước 22/8) đầu trang(
Nằm cách trung tâm xã Hòa Mạc hơn 10 km về phía tây của huyện, trang trại kinh tế của Cựu chiến binh Hà Đình Dung được xây dựng nơi có vị trí địa lý đồi núi cao, thuận lợi nguồn nước, khí hậu mát mẻ.
Trang trại Vườn – Ao – Chuồng – Rừng của ông sau hơn 16 xây dựng và cải tạo trang trại đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình. Không chỉ vì mục đích kinh tế mà ngay từ ban đầu cựu chiến binh Hà Đình Dung đã xác định: “ Dựa vào đất rừng để sống thì đồng nghĩa với việc phải bảo vệ và phát triển rừng”.
Với suy nghĩ đó, Ông đã lên kế hoạch cụ thể, quy hoạch từng khu vực, một cách hợp lý khoa học. Nơi ông xác định xây dựng mô hình không chỉ là đồi núi trọc, mà xen kẽ là những khu rừng tự nhiên.
Cách nhau bởi những thung lũng dồi dào nguồn nước. Tận dụng những lợi thế đó, ông khoanh đồi rừng để bảo vệ và trồng dặm cây kinh tế như keo, cây mỡ và cây lát. Tận dụng đồi núi ông chăn nuôi thêm đại gia súc. Thung lũng, khe nước được đào ao, đắp đập để thả cá. Xen dưới ao, đập là những thửa ruộng bậc thang. Với mô hình này vừa thuận lợi cho việc chăn nuôi, chăm sóc cũng như sản xuất lúa nước.
Với địa hình đồi núi đường đi lại khó khăn, nên mới đầu xây dựng trang trại cũng gặp không ít vất vả. Từ vận chuyển con giống, cây giống đều phải mang vác bộ gần chục cây số và hơn 16 năm quá vẫn vậy các thành viên trong gia đình ông cần mẫn, chịu khó cùng nhay chung sức có được một trang trại kinh tế ổn định.
Để đạt hiệu quả đầu tư Cựu chiến binh Hà Đình Dung thường xuyên tham gia các lớp tập huấn kĩ thuật chăn nuôi, trồng trọt được mở tại xã, tham qua các mô hình kinh tế trong huyện, trong tỉnh. Nhờ đó mà ông đã tích lũy được kiến thức để áp dụng vào thực tiễn và mang lại hiệu quả.
Đến nay gia đình ông có gần 1 ha mặt nước, hơn 50 con trâu, bò và hơn 10 ha rừng kinh tế. Mỗi năm xuất bán gần một tấn cá thịt. Trừ chi phí một năm cho thu nhập từ 100 đến 150 triệu đồng.
Điều đáng nói ở Cựu chiến binh Hà Đình Dung, là trang trại của ông không chỉ với mục đích phát triển kinh tế. Mà ông xác định nó phải gắn với  bảo vệ và phát triển rừng.
Vì vậy hơn 14ha rừng tự nhiên được ông nhận khoanh nuôi, bảo vệ và tích cực trồng xen các cây lâm nghiệp. Với phương châm đó, giờ đây  trang trại của Cựu chiến binh Hà Đình Dung được phủ màu xanh bạt ngàn của các loại cây.
Xen lẫn dưới chân đồi là những ao cá. Nó không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn góp phần xây dựng và giữ gìn hệ môi trường sinh thái nơi đây. (Laocai.gov.vn 21/8) đầu trang(
Theo Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã Hà Nội, Trung tâm đã cứu hộ và bảo tồn được 323 cá thể động vật hoang dã và 35kg rắn; đồng thời tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho các cá thể động vật hoang dã đang được cứu hộ tại Trung tâm, nhất là đối với một số loài động vật hoang dã quý hiếm.
Bên cạnh làm tốt công tác điều trị bệnh cho động vật hoang dã, với 95 đợt điều trị cho 600 lượt cá thể động vật bị thương, bị các bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa và bệnh ngoài da..., Trung tâm còn luôn chú trọng công tác phòng chống dịch bệnh cho các loài động vật hoang dã đang được cứu hộ, bảo tồn tại trung tâm như tổ chức tiêm phòng vắcxin, tẩy giun, sán theo định kỳ 8 đợt cho 396 lượt cá thể động vật hoang dã...
Trung tâm cũng đã nhân nuôi sinh sản và nhân đàn được 24 cá thể; trong đó có 4 cá thể hổ, 20 cá thể khỉ, hiện các cá thể sinh sản tại Trung tâm đang sinh trưởng và phát triển tốt.
Công tác bảo tồn động vật hoang dã luôn được Trung tâm coi trọng, đã tổ chức việc bảo tồn các loài quý hiếm hiện có tại trung tâm như hổ 28 cá thể, gấu 15 cá thể, vượn đen má trắng 4 cá thể, công 8 cá thể, hồng hoàng 2 cá thể; thả, chuyển giao động vật hoang dã sau cứu hộ về môi trường tự nhiên được 50 cá thể.
Trong tháng Tám này, Chi cục Kiểm lâm Hà Nội đã phát hiện và xử lý nghiêm 15 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, tịch thu 44 cá thể động vật hoang dã; trong đó động vật doang dã 31 cá thể (với 8,7kg), quý hiếm 13 cá thể (là 8,3kg), xử phạt hành chính 256 triệu đồng. (VietnamPlus 24/8) đầu trang(
Đại gia Lê Thanh Thản, ông chủ của vườn thú Trại Bò (Diễn Châu), đã bỏ ra một khoản tiền không hề nhỏ để sở hữu nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm bậc nhất.
Vườn nuôi động vật hoang dã là hạng mục được xây dựng sớm nhất trong đề án xây dựng Khu du lịch sinh thái Trại Bò do ông chủ Doanh nghiệp Tư nhân xây dựng số 1 tỉnh Điện Biên đầu tư, có diện tích 35 ha.
Trại Bò nhiều năm trước vốn là một vùng đất hoang vu, thời tiết khắc nghiệt. Địa hình phức tạp của vùng đồi núi này đã khiến nhiều cuộc khai hoang của người dân Diễn Châu phải “dậm chân tại chỗ”.
Chỉ khi ông Lê Thanh Thản trở lại quê hương, đầu tư những khoản tiền không nhỏ thì nơi đây mới có được những đổi thay đáng kể.
Ông Đậu Xuân Hường – Chủ tịch UBND xã Diễn Lâm thông tin, từ năm 1999 ông Hường và hơn 40 hộ dân Diễn Lâm được nhà nước giao hơn 100 ha đất rừng tại vùng Trại Bò để phát triển kinh tế rừng.
“Sức người có hạn, đa số bà con bỏ về hết vì khó khăn quá! Đến khi ông Thản trao đổi với tôi về hướng xây dựng khu sinh thái thì tôi chuyển cho ông Thản phần đất đai của tôi  để ông ấy làm”, ông Hường nói.
Năm 2004, ông Hường chuyển nhượng “trao tay” 35 ha đất cho công ty TNHH Lê Thanh Thản mà trước đó gia đình ông được Nhà nước giao khoán.
Sau khi có được quyền sử dụng diện tích đất nói trên, Công ty TNHH Lê Thanh Thản tiến hành đầu tư làm đường bê tông, xây dựng hệ thống điện, bắt đầu “chiến dịch” cải tạo vùng đất Trại Bò. Các loài thú hoang dã bắt đầu được nhập về từ các tỉnh thành trong nước và các quốc gia khác trên thế giới.
Theo thống kê của Hạt Kiểm lâm Diễn Châu, đến thời điểm hiện tại Khu du lịch sinh thái Trại Bò đang nuôi bảo tồn và sinh sản 13 loài động vật nguy cấp quý hiếm (tê giác, hổ trắng, hà mã, bò tót…) và 7 loài động vật thông thường khác.
Giá trị hàng đầu về mặt khoa học phải kể đến là 2 cá thể tê giác (1 con đực, 1 con cái) được nhập về từ châu Cộng hòa Nam Phi năm 2008.
Sự có mặt của hai con tê giác này đã từng làm hàng ngàn người dân “mắt tròn mắt dẹt” vì lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy loài động vật quý hiếm này. Người ta cũng đồn đại rằng, hai cá thể tê giác này được mua về với giá “khủng” nhất Trại Bò.
Trong khi cả thế giới đang lo lắng cho sự biến mất của loài tê giác thì ông Lê Thanh Thản lại có đủ khả năng mang chúng về nuôi trong trang trại của mình, mà theo như họ nói là để “nuôi chơi”.
Ông Nguyễn Văn Hải – Giám đốc Khu sinh thái Trại Bò cho biết, ngoài cặp đôi tê giác rất có giá trị, số lượng cá thể nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm khác ở Trại Bò đang không ngừng tăng lên do việc sinh sản khá thuận lợi.
“Kể từ khi nhập về 9 con hổ (vàng và trắng) từ Nam Phi và Cộng hòa Séc, nay đàn hổ đã có thêm 15 con được sinh ra từ các cặp bố mẹ. Một cặp sư tử cũng đã sinh được 4 con sư tử con và phát triển ổn định”, ông Hải cho biết. (Gia Đình VN 25/8) đầu trang(
22/8, Ủy ban Nhân dân tỉnh cùng tộc họ Lương tổ chức Lễ khánh thành tượng danh nhân Lương Văn Chánh và đón Bằng công nhận cây bồ đề trong khuôn viên Khu di tích cấp quốc gia mộ và đền thờ danh nhân Lương Văn Chánh (thôn Long Phụng, xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa) là cây di sản Việt Nam do Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận.
Cây bồ đề được công nhận cây di sản có tên khoa học là Ficus religiosa thuộc họ Ficus. Cây bồ đề này khoảng 200 năm tuổi, có ba thân, chu vi 12m, cao 21m, đường kính 3,8m ôm trùm lên toàn bộ cổng tam quan của đền trước đây.
Cùng với quần thể 20 cây xoài ngự tại chùa Đá Trắng ở xã An Dân (huyện Tuy An), đây là cây di sản thứ 2 của tỉnh. Tượng danh nhân Lương Văn Chánh được đúc bằng đồng, cao 1,4m, ngồi trên ghế dựa, tay cầm chiếu vua ban.
Công trình có tổng trị giá 1,2 tỷ đồng do bà Võ Thị Thanh - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thuận Thảo (thành phố Tuy Hòa) và Anh hùng Lao động Thái Phụng Nê - nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên tài trợ.
Danh nhân Lương Văn Chánh sinh vào khoảng thập niên 40 của thế kỷ 16 tại Thanh Hóa. Cuối thế kỷ 16, ông theo lệnh chúa Nguyễn Hoàng chiêu tập lưu dân vào khai khẩn vùng đất từ phía Nam đèo Cù Mông đến phía Bắc đèo Cả (tức Phú Yên ngày nay). Những năm đầu thế kỷ 17, vùng đất này đã trở nên trù phú, xóm làng đông đúc, là cơ sở để chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa vào năm 1611.
Với những công lao đóng góp, sau khi mất (ngày 19/9/1611, tại thôn Long Phụng, xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa), Lương Văn Chánh được nhân dân tỉnh Phú Yên lập đền thờ, suy tôn là Thành Hoàng.
Nhiều đời chúa Nguyễn và các triều vua Nguyễn sắc phong ông là “Thượng đẳng thần bảo quốc hộ dân” (vị phúc thần tối cao bảo vệ đất nước và nhân dân).
Đền thờ và mộ danh nhân Lương Văn Chánh được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1996, trở thành điểm tham quan du lịch và giáo dục truyền thống cho các thế hệ người dân tỉnh Phú Yên. (VietnamPlus 22/8; Tin Tức 23/8, tr10) đầu trang(
Sau hai năm thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TU ngày 02 tháng 7 năm 2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về ngăn chặn, xử lý hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản, lâm sản trái phép gây hủy hoại môi trường, huyện Chợ Đồn đã thu được những kết quả tích cực, góp phần bảo vệ môi trường, ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Huyện Chợ Đồn là một trong những địa phương của tỉnh có trữ lượng lớn về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu phân bố ở các xã Bản Thi, Đồng Lạc, Quảng Bạch, Ngọc Phái... Đây là một trong những thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp khai khoáng nói riêng. Huyện cũng có nguồn tài nguyên rừng phong phú với diện tích lớn rừng đặc dụng thuộc địa bàn các xã Yên Thịnh, Bản Thi, Nam Cường, Đồng Lạc, Xuân Lạc.
Từng bước thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TU nhằm thắt chặt hoạt động khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép trên địa bàn, huyện Chợ Đồn đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai Chỉ thị từ cấp huyện đến cấp xã, chủ động phối hợp với các ban ngành tích cực đẩy mạnh công tác chỉ đạo, tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực khoáng sản, lâm sản và bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở đó, Hạt Kiểm lâm huyện thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành quy định Luật Bảo vệ, phát triển rừng. Trong 2 năm qua, cơ quan Kiểm lâm huyện đã tuyên truyền được 41 cuộc với 1.709 lượt người nghe về Chỉ thị 08-CT/TW và các văn bản liên quan.
Ông Hà Ngọc Bảo - Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện cho biết: Tuyên truyền là một trong những biện pháp hữu hiệu để vận động thực hiện tốt công tác bảo vệ tài nguyên lâm sản. Vì vậy, thời gian qua, Hạt Kiểm lâm huyện đã phối hợp với chính quyền các xã, thị trấn triển khai công tác tuyên truyền phù hợp với thực tế, đặc biệt là địa bàn vùng sâu, vùng xa và các điểm thường xảy ra vi phạm trong công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện cũng đã phối hợp với các phòng ban liên quan tổ chức tuyên truyền pháp luật về khoáng sản cho 212 cán bộ xã, công an viên, trưởng thôn, bí thư chi bộ; triển khai cam kết giữa chính quyền xã với người dân và chủ sở hữu máy móc, thiết bị chuyên dụng không tham gia khai thác, chế biến, vận chuyển khoáng sản trái phép. Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện duy trì thường xuyên chương trình tuyên truyền pháp luật lồng ghép trang tin địa phương tuyên truyền văn bản liên quan đến lĩnh vực khoáng sản, lâm sản.
Cùng với hoạt động tuyên truyền, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy chính quyền được triển khai đồng bộ. Trên cơ sở tình hình thực tế tại địa phương, trong các cuộc giao ban, hội nghị, UBND huyện đã chỉ đạo, đôn đốc các xã, thị trấn thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc quản lý khoáng sản, lâm sản theo kế hoạch. Khi nhận được thông tin phản ánh, tố giác, Tổ công tác liên ngành kịp thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức kiểm tra, xử lý theo đúng quy định, không để kéo dài gây dư luận xấu trong xã hội.
Công tác kiểm tra, truy quét tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển, cất giữ, chế biến kinh doanh khoáng sản, lâm sản trái phép được đặc biệt tăng cường. Huyện đã kiên quyết đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự những vụ vi phạm vượt khung xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là đối tượng tái phạm, có tổ chức và chống người thi hành công vụ nhằm nâng cao tính răn đe, giáo dục trong nhân dân.
Trong 02 năm thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TU, các lực lượng chức năng huyện Chợ Đồn đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 345 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, thu nộp ngân sách trên 1,9 tỷ đồng.
Đối với công tác quản lý bảo vệ khoáng sản, cơ quan chức năng huyện và Tổ công tác liên ngành đã kiểm tra 96 lượt tại các xã, trong đó phát hiện quặng sắt, quặng Sunfua bị khai thác trái phép, tiến hành thu giữ 10 máy móc phục vụ khai thác, thu gom, vận chuyển, tàng trữ trái phép khoáng sản. Huyện đã tổ chức bán đấu giá tài sản tịch thu, bổ sung công quỹ Nhà nước được hơn 3 tỷ đồng; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản 06 đối tượng với tổng số tiền phạt 67,5 triệu đồng.
Với nhiều kết quả từ công tác tuyên truyền đến công tác quản lý, bảo vệ, xử lý vi phạm, việc triển khai Chỉ thị số 08-CT/TU đã góp phần ngăn chặn hành vi khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép, bảo vệ môi trường, ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên, do huyện Chợ Đồn có diện tích rừng và đất rừng lớn, giao thông đi lại khó khăn, hơn nữa, phân bố khoáng sản trên địa bàn khá phức tạp, nhiều điểm nằm sâu trong rừng núi, trong khi đó các hoạt động khai thác, vận chuyển, buôn bán trái phép ngày càng tinh vi nên công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, lâm sản trên địa bàn hiện còn không ít khó khăn.
Để tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 08-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thời gian tới, huyện Chợ Đồn xác định tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về lĩnh vực khoáng sản, lâm sản; tăng cường công tác kiểm tra tại tất cả các cấp; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; thực hiện tốt quy định về việc quản lý xe, máy chuyên dùng và xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong hoạt động khai thác khoáng sản trái phép, đồng thời yêu cầu các chủ phương tiện ký cam kết không sử dụng thiết bị, máy móc chuyên dùng tham gia vận chuyển khoáng sản trái phép; thực hiện công tác quản lý cán bộ, kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, lâm sản, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ tiếp tay cho các đối tượng khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép trên địa bàn.
Bằng những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và đồng bộ, Chỉ thị số 08-CT/TU đã và đang được các cấp, ngành, các địa phương và nhân dân trên địa bàn huyện Chợ Đồn triển khai một cách nghiêm túc, tạo nên chuyển biến tích cực, góp phần làm trong sạch môi trường, ổn định về an ninh, chính trị và đời sống sản xuất tại địa phương. (Backan.gov.vn 21/8) đầu trang(
Nhận thức tuyên truyền bảo vệ rừng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi gây thiệt hại đến tài nguyên rừng, trong các năm qua, Chi cục Kiểm lâm đã thường xuyên đẩy mạnh việc thực hiện công tác này. Đối tượng của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về rừng được nhắm đến là lực lượng Kiểm lâm; các cán bộ, công chức, viên chức cấp xã; các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh.
Các nội dung được thực hiện trong công tác tuyên truyền là phổ biến, giải thích những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp; những nhiệm vụ của lực lượng Kiểm lâm, của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân... trong việc bảo vệ rừng để họ hiểu rõ, động viên họ tự giác làm theo, nhằm đạt được mục tiêu của công tác đề ra.
Ngoài ra, Chi cục còn thường xuyên vận động, giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức, lối sống, nếp sống mới văn minh, tiến bộ; bồi dưỡng kiến thức Khoa học - Kỹ thuật và các kiến thức cần thiết khác nhằm xây dựng thành công đội ngũ Kiểm lâm văn hóa; tham gia xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong thời đại mới.
Riêng trong 08 tháng năm 2014; lực lượng Kiểm lâm tỉnh đã tham mưu UBND các cấp thực hiện được: Phối hợp với Đài truyền hình tỉnh, Đài truyền thanh huyện, xã thực hiện các nội dung: Cảnh báo nguy cơ cháy rừng; phổ biến các văn bản pháp luật về công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng, bảo vệ động vật hoang dã như Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, thực hiện phóng sự Chuyên mục Nông nghiệp – Nông thôn với nội dung về công tác quản lý, gây nuôi động vật hoang dã trên đại bàn huyện Đồng Phú…
Tổ chức triển khai thực hiện Tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ; về chấn chỉnh đạo đức, tác phong làm việc cho toàn thể lực lượng Kiểm lâm tỉnh. In ấn 2500 cuốn sổ tay tuyên truyền bảo vệ rừng cấp phát cho học sinh các Trường THCS trên địa bàn tỉnh. Tổ chức 17 lượt họp dân tuyên truyền; làm cam kết bảo vệ rừng với 114 hộ gia đình, cá nhân; phát thanh tuyên truyền bảo vệ rừng cố định 703 lượt, lưu động 113 lượt…
Ngoài ra, Chi cục cũng đang chuẩn bị tổ chức Hội thi Kiểm lâm địa bàn giỏi cho các cán bộ, công chức Kiểm lâm các huyện, thị (bắt đầu từ ngày 04/9/2014, tại 05 cụm huyện), nhằm kiểm tra, bồi dưỡng thêm về đạo đức, tác phong và nâng cao trình độ nghiệp vụ kiểm lâm.
Công tác tuyên truyền, trong những năm qua, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của toàn lực lượng Kiểm lâm cũng như các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về bảo vệ tài nguyên rừng.
Đạt được những kết quả đáng khích lệ trên là nhờ có sự quan tâm hỗ trợ của các ban, ngành liên quan và sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp trong việc phê duyệt kế hoạch, kinh phí thực hiện.
Tuy nhiên; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về rừng trong thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục, đó là: Hình thức, nội dung tuyên truyền cho người dân còn đơn điệu, mang tính hình thức, chưa thuyết phục, vận động được người dân hiểu và tự giác tham gia bảo vệ rừng; chưa gắn công tác tuyên truyền với công tác khuyến nông, khuyến lâm và với các chương trình kinh tế, xã hội ở địa phương nhằm khuyến khích, vận động họ không phá rừng, lấy cắp lâm sản nhưng vẫn giữ được mức sống ổn định; cán bộ Kiểm lâm phụ trách địa bàn (và cán bộ xã) chưa thực sự gần dân để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, chưa kịp thời nắm bắt được các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân (nhất là đồng bào dân tộc ít người) để phản ảnh các cấp có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tạo cuộc sống ổn định cho người dân, ở các khu vực có rừng…
Để công tác tuyên truyền trong thời gian tới đạt chất lượng và hiệu quả cao cần có những giải pháp đồng bộ như sau: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền (nhất là chính quyền cấp xã) trong việc thực hiện công tác tuyên truyền gắn liền với chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội ở địa phương.
Phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền. Nội dung phải sát với thực tiễn cuộc sống và quan trọng là kịp thời đối với chủ trương, đường lối của Đảng. Hình thức phải đa dạng, phong phú và sử dụng nhiều loại hình tuyên truyền để tránh gây nhàm chán cho công chúng. Đặc biệt, cần có những cách thức tuyên truyền phù hợp với trình độ của đồng bào các dân tộc.
Tổ chức các lớp đào tạo về công tác tuyên truyền; công tác khuyến nông, khuyến lâm; công tác xây dựng nông thôn mới … cho lực lượng Kiểm lâm địa bàn và cán bộ các xã có rừng. Đồng thời, có chính sách khuyến khích thoả đáng về tinh thần và vật chất đối với đội ngũ trên.
Tăng cường kinh phí cho công tác tuyên truyền bảo vệ rừng (và các mục tiêu khác) ở cấp xã, như: Trang bị và đầu tư các phương tiện tuyên truyền cần thiết cho việc triển khai các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan ở cơ sở; tổ chức nhiều đợt tuyên truyền/năm, trong đó tập trung ưu tiên tuyên truyền tại các vùng sâu, vùng xa và đặc biệt là các khu vực có người dân sống trong rừng rừng, gần rừng… (Kiểm Lâm Bình Phước 22/8) đầu trang(
Từ chuyện cây xanh bật gốc chiều 17-8 ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (P.Đa Kao, Q.1, TP.HCM) gây chết người, hai chuyên gia cây xanh đô thị đề nghị thực hiện nhiều giải pháp để ngăn chặn cây xanh ngã đổ gây tai nạn cho người đi đường.
So với cách đây hơn 10 năm, tai nạn do cây xanh ngã đổ, gãy nhánh ở TP.HCM đã giảm đi rất nhiều, nhất là tai nạn chết người (từ năm 2004 đến nay có hai trường hợp). Nhưng đó là những tai nạn trên trời rơi xuống, hoàn toàn không có lỗi của nạn nhân, vì thế cần phải tìm mọi cách để điều đó không xảy ra.
Nhìn lại hệ thống cây xanh đường phố Sài Gòn, ta thấy còn nhiều nhược điểm gây trở ngại rất lớn cho người làm công tác cây xanh nên cũng rất khó tránh được tai nạn. Ví dụ như số lượng cây lớn quá nhiều nên không đủ người để tuần tra phát hiện cho hết những khiếm khuyết của cây cũng như chăm sóc cây; bộ rễ của cây xanh đường phố thường phải “hôn phối bất đắc dĩ” với hệ thống cáp điện, điện thoại, cấp thoát nước trên cùng một vỉa hè, vì thế thường không phát triển tốt, chưa kể đôi khi những ngành trên xử lý chặt rễ cây xanh càng gây thêm nguy hiểm...
Tuy vậy cũng có thể khắc phục những nhược điểm trên bằng nhiều biện pháp. Trong đó, cần có kế hoạch thay thế những cây quá lớn vì cây xanh đường phố cần nhất là an toàn chứ không phải để lấy gỗ (chương trình này Công ty Công viên cây xanh đã có từ năm 1999 chi tiết đến từng cây, nhưng sau đó ngưng lại do bị dư luận phản đối). Thay thế phải làm dần để tránh phá vỡ cân bằng sinh thái đã được thiết lập lâu nay.
Bên cạnh đó, cần sớm có nghiên cứu để xác định tuổi của từng loại cây xanh trên đường phố đến lúc nào cần thay thế (theo chúng tôi với sao, dầu, sọ khỉ là 70-100 tuổi; me chua 50-60 tuổi; phượng, lim xẹt 30-40 tuổi). Về lâu dài cần thay đổi chủng loại cây xanh trên đường phố để cây xanh vừa đạt yêu cầu về cải tạo môi trường, vừa phải đảm bảo điều kiện tiên quyết là an toàn tính mạng và tài sản con người. (Tuổi Trẻ 25/8, tr9) đầu trang(
Khu quản lý giao thông đô thị số 1 (Khu 1- thuộc Sở Giao thông vận tải TP.HCM) vừa có văn bản gửi UBND Q.Tân Bình (TP.HCM) đề nghị có ý kiến chính thức và xử lý các cá nhân vi phạm trong việc đốn hạ nhiều cây xanh trái phép trên đường Bạch Đằng, Yên Thế, P.2, Q.Tân Bình.
Ngoài ra, Khu 1 còn đề nghị UBND Q.Tân Bình phải thu hồi khối lượng gỗ từ việc đốn hạ cây xanh nộp trả lại cho Nhà nước theo đúng quy định.
Trước đó (đầu tháng 8-2014), trong quá trình tuần tra, một đơn vị thuộc Khu 1 phát hiện Đội quản lý trật tự đô thị Q.Tân Bình trong quá trình giải phóng mặt bằng thuộc dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - vành đai ngoài đã đốn hạ sáu cây xanh khi chưa được sự cấp phép của các cơ quan thẩm quyền.
Cụ thể, Đội quản lý trật tự đô thị Q.Tân Bình đã đốn hạ ba cây bàng mang số hiệu 59, 61 và 65 trên đường Yên Thế và ba cây sọ khỉ số 77, 79, 81 thuộc loại cổ thụ (cây loại 3 - có đường kính gốc trên 70cm, cao trên 12m) trên đường Bạch Đằng. Điều đáng nói toàn bộ số lượng gỗ thu được cũng không được bàn giao cho đơn vị quản lý là Khu 1.
Trao đổi với PV, ông Châu Văn La, chủ tịch UBND Q.Tân Bình, cho rằng trước đó có công văn yêu cầu Khu 1 giải tỏa cây xanh, trụ điện trong phạm vi dự án đường nối Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - vành đai ngoài để địa phương làm công tác giải tỏa đền bù nhưng chưa được thực hiện. Sau khi nhiều người dân đã bàn giao mặt bằng, để dọn vệ sinh sạch sẽ khu vực trên nên UBND Q.Tân Bình có chỉ đạo các đơn vị dọn dẹp, vệ sinh khu vực đảm bảo mỹ quan môi trường.
Trong khi đó, trong văn bản gửi UBND Q.Tân Bình, Khu 1 cho biết đã có thông báo cho địa phương là phải giải tỏa xong nhà dân thì Khu 1 mới tiến hành di dời cây xanh, hạ tầng kỹ thuật khu vực trên nhưng sự việc chưa “thương thảo” xong thì xảy ra việc đốn hạ cây xanh trái phép.
Liên quan đến việc đốn hạ cây xanh, nguồn gỗ thu hồi ở đâu..., ông Châu Văn La cho biết đang yêu cầu đội trật tự đô thị báo cáo lại vụ việc trên, nếu thực tế các đơn vị làm sai thì phải chịu trách nhiệm. (Tuổi Trẻ 25/8, tr9) đầu trang(
Trong năm học mới, học sinh lớp 7 đang theo học tại các trường THCS trên địa bàn TP.HCM sẽ được học thêm chương trình bảo vệ  động vật hoang dã (ĐVHD).
Chương trình được tích hợp trong10 tiết học chính khóa của môn Sinh học lớp 7. Trước khi được triển khai đại trà, tài liệu và bộ giáo cụ do Trung tâm bảo vệ động vật hoang dã (WAR) biên soạn đã được thí điểm 300 tiết dạy với 13.000 lượt học sinh ở các quận Bình Thạnh, Bình Tân và Tân Phú trong năm học 2013-2014. Học sinh được cho là đã tỏ ra thích thú với chương trình tích hợp nên Sở Giáo dục thống nhất nhân rộng.
Để chuẩn bị cho việc dạy học này, sáng ngày 22-8, WAR phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM tổ chức hội thảo tập huấn tích hợp nội dung bảo vệ động vật hoang dã vào môn Sinh học lớp 7 cho 300 giáo viên THCS trên địa bàn TP.HCM.
Phát biểu tại buổi tập huấn, đại diện ngành giáo dục cho biết, việc đưa chương trình bảo vệ ĐVHD vào trong tiết học sẽ giúp học sinh tiếp cận và mở rộng sự hiểu biết về giá trị, những mối đe dọa mà ĐVHD đang gặp phải.Thông qua đó học sinh sẽ nâng cao ý thức và sẵn sàng có hành động để bảo vệ ĐVHD.
Ông Nguyễn Vũ Khôi, Giám đốc Tổ chức WARcũng cho rằng: “Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa, thiết thực và hiệu quả nhất trong việc tạo dựng một thế hệ tương lai yêu thiên nhiên và sẵn sàng tham gia bảo vệ ĐVHD”. (Pháp Luật TPHCM 22/8) đầu trang(
24-8, tại Đà Nẵng, 30 học viên và giảng viên đến từ 6 nước khác nhau sẽ cùng tham gia vào một hoạt động nhằm tạo cơ hội cho trẻ em được tìm hiểu về động vật hoang dã (ĐVHD) và nâng cao tình yêu với ĐVHD, qua đó kêu gọi sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ ĐVHD tại địa phương.
Các học viên, giảng viên sẽ cùng các em nhỏ khám phá nhiều trò chơi thú vị như ngụy trang thành động vật, thiết kế ngôi nhà cho các bạn khỉ trong rừng, nhận diện tiếng của các loài ĐVHD, chụp ảnh với các bạn ĐVHD tại khu nuôi thú…
Hoạt động này nằm trong chuỗi hoạt động thuộc Khóa tập huấn phát triển kỹ năng giáo dục cộng đồng hiệu quả hướng đến bảo tồn thú linh trưởng ở châu á năm 2014 tại Đà Nẵng. (Quân Đội Nhân Dân 24/8; VietnamPlus 22/8) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
23/8, thượng tá Phạm Văn An, Trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế và chức vụ (PC 46) Công an tỉnh Hà Tĩnh cho biết, cơ quan này đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam 4 tháng đối với 2 đối tượng đã có hành vi lập hồ sơ khống để tham ô 5,2 tỷ đồng tiền của nhà nước.
Các đối tượng bao gồm: Nguyễn Văn Hà (SN 1971, trú tại Hải Dương) là giám đốc công ty Đại Phát và Ngô Đăng Khoa (SN 1973, trú tại Nghệ An) nguyên trưởng ban rừng phòng hộ Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh).
Theo tài liệu của cơ quan điều tra, năm 2010 công ty cao su Hà tĩnh triển khai dự án đầu tư trồng rừng cao su trên 1000 ha tại xã Cẩm Mỹ và Cẩm Quan (huyện Cẩm Xuyên). Nhưng diện tích đất này lại trùng với khu vực trước đó UBND tỉnh cấp cho công ty chế biến gỗ xuất khẩu Đại Phát.
Cuối tháng 3/2010, ông Trần Ngọc Sơn – Tổng giám đốc công ty cao su Hà Tĩnh cùng với trợ lý của mình là Nguyễn Thanh Bình và Lê Hươm (Trưởng phòng kế hoạch) đã gặp Nguyễn Văn Hà và Ngô Đăng Khoa thống nhất bồi thường cho công ty Đại Phát 3,5 ty đồng.
Ngoài ra còn hỗ trợ BQL rừng phòng hộ Cẩm Xuyên 1,7 tỷ đồng nhưng kèm điều kiện là phải nhanh chóng làm thủ tục để công ty Cao su thuê và được Nguyễn Văn Hà chấp nhận. Còn Ngô Đăng Khoa ra điều kiện là số tiền 1,7 tỷ đồng phải chuyển vào tài khoản của công ty Đại phát và giữ kín thông tin.
Đầu tháng 4/2010 công ty Cao su Hà Tĩnh chuyển tiền vào tài khoản của công ty Đại phát 5,2 tỷ đồng trong đó 3,5 tỷ đồng là chi phí cơ hội đầu tư và chi phí để công ty Đại phát bỏ ra làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. 1,7 tỷ đồng được chia cho Ngô Văn Khoa 1,2 tỷ đồng và 500 triệu đồng chia cho Trần Ngọc Sơn.
Sau khi chuyển tiền vào tài khoản công ty Đại Phát, Trần Ngọc Sơn đã hướng dẫn Nguyễn Văn Hà chỉ đạo cán bộ chuyên môn lập khống chứng từ, bẳng kê và hồ sơ bồi thường số tiền 5,2 tỷ đồng.
“Liên quan đến vụ việc, hiện cơ quan công an đang tiếp tục điều tra mở rộng, trong đó có ông Trần Ngọc Sơn, nguyên tổng giám đốc công ty cao su Hà Tĩnh” - Thượng tá An, cho biết thêm. (VietnamNet 23/8) đầu trang(
Tám doanh nghiệp đầu tư dự án thủy điện không chịu trồng lại rừng thay thế vừa bị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng ra “tối hậu thư” yêu cầu tổ chức trồng lại khoảng 500ha, hạn chót trước khi mùa mưa 2014 kết thúc.
Những đơn vị bị Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đông điểm tên gồm Công ty Cổ phần Thủy điện Cao Nguyên - Sông Đà 7, Công ty Cổ phần Điện Bảo Tân, Công ty Cổ phần Thủy điện Đắk Mê, Công ty Cổ phần Thủy điện miền Nam, Công ty Cổ phần Thủy điện Trung Nam Krông Nô, Công ty Cổ phần Thủy điện Long Hội, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 4 và Ban quản lý Dự án thủy điện Đồng Nai 5.
Trong số này, Công ty Cổ phần Thủy điện miền Nam phải trồng gần 278ha và Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 4 phải trồng hơn 101ha nhưng được UBND tỉnh Lâm Đồng nhất trí cho nộp tiền thay vì phải trồng lại rừng thay thế từ 2 - 3 đợt, hạn chót nộp tiền đợt cuối trước ngày 25/3/2015.
“Tối hậu thư” của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng cũng cho biết, nếu doanh nghiệp không thể triển khai được việc trồng rừng thì phải nộp tiền thay thế, đơn giá 84.711.000đ/ha, để cơ quan chuyên môn trồng lại rừng. (Công An Nhân Dân 24/8) đầu trang(
Theo Sở NN-PTNT Đắk Nông, trên địa bàn tỉnh hiện có 4 chủ đầu tư thủy điện đã và đang trồng rừng thay thế với diện tích 89,92ha.
Trong đó, Công ty CP công trình Việt Nguyên đang trồng 1ha và Công ty Thủy điện Đồng Nai trồng 35,82ha rừng thay thế. Riêng Công ty TNHH N&S và Công ty Thủy điện Đắk R’Tíh đã trồng được 75ha rừng. Theo kế hoạch của UBND tỉnh Đắk Nông, 9 chủ đầu tư thủy điện trên địa bàn tỉnh phải trồng hơn 3.232ha rừng thay thế trong 2 năm 2014 và 2015.
Trước tình trạng triển khai chậm việc trồng rừng thay thế của các dự án thủy điện, tỉnh Đắk Nông kiến nghị Chính phủ cho phép các đơn vị vừa lập và hoàn thiện hồ sơ vừa triển khai trồng rừng; cho phép các chủ dự án thủy điện căn cứ vào dự toán kinh phí do tỉnh Đắk Nông xây dựng để xây dựng tổng dự toán kinh phí trồng rừng thay thế và nộp tiền vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh... (Sài Gòn Giải Phóng 25/8, tr3) đầu trang(
Sự “chủ quan” của bị cáo đã khiến 149,2 ha rừng với tổng sản lượng 6.590,79m3 đã bị 3 công ty khai thác hết. Hiện tại hậu quả trong việc cho phép khai thác khi chưa được cấp giấy phép của bị cáo đã gây ra những hậu quả về tài chính không chỉ cho các doanh nghiệp tham gia đấu thầu mà còn thất thoát nguồn ngân sách rất lớn của Nhà nước khi số lượng rừng lớn được bán với giá rẻ
Vào năm 2011, Ban quản lý dự án 661 Nam Bến Hải tổ chức làm thủ tục khai thác hơn 255 ha rừng trồng thuộc chương trình 327 và 661 đã chuyển đổi sang rừng sản xuất tại xã Linh Thượng theo kế hoạch khai thác rừng được UBND huyện phê duyệt.
Bị cáo Thành khi đó là Giám đốc Ban quản lý dự án kiêm trưởng phòng nông nghiệp huyện, nắm rõ quy định của Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn rằng việc khai thác rừng loại trên phải thông qua hình thức đấu giá công khai. Tuy nhiên tại cuộc họp đầu tháng 11/2011 của UBND huyện, Thành “tư vấn đểu”, cho rằng phải bàn giao đất lại cho địa phương quản lý và đề nghị chỉ định đơn vị khai thác.
Cuối năm 2011, Thành trình Phó Chủ tịch UBND huyện ký các Quyết định chỉ định cho Công ty TNHH Thành Tín, Công ty TNHH Lương Quang và Công ty TNHH Minh Ký khai thác rừng trồng với tổng diện tích chỉ định là hơn 255 ha, tổng sản lượng gỗ chỉ định khai thác thác là hơn 5.400m3, tổng giá trị cây đứng khai thác là hơn 1,1 tỉ đồng.
Vài ngày sau Thành liên tiếp ký hợp đồng với ba đơn vị trên để bán số rừng. Như vậy, mỗi một ha rừng 10 năm tuổi chỉ được bán với giá hơn 2,3 triệu đồng/ ha. Trong khi đó, chiều 19/12/2011, khi nghe thông tin bán số rừng, một doanh nghiệp khác đã có tờ trình gửi UBND huyện Gio Linh và Ban Quản lý dự án về việc muốn mua lại với giá 4 tỷ đồng (gấp 4 lần giá “thầu đểu”). Khi nhận được tờ trình này, Thành không xử lý, không có động thái báo cáo hay trình lãnh đạo.
Không những thế, cùng ngày, Thành trực tiếp thu tiền mặt của 3 doanh nghiệp trên với tổng số tiền là 1,145 tỉ đồng (trong đó gồm 1,125 tỉ giá khai thác rừng theo các Quyết định chỉ định khai thác và thu thêm 20 triệu tiền ký quỹ phòng chống cháy rừng). Số tiền thu được, Thành không nhập quỹ, không nộp vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định mà đưa đi gửi tiết kiệm.
Để hợp thức hóa số chứng từ trên, đầu năm 2012, Thành tham mưu và trình Phó Chủ tịch huyện ký lại 3 quyết định nói trên nhưng lại lấy cùng số hiệu, ngày tháng năm như quyết định mà ông Trình đã ký trước đó, tất nhiên nội dung có sự thay đổi. Cụ thể, diện tích chỉ định khai thác của 3 doanh nghiệp trên bị giảm xuống để bù vào đó là của một doanh nghiệp thứ tư với diện tích gần 43 ha.
Chưa dừng lại, ngày 12/1/2012 , Thành đã tự ý ký biên bản bàn giao đất cho 4 doanh nghiệp để bảo vệ và khai thác. Một ngày sau, Thành ký hợp đồng kinh tế với giám đốc DNTN Quang Vinh để bán gần 43ha đất rừng chỉ định với giá gần 77 triệu đồng. Khi thu được số tiền này, Thành không đưa nộp vào công quỹ mà lại dùng vào việc trả lại cho 3 công ty trước vì đã giảm số tiền chỉ định khai thác theo hợp đồng đã ký trước đó.
Vụ việc sẽ trót lọt nếu như không xảy ra sự việc vào tháng 3/2012 khi các doanh nghiệp kể trên (trừ DNTN Quang Vinh chưa khai thác) tổ chức khai thác rừng thì bị Trạm kiểm lâm cầu Treo (thuộc Hạt kiểm lâm huyện Gio Linh) kiểm tra phát hiện và đình chỉ khai thác vì không có giấy phép khai thác theo đúng quy định.
Lúc này, Thành yêu cầu các doanh nghiệp đến BQL dự án để thu hồi lại các biên bản giao rừng đã ký trước đó và ký lại các biên bản giao rừng trong đó sửa lại nội dung "Các công ty phải có trách nhiệm bảo vệ và khai thác theo hồ sơ thiết kế đã được thẩm định, khi có giấy phép khai thác của Sở", để nhằm trốn tránh trách nhiệm.
Đúng chiều 28/1/2013 , sau khi mọi chuyện bị phát giác, công an bắt giữ Thành để điều tra. Thành khai nhận biết rõ quy định của Nhà nước về khai thác rừng này bắt buộc phải có giấy phép khai thác của Sở nhưng “chủ quan cho rằng rừng dự án 327 của Ban dân tộc tỉnh tại địa bàn Gio Linh đã khai thác trước đây cũng chỉ định đơn vị khai thác và không có giấy phép khai thác, nên không làm thủ tục đề nghị cấp phép khai thác mà vẫn giao rừng cho các doanh nghiệp để tổ chức khai thác rừng”.
Bởi “lý luận” đấy mà trước tòa, Thành một mực cho rằng: “Tôi không đồng tình với quyết định truy tố của VKSND, bởi không có văn bản nào quy định bàn giao rừng không có giấy phép là phạm tội. Hơn nữa, tôi không có chức vụ, quyền hạn để giao rừng và cho phép khai thác rừng mà chỉ thực hiện theo quyết định của UBND huyện. Chủ thể tội phạm này không phải là tôi mà thuộc về người khác”.
Mặc dù Thành tự bào chữa cho hành động của mình là “chủ quan”. Nhưng sự “chủ quan” của bị cáo đã khiến 149,2 ha rừng với tổng sản lượng 6.590,79m3 đã bị 3 công ty khai thác hết. Đồng thời, hiện tại hậu quả trong việc cho phép khai thác khi chưa được cấp giấy phép của bị cáo đã gây ra những hậu quả về tài chính không chỉ cho các doanh nghiệp tham gia đấu thầu mà còn thất thoát nguồn ngân sách rất lớn của Nhà nước khi số lượng rừng lớn được bán với giá rẻ. Tòa tuyên phạt Thành 30 tháng tù giam.
Trong vụ án này, vị Phó chủ tịch huyện, người ký quyết định chỉ định khai thác rừng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì cơ quan tố tụng cho rằng việc ký các quyết định chỉ mới dừng lại ở việc chỉ định thầu, chưa gây hậu quả trực tiếp. (Pháp Luật VN 23/8) đầu trang(
Theo ông Vương Hữu Truyền - Giám đốc Sở GTVT tỉnh Bắc Ninh, sở này không nắm được thông tin về hoạt động của trạm cân tải trọng trái phép của Cty Đại An của "trùm xã hội đen" Minh "sâm", Hưng "sóc", vì nó nằm trong xã Phù Khê.
Xung quanh việc Bộ Công an triệt phá băng “xã hội đen” do Nguyễn Ngọc Minh (tức Minh “sâm”, Giám đốc Cty THHH Đại An) cầm đầu, PV trao đổi với ông Vương Hữu Truyền (Giám đốc Sở GTVT tỉnh Bắc Ninh) về trạm cân tải trọng trái phép của Cty Đại An. Tuy nhiên, ông Truyền cho biết, Sở không nắm được thông tin về hoạt động của trạm cân này vì nó nằm trong xã Phù Khê.
“Trước đây, Thanh tra của Sở GTVT phối hợp với Công an tỉnh đi kiểm tra theo đợt tại các tuyến tỉnh lộ, phát hiện xe quá tải mới sử dụng các trạm cân di động để kiểm tra. Còn từ 1/4/2014, theo kế hoạch của Bộ GTVT, tỉnh phối hợp sử dụng các trạm cân lưu động” - ông Truyền nói.
Về phía Công an thị xã Từ Sơn, trao đổi với PV, ông Nguyễn Hữu Hưng (Trưởng Công an thị xã) cho biết, từ hôm “Minh sâm” cùng Nguyễn Thành Hưng (tức Hưng “sóc”, Trưởng thôn Phù Khê Thượng, xã Phù Khê) bị bắt đến nay, mọi hoạt động kinh doanh buôn bán của người dân tại chợ gỗ Phù Khê vẫn diễn ra bình thường.
Hỏi về trạm cân của Minh “sâm”, ông Hưng nói không bình luận gì và cho biết thêm, Công an thị xã đã chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến Hưng “sóc” - Minh “sâm” lên Bộ Công an.
Ông Nguyễn Mạnh Tiến (Chủ tịch UBND xã Phù Khê) cho biết, ngay sau khi Trưởng thôn Phù Khê Thượng - Nguyễn Thành Hưng bị bắt, lãnh đạo thị xã Từ Sơn đã chỉ đạo UBND xã Phù Khê tìm người thay thế. “Chúng tôi đã tạm thời đề nghị ông Nguyễn Văn Trinh, Bí thư Chi bộ thôn Phù Khê Thượng giữ chức Trưởng thôn để điều hành các hoạt động của thôn” - ông Tiến nói.
Như tin đã đưa, trước đó ông trùm buôn gỗ đất Kinh Bắc Minh “sâm”, trưởng thôn Hưng “sóc” cùng 8 đàn em đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an bắt tạm giam.
Theo đánh giá ban đầu của cơ quan điều tra, đây là băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, lộng hành tại địa phương trong thời gian dài. Cơ quan công an đang mở rộng điều tra về 5 hành vi có dấu hiệu phạm tội của băng nhóm này. (Tiền Phong 23/8, tr11) đầu trang(
Chiều 22-8, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Quang Thắng thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Phòng, chống tội phạm của Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Công an, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo kiểm điểm, xác định trách nhiệm của các tập thể, cá nhân liên quan vụ án Nguyễn Ngọc Minh (tức Minh "sâm") và Nguyễn Tiến Hưng (tức Hưng "sóc") ở Bắc Ninh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30-9.
Trước đó, ngày 17-8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Ngọc Minh, Giám đốc Công ty TNHH Đại An, SN 1960, trú tại Trần Phú, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh và Nguyễn Thành Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Thành Hưng Bắc Ninh, SN 1952, trú tại Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh về các tội danh "cưỡng đoạt tài sản", "tàng trữ vũ khí trái phép".
Liên quan vụ án này, Cơ quan điều tra đã khởi tố, bắt tạm giam một số cá nhân khác có liên quan như con rể, con gái Minh "sâm" và nhiều đối tượng khác. (Nhân Dân 23/8, tr7; Lao Động 25/8, tr7 ) đầu trang(
Có lẽ đó là bản duy nhất ở Việt Nam có những ngôi nhà sàn làm từ gỗ Pơ Mu đẹp đến thế. Nhiều đại gia trên khắp cả nước đã đổ về đây trả giá cao để mua bằng được những ngôi nhà sàn cổ.
Ông Lò Văn Quạn – Chủ tịch UBND xã Ngọc Chiến giới thiệu rằng: “Đi khắp đất nước Việt Nam, chỉ ở Ngọc Chiến mới có những ngôi nhà sàn gỗ Pơ Mu đẹp đến thế. Từ gỗ làm nhà, đến các cột kèo, cầu thang, cửa chính, cửa sổ và ngói lợp cũng làm từ loại gỗ quý này. Thậm chí nói không ngoa, có thời củi đun trong bếp cũng toàn bằng Pơ Mu cả”.
Để kiểm chứng lời ông Quạn, PV đi khắp xã Ngọc Chiến và quả thật rất khó tìm thấy ở đây một ngôi nhà nào không được làm từ gỗ Pơ Mu. Từ nhà dân đến trường học, nhà văn hoá đều được chọn nguyên liệu từ loài gỗ quý giá này, thậm chí đến máng nước, cầu treo cũng được người dân dùng gỗ Pơ Mu một cách phổ biến.
Dọc con đường nối từ Ngọc Chiến sang huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), những ngôi nhà sàn gỗ Pơ Mu nổi bật bên những đồi đất gan gà, có những ngôi nhà mới hoàn thành còn thơm phưng phức, ánh lên màu vàng của sơn vecni. Lại có những ngôi nhà sàn cổ kính, gỗ nhuộm màu thời gian đã xám sẫm đôi chỗ rêu phong phủ kín những mảng gỗ trăm năm cát cứ ở “thánh địa” Pơ Mu này.
Ông Lò Văn Quạn sau một hồi làm hướng dẫn viên, quay sang bảo: “Ngọc Chiến có hơn chục bản thì tất thảy đều được gọi là “bản Pơ Mu”, hàng nghìn nóc nhà cũng bằng Pơ Mu nên người ta gọi đây là “thánh địa” Pơ Mu. Mỗi tội là bây giờ rừng đang cạn gỗ nên để có được một ngôi nhà Pơ Mu đúng nghĩa cũng rất khó”.
Theo ông Lò Văn Quạn, “thánh địa” gỗ Pơ Mu là địa bàn sinh sống của 3 dân tộc Thái, Mông và La Ha. Trong đó, người Thái chiếm đa số và cũng là dân tộc có truyền thống làm nhà sàn bằng gỗ Pơ Mu độc nhất vô nhị ở Việt Nam.
PV vòng đường núi đến cuối bản Phia Ngái, gia đình anh Quàng Văn Tiên đang có đại sự dựng nhà sàn. Dùng tay áo quệt ngang mặt lau mồ hôi nhễ nhại, anh Tiên cho hay: “Làm được một cái nhà sàn thì dễ thôi, nhưng làm bằng gỗ Pơ Mu thì khó đấy. Tôi phải tích gỗ 3 năm ròng mới đủ số lượng dựng một cái nhà sàn nhỏ. Làm nhà sàn thì đơn giản, chỉ một tuần là xong nhưng tôi làm cầu kỳ nên phải mời thợ giỏi về đục đẽo nên chắc phải kéo dài đến ba tuần mới hoàn thành”.
Theo anh Tiên, gỗ Pơ Mu ở rừng Ngọc Chiến khá đa dạng. Tuy nhiên phải chọn loại gỗ đủ độ tuổi thì ngôi nhà mới vững chắc. Kinh nghiệm của người dân Ngọc Chiến là không bao giờ chặt gỗ khi vỏ có màu xanh ánh nâu hoặc xám vì khi ấy Pơ Mu còn non. Những cây Pơ Mu được dân bản chọn lựa là gỗ già khi trên vỏ có các vết nứt theo chiều dọc, có mùi thơm, lá sắp xếp trong các hệ thống cành nhánh nhỏ bằng phẳng, với các nhánh cây nhỏ nằm trên một mặt phẳng.
Gỗ được chuyển về theo nhiều cách, nhưng hầu hết người dân dùng trâu kéo gỗ từ trong rừng ra. Vì địa thế rừng Ngọc Chiến khá phức tạp nên chỉ có trâu khoẻ mới đủ sức kéo những cây gỗ lớn ra khỏi những cánh rừng rậm rạp.
Khi đủ gỗ, gia chủ sẽ chọn ngày lành mời thầy Mo đến làm lễ cúng ma tổ. Đặc biệt, gia chủ phải nhớ gốc và ngọn cây gỗ, không để ngọn cắm xuống đất theo quan niệm kiêng kỵ của dân gian. Vì thế, khi làm lễ thầy Mo phải hỏi gia chủ một cách kỹ càng để “làm phép nhập thần” cho gỗ.
Có thể nói “thánh địa” gỗ Pơ Mu Ngọc Chiến là nơi quy tụ được những ngôi nhà sàn cổ kính độc đáo và quý hiếm nhất hiện nay. Hàng nghìn ngôi nhà cổ đủ kích cỡ chênh vênh bên sườn núi thách thức thời gian, gió bão khắc nghiệt.
Ông Quàng Văn Toàn – Trưởng bản Khua Vai cho hay: “Nhiều đại gia ở Hà Nội đánh xe hơi lên tận nơi để chọn nhà sàn và trả giá đến tiền tỷ nhưng rất hiếm khi có ai đó ở Ngọc Chiến đồng ý bán. Đơn giản, vì nếu bán đi thì sẽ chẳng còn gì để ở”.
Còn ông Lò Văn Quạn thì nói vui: “Tính ra ở Ngọc Chiến thì cả bản là đại gia. Nhà Pơ Mu cổ kính giá trị nhất cũng vài tỷ đồng, còn loại nho nhỏ thì cũng vài trăm triệu đồng. Dân bản ở đây tuy nghèo thật nhưng không ai quy nhà ra tiền”.
Theo tính toán của ông Quạn, để làm được một ngôi nhà sàn đúng nghĩa thì cần ít nhất 15m3 gỗ Pơ Mu. Ngôi nhà sẽ có đủ 34 cột vuông và 2 cầu thang. Một ngôi nhà sàn cổ phải đủ 5 gian và được lợp bằng lá Gianh hoặc gỗ Pơ Mu. Loại gỗ này lợp rất chắc chắn và chống nhiệt tốt. Tuy nhiên, hiện nay nhiều ngôi nhà sàn hiện đại được cách tân xây bằng tường vôi phía dưới và lợp tôn bên trên.
Mỗi viên “ngói” lợp nhà sàn được xẻ từ gỗ Pơ Mu rộng 50cm và dài 1m đan lồng lên nhau. Các hoa văn họa tiết ở cột kèo được thiết kế khá tinh vi hình rồng phượng hoặc hoa lá. Theo ông Quạn, ngôi nhà sàn Pơ Mu có thể sau 100 năm mới phải trùng tu lại.
“Trữ lượng gỗ rừng hiện còn của Ngọc Chiến và một số xã lân cận trên 15.000ha. Trong đó, gỗ quý hiếm như Pơ Mu là chủ yếu, còn lại là thông, dổi. Vì nhu cầu làm nhà bằng gỗ Pơ Mu của bà con là truyền thống nên việc xử lý những hộ dân khai thác gỗ là không đơn giản”, ông Sòi Ngọc Dũng – Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm tỉnh Sơn La cho biết. (An Ninh Thủ Đô 23/8) đầu trang(
Chiều 21-8, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Gia Lai đã có buổi làm việc với Giám đốc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh về công tác quản lý bảo vệ rừng, công tác giao khoán diện tích rừng cho người dân, công tác chi trả tiền Dịch vụ môi trường rừng.
Theo ông Nguyễn Văn Hoan-Giám đốc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh (Mang Yang): Tổng diện tích rừng Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh giao khoán cho người dân quản lý, bảo vệ năm 2014 là 9.000 ha, tăng thêm 1.000 ha so với năm 2013; số hộ nhận giao khoán cũng tăng từ 320 lên 360 hộ với tổng số tiền dịch vụ môi trường rừng chi trả là hơn 1,8 tỷ đồng.
Từ 2011 đến 2013, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh nhận trên 13, 8 tỷ đồng, sau khi trích 10% cho công tác quản lý, số tiền còn lại được Vườn chi trả cho các hộ nhận giao khoán rừng là 2,9 tỷ đồng; chi cho công tác quản lý, tuyên truyền, hỗ trợ tiền lập hồ sơ bản đồ, kiểm tra kiểm soát hơn 5,2 tỷ đồng, tồn quỹ đến nay là 2,8 tỷ đồng.
Với nội dung này, buổi sáng cùng ngày lãnh đạo cũng có buổi làm việc với Ban Quản lý Rừng Phòng hộ Đak Đoa (huyện Đak Đoa). Hiện đơn vị đã tổ chức giao khoán cho 52 hộ gia đình, 4 nhóm hộ và 1 cộng đồng thôn làng sống gần rừng với diện tích giao khoán là 2.000 ha.
Tổng số tiền chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng từ năm 2011 đến 2013 là hơn 6 tỷ đồng, đã thực hiện chi trả cho người dân nhận giao khoán, chi công tác quản lý, mua sắm trang-thiết bị hơn 3,4 tỷ đồng, tồn quỹ là 1,9 tỷ đồng.
Trước những đề xuất của Giám đốc Ban quản lý Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh về việc nâng đơn giá chi trả trên 1 ha được hưởng (hiện tại thấp nhất là 200.000đồng/ha) đối với phần diện tích đã giao khoán nhằm tăng thu nhập cho người dân; đề nghị của Ban Quản lý Rừng phòng hộ Đak Đoa về hỗ trợ mua sắm thiết bị cần thiết, xe ô tô chuyên dụng phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh cho biết sẽ xem xét phối hợp với các ngành liên quan tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh. (Báo Gia Lai 24/8) đầu trang(
Sơ kết 3 năm thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), UBND huyện Đạ Tẻh nhìn nhận kết quả của việc thực hiện đã góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và đồng thời góp phần tích cực vào quá trình phát triển KT-XH của địa phương.
Cụ thể hơn, UBND huyện Đạ Tẻh đã nêu: “Chính sách chi trả DVMTR đã mang lại một số kết quả nhất định trong công tác bảo vệ và phát triển rừng; ý thức bảo vệ rừng của những người nhận khoán bảo vệ rừng theo chính sách chi trả DVMTR đã có những chuyển biến tích cực...”.
Bắt đầu từ 2011 đến nay, Đạ Tẻh là một trong những địa phương của tỉnh triển khai thực hiện chính sách chi trả DVMTR cho các hộ gia đình được cấp đất theo dự án Bảo vệ rừng và phát triển nông thôn thuộc 6 xã vùng đệm của Vườn quốc gia Cát Tiên là Đạ Lây, Hương Lâm, An Nhơn, Quốc Oai, Đạ Kho và thị trấn Đạ Tẻh.
Các đơn vị chủ rừng thực hiện chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn huyện Đạ Tẻh là Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đạ Tẻh, Vườn quốc gia Cát Tiên, Công ty cổ phần Cao su An Lợi và Công ty TNHH Lâm Thanh.
Về đơn giá, Đạ Tẻh cũng như các huyện khác trong tỉnh, đơn giá chi trả DVMTR được điều chỉnh tăng dần qua các năm; cụ thể: năm 2011, 100.000 đồng/ha/năm; trong 2 năm 2012 và 2013 được điều chỉnh lên 300.000 đồng/ha/năm; và 450.000 đồng/ha/năm trong thời điểm hiện tại - năm 2014. Đạ Tẻh có tổng diện tích đất tự nhiên là 52.419ha; trong đó có 34.768ha đất lâm nghiệp - gồm 29.674ha rừng sản xuất và 5.094ha rừng phòng hộ.
Trong số các đơn vị thực hiện chi trả DVMTR ở Đạ Tẻh, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đạ Tẻh là đơn vị có diện tích rừng và số hộ gia đình phải chi trả chiếm nhiều nhất: Năm 2011, diện tích rừng được chi trả DVMTR hơn 15.665ha với 661 hộ gia đình và 1 đơn vị tập thể (Cơ quan Quân sự huyện), tổng số tiền chi trả là 2.687.950.000 đồng; năm 2012, những con số tương ứng là 15.236ha, 681 hộ và 1 đơn vị, 3.825.312.000 đồng; năm 2013 là 15.140ha, 623 hộ và 1 đơn vị, 4.541.982.000 đồng; và năm 2014, dự kiến con số về diện tích và hộ cá nhân ít thay đổi nhưng số tiền chi trả sẽ cao hơn nhiều (bởi, mức chi trả của năm 2013 là 300.000 đồng/ha; còn năm 2014 là 450.000 đồng/ha).
Cùng với Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đạ Tẻh, Vườn quốc gia Cát Tiên là đơn vị có diện tích và số hộ chiếm cao thứ hai về chi trả DVMTR trên địa bàn Đạ Tẻh: Năm 2011, diện tích rừng được chi trả là 4.800ha cho 125 hộ gia đình và số tiền chi trả là 479.992.000 đồng; năm 2012: 4.800ha, 126 hộ, 1.439.976.000 đồng; năm 2013: 4.800ha, 288 hộ, 1.439.976.000 đồng. Với hai đơn vị còn lại (Công ty cổ phần Cao su An Lợi và Công ty TNHH Lâm Thành), số diện tích, số hộ và số tiền chi trả DVMTR không lớn - khoảng dưới 300ha, vài hộ gia đình và số tiền mỗi năm chi trả từ 40 - 90 triệu đồng.
Đánh giá chung của huyện Đạ Tẻh: Đã có sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; nhận thức và trách nhiệm của người dân về công tác bảo vệ và phát triển rừng đã được cải thiện theo hướng tích cực.
Bên cạnh đó là đã tạo được sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị chủ rừng với chính quyền địa phương và nhân dân trong công tác bảo vệ rừng; tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững, cũng như trong việc phòng chống các hành vi xâm hại tài nguyên rừng, hạn chế tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép; góp phần làm giảm số vụ vi phạm và mức độ vi phạm lâm luật trên địa bàn huyện Đạ Tẻh trong các năm gần đây.
Đặc biệt, cũng theo đánh giá của UBND huyện Đạ Tẻh, kết quả nhìn thấy rõ nhất của việc thực hiện chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn huyện trong những năm qua là đã huy động được nguồn nhân lực lớn cho công tác tuần tra bảo vệ rừng; từ đó, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề rừng, từng bước góp phần tích cực giảm tỷ lệ hộ nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn huyện Đạ Tẻh.
Với đối tượng là người nhận khoán quản lý bảo vệ rừng, đặc biệt là đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, việc giao khoán bảo vệ rừng bằng nguồn vốn chi trả DVMTR đã góp phần tạo thu nhập ổn định cho các hộ dân: Năm 2011 mỗi hộ trung bình có thu nhập từ 6 - 8 triệu đồng; năm 2012 - 2013: trên dưới 10 triệu đồng; và dự kiến trong năm 2014 này là 10 - 12 triệu đồng/hộ/năm.
Từ những phân tích kết quả đạt được và những hạn chế, có thể thấy một vài vấn đề nổi lên trong công tác chi trả DVMTR ở Đạ Tẻh đáng quan tâm: Việc tuyên truyền trực quan (panô, áp phích, tranh cổ động...) đã là tốt rồi nhưng vẫn đang rất cần kinh phí cho những buổi tổ chức họp dân để “nói vào tai bà con dân tộc thiểu số” những điều cần thiết về bảo vệ rừng trong thực hiện chính sách chi trả DVMTR.
Cùng đó, với công tác nghiệm thu giao khoán rừng, Đạ Tẻh cũng như hầu hết các địa phương khác trong cả tỉnh, chỉ mới dừng lại ở mức độ “kiểm kê” diện tích rừng còn mất chứ chưa đi sâu hơn về “kiểm kê” chất lượng rừng (đặc biệt là giá trị tăng trưởng) trước và sau khi giao khoán.
Nếu với những hộ nhận khoán quản lý rừng đảm bảo được sự tăng trưởng sẽ nhận được thêm nguồn lợi vật chất từ công sức của họ thì ngược lại, cũng cần có cơ chế xử phạt thích đáng những hộ để rừng trên diện tích nhận khoán bị mất. (Báo Lâm Đồng 22/8) đầu trang(
Hơn 10 năm qua, các tỉnh Tây Nguyên chuyển đổi hàng chục lâm trường thành các công ty lâm nghiệp. Tuy nhiên đến nay, phần lớn các công ty lâm nghiệp ở đây rơi vào cảnh sống dở, chết dở. Các tỉnh Tây Nguyên vẫn đang loay hoay tìm lối đi cho các công ty lâm nghiệp.
Thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động của các lâm trường quốc doanh thành Công ty TNHH MTV lâm nghiệp (Công ty lâm nghiệp) theo Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị nhằm góp phần mang lại hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt hơn công tác quản lý bảo vệ rừng, Tây Nguyên hiện có 56 lâm trường đã chuyển đổi thành công ty lâm nghiệp.
Sau khi chuyển đổi, các công ty này quản lý gần 1 triệu ha đất lâm nghiệp và có tổng vốn sản xuất kinh doanh khoảng 540 tỷ đồng (bình quân 9,64 tỷ đồng/công ty). Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, phần lớn lâm trường chuyển đổi sang công ty lâm nghiệp chỉ là đổi tên, còn cơ chế quản lý và phương thức hoạt động vẫn như trước.
Tại Đắk Lắk, cả 15 lâm trường trên địa bàn đã hoàn tất việc chuyển đổi thành các công ty lâm nghiệp, quản lý 196.523ha rừng và đất rừng. Ngoài một số đơn vị có lợi thế về vốn và đất đai đang kinh doanh có hiệu quả, phần lớn các công ty lâm nghiệp đang rơi vào cảnh nợ đọng ngân hàng, nợ lương công nhân, kinh doanh thua lỗ, thiếu vốn đầu tư sản xuất…
Nếu như trước đây, nguồn thu chủ yếu của các công ty này vẫn là tiền bán gỗ khai thác rừng theo kế hoạch hàng năm thì hiện tại, nhiều đơn vị không còn chỉ tiêu khai thác gỗ hoặc có chỉ tiêu nhưng vẫn không được khai thác. Bị cắt đứt nguồn thu, nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh bế tắc, không thể tổ chức, triển khai được bất kỳ một hoạt động sản xuất, kinh doanh nào ngoài việc nằm đợi kinh phí hạn hẹp từ trên rót về, hoặc phải “sống cầm hơi” từ nguồn trích phần trăm cho chỉ tiêu khai thác gỗ tự nhiên được phê duyệt hằng năm.
Thành lập từ năm 1978, Công ty lâm nghiệp M’Đrắk (huyện M’Đrắk) được xem là đơn vị làm ăn có hiệu quả của ngành lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk. Quản lý và  bảo vệ hơn 25.740ha rừng và đất lâm nghiệp (trong đó có 15.000ha rừng tự nhiên) với trữ lượng gỗ còn khá nhiều, hàng năm công ty vẫn được nhà nước cho chỉ tiêu khai thác gỗ rừng tự nhiên, cùng với trồng rừng nguyên liệu và kinh doanh dịch vụ du lịch nên sản xuất kinh doanh khá ổn định.
Đến năm 2014, không còn chỉ tiêu khai thác gỗ, công ty chỉ còn biết trông đợi vào 200ha rừng trồng đã cho khai thác. Nhưng giá gỗ hiện tại khá thấp, trong khi cước phí vận chuyển cao, khai thác chỉ có lỗ nên công ty đành “nhịn đói” cất dành. Mỗi năm, Công ty lâm nghiệp M’Đrắk được Nhà nước trả 235 triệu đồng cho công tác quản lý, bảo vệ rừng. Chừng đó chẳng thấm vào đâu vì nếu trừ hết các chi phí, tính ra công ty chỉ còn dư vỏn vẹn 150 ngàn đồng/1ha/năm.
Bi đát hơn, Công ty lâm nghiệp Cư M’lan (huyện Ea Súp) còn lâm vào cảnh thường xuyên nợ lương công nhân. Ông Nguyễn Hữu Thu - Giám đốc Công ty lâm nghiệp Cư M’lan bộc bạch: “Để có tiền duy trì hoạt động, công ty đã vay tiền từ các cá nhân, vay thế chấp từ tài sản của CB-CNV trong đơn vị, thậm chí chiếm dụng tiền thuế tài nguyên để trả lương công nhân. Hậu quả, do việc nợ chiếm dụng tiền thuế tài nguyên, nợ tiền thuê đất rừng nên công ty đã bị cơ quan thuế phong tỏa hoạt động bằng hình thức cưỡng chế lưu hành hóa đơn”.
Theo kết quả rà soát diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2008 đến 2013, tổng diện tích rừng bị mất trên 12.340 ha. Trong đó, diện tích rừng bị mất thuộc quản lý của các công ty lâm nghiệp chiếm gần 70%. Chỉ tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2014, toàn tỉnh có tới 1.013 vụ vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng, gần 40 ha rừng bị chặt phá.
Hiện tại, Công ty lâm nghiệp M’Đrắk cũng có gần 250 ha rừng và đất rừng bị “cạo trọc”, lấn chiếm để trồng cây nông nghiệp. Tại huyện Ea Súp, cả 4 công ty lâm nghiệp là Công ty Rừng Xanh, Công ty Ia Lốp, Công ty Ea H’mơ và Công ty Cư M’lan đều liên tục xảy ra tình trạng phá rừng và lấn chiếm đất rừng trái phép.
Có nhiều diện tích rừng tự nhiên nơi đây biến thành đất trắng, nguy cơ xóa sổ rừng tự nhiên ở đây đang ở mức báo động. Cụ thể, Công ty lâm nghiệp Rừng Xanh được giao quản lý bảo vệ khoảng 14.000 ha rừng nhưng đến nay chỉ còn khoảng 7.000 ha. Thế nhưng, ngay cả 7.000 ha rừng này cũng không liền ô, liền khoảnh mà chủ yếu còn lại theo kiểu da beo, da báo.
Tại Đắk Nông, tổng diện tích rừng bị lấn chiếm trên địa bàn đến tháng 6/2014 là gần 30 ngàn ha, nhiều nhất là ở huyện Đắk Song (10.582,650ha), huyện Krông Nô (5.419,900ha), huyện Tuy Đức (4.545,062ha)… Ngoài diện tích rừng thuộc lâm phần của Công ty lâm nghiệp Đắk N’Tao (huyện Đắk Song) và Công ty lâm nghiệp Quảng Sơn (huyện Đắk G’long), các khu vực rừng giáp ranh giữa xã Quảng Trực và xã Đắk Ngo (huyện Tuy Đức), rừng giáp ranh với huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước)… đang là những điểm nóng về phá rừng.
Qua trao đổi, nhiều công ty lâm nghiệp cho rằng nguồn tài chính để hoạt động không có, nhân lực tham gia quản lý bảo vệ rừng mỏng, nợ lương công nhân kéo dài nên đơn vị đành “bất lực” nhìn rừng bị triệt hạ. Ông Nguyễn Quốc Hưng – Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp Đắk Lắk thừa nhận: “Khó khăn về kinh phí, không có lương để trả cho nhân viên thì tất nhiên họ sẽ không nhiệt tình trong công tác bảo vệ rừng. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho rừng do các công ty lâm nghiệp quản lý bị mất nhiều”.
Có lẽ, chính vì sự thờ ơ, vô trách nhiệm trong công tác bảo vệ rừng của nhiều công ty lâm nghiệp đã dẫn đến tình trạng lâm tặc “nhờn thuốc”, ngày càng tỏ ra hung hăng hơn khi giáp mặt các lực lượng chức năng. Thời gian gần đây, trên địa bàn 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đã xảy ra rất nhiều vụ lâm tặc tấn công cán bộ bảo vệ rừng.
Vào tháng 3/2014, tại tuyến rừng tỉnh lộ 6 (tỉnh Đắk Nông), đối tượng vận chuyển lâm sản trái phép đã đâm chết 1 cán bộ bảo vệ rừng nhằm trốn thoát. Cùng tháng này, một nhóm hơn 30 lâm tặc với dao, gậy, cuốc, xẻng, súng tự chế… đã bất ngờ tấn công chốt quản lý bảo vệ rừng số 1 của Công ty lâm nghiệp Quảng Sơn (huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông), đánh trọng thương các cán bộ kiểm lâm và phá hủy toàn bộ dụng cụ sinh hoạt ở chốt.
Mới đây, vào chiều 15/8, tổ công tác gồm 9 cán bộ bảo vệ rừng của Công ty lâm nghiệp Rừng Xanh, 2 công an viên và 2 cán bộ Ban chỉ huy Quân sự xã Cư K’bang phối hợp tuần tra tại tiểu khu 215 (thuộc xã Cư K’bang, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk) đã phát hiện và vây bắt được 2 xe máy cày vận chuyển gỗ trái phép.
Khi tổ công tác đưa tang vật về thì bị khoảng 70 đối tượng mang theo nhiều hung khí như gậy gộc, dao, mác lao… đi trên khoảng 30 xe máy ập đến tấn công. Hậu quả, 1 cán bộ bảo vệ rừng bị đánh bất tỉnh tại chỗ, nhóm lâm tặc còn đập nát 5 xe máy và cướp 2 điện thoại của thành viên tổ công tác.
Trước những bất cập trong cơ chế  hoạt động của doanh nghiệp lâm nghiệp dẫn đến gia tăng tình trạng mất rừng như hiện nay, việc đẩy nhanh tái cơ cấu lâm nghiệp đang được Nhà nước hết sức quan tâm. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 30 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nông, lâm nghiệp. Trong đó nhấn mạnh, không chỉ tiếp tục sắp xếp lại công ty lâm nghiệp mà phải đổi mới căn bản và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị lâm nghiệp.
Theo Bộ NN&PTNT, do cơ chế chính sách chưa phù hợp với đặc thù của loại hình lâm nghiệp nên chưa tạo được động lực phát triển và thậm chí còn bị coi là rào cản, hạn chế quyền tự chủ trong tổ chức sản xuất kinh doanh của các công ty lâm nghiệp. Nhiều công ty lâm nghiệp ở Tây Nguyên chủ yếu dự vào khai thác rừng tự nhiên để có nguồn thu, vì thế khi bị cắt giảm chỉ tiêu khai thác gỗ thì không cân đối được nguồn vốn hoạt động. Trong khi đó, năng lực quản lý, điều hành của người đứng đầu nhiều đơn vị còn yếu và đa số trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk, để giữ được rừng và phát huy hiệu quả kinh tế từ vốn tài nguyên rừng trong các công ty lâm nghiệp này, không còn cách nào khác là trao quyền tự chủ cho họ. Trong đó, giải pháp liên doanh, liên kết đầu tư với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để nâng cao năng lực về vốn, phương án sản xuất kinh doanh trên từng đơn vị rừng được giao là hướng đi khả thi, bền vững hơn cả.
Bởi khi đó, rừng vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước (các công ty lâm nghiệp) và lợi ích từ rừng sẽ nâng cao đời sống của các cộng đồng dân cư tại chỗ. Thay vì cho các doanh nghiệp thuê rừng với thời hạn 50 năm, hoặc lâu hơn dưới nhiều hình thức sẽ dẫn đến việc tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. (Tài Nguyên & Môi Trường 22/8) đầu trang(
Ngày 1-7-2011 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum đã ban hành Nghị quyết 02-NQ/TU về phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững giai đoạn 2011-2015 (gọi tắt là Nghị quyết 02).
Qua 3 năm triển khai thực hiện có thể khẳng định Nghị quyết đã đi vào cuộc sống, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị chủ rừng bước đầu chuyển biến tích cực; trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền địa phương có rừng từng bước được xác định rõ ràng, cụ thể hơn.
Nhận thức về vai trò của rừng đối với đời sống xã hội và về công tác bảo vệ, phát triển rừng của các cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân được nâng lên rõ rệt. Đầu tư trồng rừng theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng; diện tích trồng rừng tăng dần qua từng năm. Rừng tự nhiên được khai thác theo phương án rừng bền vững, công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường.
Sự phát triển của ngành lâm nghiệp đã và đang góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm cho diện mạo nông thôn của tỉnh khởi sắc hơn; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Bộ máy chỉ đạo quản lý ngành lâm nghiệp đã được củng cố, kiện toàn từ tỉnh đến cơ sở. Một số chính sách hỗ trợ, phát triển lâm nghiệp được ban hành kịp thời; công tác lập quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển lâm nghiệp được chú trọng.
Đã huy động được nhiều nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng và sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp và đóng góp của người dân; vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong công tác quản lý và bảo vệ rừng tiếp tục được củng cố và tăng cường. Quyền và vai trò làm chủ của nhân dân được đề cao, vai trò lãnh đạo của Đảng trong các tổ chức lâm nghiệp được chú trọng, an ninh trật tự ở nông thôn được giữ vững…
Tính đến cuối quý II năm 2014, toàn tỉnh đã trồng được 5.935 ha rừng; khoanh nuôi phục hồi 12.896 ha rừng; trồng 12,8 triệu cây phân tán; bảo tồn và phát triển 7,88 ha Sâm Ngọc Linh; khai thác 32.495,2 m3 gỗ chính phẩm… duy trì độ che phủ của rừng đạt 67,4%.
Một số hạn chế, tồn tại: Một số huyện ủy chưa xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết; có nơi xây dựng chương trình còn chung chung, chưa thật sự cụ thể, sát với tình hình thực tế tại địa phương; công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên và hiệu quả chưa cao; tình trạng thâm canh, phá rừng trái pháp luật để làm nương rẫy vẫn còn xảy ra nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý; trách nhiệm của một số chủ rừng trong việc bảo vệ rừng tại gốc còn hạn chế; tác động của ngành lâm nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, người dân chưa thể sống và vươn lên làm giàu bằng nghề rừng ; công tác trồng rừng sản xuất, trồng Sâm Ngọc Linh, nuôi dưỡng rừng, khai thác gỗ đạt tỷ lệ thấp.
Một số giải phát triển khai thực hiện Nghị quyết 02 trong thời gian tới: Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức và các tầng lớp nhân dân về công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng bền vững.
Cấp ủy, chính quyền địa các huyện, thành phố, các sở, ngành liên quan các chủ rừng cần nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm chính trị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 02.
Xác định, khoanh vùng những khu vực trọng điểm có khả năng xảy ra tình trạng vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời, hiệu quả. Có giải phát xử lý triệt để các loại phương tiện xe độ chế, nhất là xe máy độ chế đang hoạt động lưu thông trên địa bàn.
Tăng cường kiểm tra người và phương tiện rà vào khu vực biên giới để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm. Xây dựng và ban hành quy chế làm việc, quy trình công tác của các Trạm kiểm soát liên ngành nhằm triển khai có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Rà soát, nắm chắc số hộ thiếu đất sản xuất ở các địa phương để có giải pháp bố trí đất sản xuất cho nhân dân. Tăng cường đầu tư cho phát triển rừng trồng, nâng cao hiệu quả rừng sản xuất; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển Sâm Ngọc Linh đã được phê duyệt.
Triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên; thực hiện khai thác tận dụng gỗ trên các công trình, dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng một cách hiệu quả.
Triển khai thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty lâm nghiệp trên địa bàn theo Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị và Quyết định số 686/QĐ-TTg ngày 11/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ. (Kontum.gov.vn 22/8) đầu trang(
Từ khi có chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, người dân xã Nà Hỳ (huyện Nậm Pồ) có cơ hội tăng thu nhập đó là: tập trung chăm sóc, bảo vệ rừng để được hưởng DVMTR.
Ông Lò Văn Khan, Chủ tịch UBND xã Nà Hỳ cho biết: Nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của công tác quản lý bảo vệ rừng, từ năm 2012 đến nay, UBND xã đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành đoàn thể thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cộng đồng, lồng ghép vào các buổi họp bản để tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng.
Bên cạnh đó, kiểm lâm địa bàn cùng với Ban chỉ huy quản lý bảo vệ rừng của xã tích cực tuần tra, kiểm soát, thiết lập mối quan hệ, xây dựng mạng lưới bảo vệ rừng ở các bản để kịp thời phát hiện và xử lý khi có đối tượng xâm hại rừng. Từ năm 2011 đến nay, chính quyền xã phối hợp với cơ quan chức năng huyện bắt quả tang và xử lý 3 vụ phá rừng, nộp về ngân sách Nhà nước 55 triệu đồng tiền xử lý vi phạm.
Để người dân sớm được thụ hưởng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, UBND xã Nà Hỳ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn của huyện Nậm Pồ tiến hành rà soát, hoàn chỉnh thủ tục giao đất giao rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng thôn, bản quản lý và bảo vệ.
Đến nay, trên địa bàn xã đã có 7 cộng đồng thôn bản được giao đất, giao rừng và được chi trả gần 1 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng. Anh Lý Vần Chuôn, Trưởng bản Huổi Cơ Dạo, xã Nà Hỳ cho biết: Vừa qua, bản tôi được Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh chi trả tạm ứng gần 60 triệu đồng tiền dịch vụ môi trường rừng năm 2013 – 2014.
Số tiền này, chúng tôi đã trích lại 10% để duy trì hoạt động tổ bảo vệ rừng của bản, còn lại chia đều cho tất cả các hộ gia đình. Tổ bảo vệ rừng của bản gồm 6 thành viên có trách nhiệm đi tuần tra, kiểm soát rừng 2 ngày/tuần, những ngày còn lại người dân đi làm nương gần khu vực rừng do bản quản lý có trách nhiệm theo dõi, báo cáo kịp thời cho tổ bảo vệ khi có đối tượng ở bên ngoài vào xâm hại rừng.
Ngoài ra, người dân xã Nà Hỳ còn trồng rừng, phát triển kinh tế rừng. Trong 2 năm (2013 – 2014), xã Nà Hỳ có trên 89ha rừng keo được nghiệm thu góp phần tăng thu nhập và ổn định đời sống cho người dân. Ông Lò Văn Dính, bản Nà Hỳ 1, xã Nà Hỳ cho biết: Sau khi được xã tạo điều kiện cho tham gia lớp tập huấn về kỹ thuật trồng rừng, gia đình tôi đã đăng ký trồng 1ha rừng keo. Hiện nay, rừng keo của gia đình đã được nghiệm thu và có doanh nghiệp ở Tuần Giáo hỏi mua. (Báo Điện Biên Phủ 22/8) đầu trang(
22/8, tại Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Tổ chức Lương thực & Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã phối hợp tổ chức Hội thảo "Chương trình hỗ trợ phát triển rừng và trang trại tại Việt Nam".
Tham luận tại Hội thảo, đại diện Hội Nông dân Việt Nam cho biết, hiện tại cả nước có 1,2 triệu hộ nông dân đang chăm sóc và bảo vệ khoảng 10 triệu ha rừng và gần 1 triệu trang trại trồng cây trên đất lâm nghiệp.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc phát triển đồi rừng gắn với cuộc sống người nông dân trồng rừng vẫn còn bất cập. Hiện có khoảng 500.000 hộ nông dân vùng đồi rừng thuộc diện hộ nghèo.
Ý kiến đóng góp của các đại biểu tại Hội thảo này sẽ là cơ sở để Hội Nông dân Việt Nam và Tổ chức FAO tập hợp xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình trồng rừng tại Việt Nam hiệu quả. Từ đó, giúp các hộ gia đình, cộng đồng xã hội sống trên đất rừng và đất lâm nghiệp được cải thiện sinh kế, giảm nghèo và tăng cường sự tham gia của Hội Nông dân và hộ dân trong quá trình hoạch định chính sách cho người dân trong lĩnh vực phát triển và bảo vệ rừng.
Mục tiêu đề ra, đến năm 2016, Chương trình hỗ trợ phát triển và trang trại tại Việt Nam sẽ tạo điều kiện để người nông dân khoanh nuôi tái sinh khoảng 750.000 ha và trồng mới khoảng 500.000 cây rừng. (VTV 22/8; Nhân Dân 23/8, tr8; Nông Thôn Ngày Nay 23/8, tr14) đầu trang(
21/8, Đoàn kiểm tra của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) tỉnh Sơn La đã tiến hành kiểm tra việc áp dụng, duy trì và cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 tại Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La.
Đoàn đã tiến hành kiểm tra 4/5 phòng chuyên môn thuộc Chi cục Kiểm lâm Sơn La về việc áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL, đồng thời hướng dẫn đơn vị lập hồ sơ công bố chất lượng theo Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
Qua công tác kiểm tra cho thấy: Sau hơn 2 năm áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của đơn vị mình, đến nay công tác cải cách hành chính của Chi cục Kiểm lâm Sơn La đã thu được những kết quả khả quan.
Các quy trình giải quyết công việc được xây dựng một cách khoa học, công khai, minh bạch; từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện cho cán bộ các phòng, ban giải quyết công việc một cách thông suốt, kịp thời, hiệu quả; đơn giải hóa quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc; giảm các tác động tiêu cực trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ khi giải quyết các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, nhận thức của cán bộ trong Chi cục về việc áp dụng HTQLCL được nâng cao rõ rệt.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL, Chi cục Kiểm lâm Sơn La còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục trong công tác triển khai đánh giá nội bộ theo kế hoạch đặt ra, cần tăng cường triển khai hoạt động đo lường sự thỏa mãn của khách hàng đối với HTQLCL…
Đoàn kiểm tra đã tiến hành nhắc nhở, đồng thời đưa ra giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng HTQLCL để đơn vị thực hiện hiệu quả hơn trong thời gian tới, góp phần quan trọng trong công tác cải cách hành chính của tỉnh Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. (Sở Khoa Học & Công Nghệ Sơn La 22/8) đầu trang(
20 - 22.8, Chi cục Kiểm lâm tỉnh phối hợp với Kiểm lâm vùng II tổ chức lớp tập huấn và phòng cháy chữa cháy rừng cho 50 học viên là kiểm lâm viên và người kiêm nhiệm làm công tác lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Lớp học nhằm nâng cao năng lực cho các học viên về nghiệp vụ phòng cháy chữa cháy rừng, công tác quản lý giống cây trồng lâm nghiệp và nghiệp vụ khuyến lâm. Ở mỗi nội dung chuyên đề, các học viên sẽ được nắm những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ để vận dụng vào thực tế công việc tại địa bàn phụ trách.
Các giảng viên đến từ Kiểm lâm vùng 2 còn trao đổi chuyên môn nghiệp vụ với các học viên, những khó khăn trở ngại khi thực thi nhiệm vụ.
Ngoài ra lớp tập huấn còn phổ biến những chính sách, văn bản hành chính từ trung ương đến địa phương để các học viên nắm bắt, kịp thời tác nghiệp đặc biệt trước tình hình nắng nóng kéo dài nhiều tháng qua; trong đó công tác bảo vệ và phòng cháy chữa cháy rừng là nhiệm vụ hết sức cấp bách, khẩn trương. (Báo Quảng Nam 21/8) đầu trang(
Gọi là rừng ngập mặn Long Thành, song thực tế đa số diện tích rừng ngập mặn lại nằm trên địa bàn hai xã Long Thọ, Phước An (huyện Nhơn Trạch). Huyện Long Thành chỉ có xã Phước Thái, Long Phước có rừng ngập mặn nhưng diện tích không nhiều.
Muốn đến rừng ngập mặn Long Thành phải ghé xuống bến sông Lòng Tranh, xã Long Thọ (huyện Nhơn Trạch) và đi xuồng theo những con rạch nhỏ vào sâu trong rừng. Càng vào sâu, rừng cây càng rậm rạp, có những khúc sông cây bần, đước mọc che gần kín con rạch khiến người ngồi trên xuồng phải dùng tay gạt cành qua hai bên mới có lối vào.
Theo lời ông Nguyễn Văn Thông, Phó trưởng phòng Bảo vệ rừng (Ban Quản lý rừng phòng hộ Long Thành), thì ông đã gắn bó với rừng ngập mặn từ sau ngày miền Nam giải phóng. Trước giải phóng, biết quân cách mạng trú ngụ trong cánh rừng ngập mặn, giặc đã đem bom phá tan hoang. Vì thế, sau giải phóng, cánh rừng này chỉ còn trơ lại các gốc cây. Đến năm 1977, tỉnh có chính sách cho trồng lại và rừng ngập mặn Long Thành mới dần được hồi sinh từ đó. Vì thế, tuổi đời của những cây đước, bần, mắm ở đây còn khá trẻ nên cây cao nhất cũng chỉ cao chừng 12-15m.
Các rễ cây theo thời gian nhô cao khỏi mặt đất từ 0,3-0,6m. Cây càng lớn tuổi thì bộ rễ càng ăn lên cao so với mặt đất. Nét đặc trưng của rừng ngập mặn là không có những dây leo chằng chịt. Khi thủy triều rút, các gốc cây trơ ra những bộ rễ màu nâu đan xen vào nhau, như một tấm lưới khổng lồ trông khá lạ mắt. Các thân cây cao, thẳng đuột ít cành nhánh. Tuy được trồng rải ra trong vài năm nhưng cây trong rừng ngập mặn mọc khá đều nhau, nhìn từ trên cao xuống giống như một tấm thảm màu xanh được trải rộng, gió thổi làm gợn sóng.
Ông Trần Văn Tròn, Đội trưởng Đội Bảo vệ rừng (Ban Quản lý rừng phòng hộ Long Thành) kể: “Theo thống kê, rừng ngập mặn Long Thành có gần 600 loài động thực vật sinh sống, nhưng chiếm đa số là bần, đước, mắn và chà là. Gần đây, ban quản lý rừng phòng hộ trồng thêm một số cây gỗ lớn, như: xu ổi, gõ biển để góp phần làm đa dạng sinh học”.
Vào rừng ngập mặn Long Thành phải biết cách tính con nước. Nếu không khi thuyền hay xuồng vào sâu bên trong, nước rút thì chỉ còn cách ngồi đợi thủy triều dâng mới đi tiếp được.
“Muốn thám hiểm sâu trong rừng ngập mặn nên chọn những ngày nước lửng, nước ít lên xuống để vào sâu trong rừng mà không sợ bị kẹt lại. Con nước phải tính theo ngày âm lịch, có 2 đợt nước lửng/tháng, mỗi đợt kéo dài chừng 5 ngày, từ ngày 7-11 và từ ngày 23-27 hàng tháng” - ông Hồ Đình Sơn, Trưởng phòng Bảo vệ rừng (Ban Quản lý rừng phòng hộ Long Thành) nói.
Mùa này, nước ở rừng ngập mặn chưa dâng cao nên đi vào những ngày nước lửng có thể ngắm được hết vẻ hoang sơ của khu rừng, từ những bộ rễ tủa ra đều tăm tắp quanh thân đến những con còng nhỏ đùa giỡn ngay dưới rễ cây, và chỉ cần tiếng động nhỏ là đám còng giật mình vội vã tìm nơi trú ẩn.
Buổi trưa, trời nắng chang chang nhưng ngồi trên thuyền đi sâu vào rừng ngập mặn vẫn thấy mát rượi. Phong cảnh tĩnh mịch của rừng ngập mặn lâu lâu lại rộn lên bởi tiếng hót lảnh lót của bầy chim bói cá làm cho đám gà nước đang tung tăng trên mặt rạch vội ngụp sâu xuống nước.
Ông Đàm Văn Đắc, Trưởng trạm Rừng giống của rừng ngập mặn, chia sẻ: “Trong rừng còn có khá nhiều loại đặc sản, như: Bạch tuộc, cua, ghẹ, chem chép, cá lác, cá chẽm, cá đối, cá nâu, bống cát. Ngoài bìa rừng có các loại rau, như: Rau chại, rau lìm kìm, đọt chà là được dân ở TP.Hồ Chí Minh, Biên Hòa khá ưa thích”.
Vì thế, ngày hay đêm đều có người dân chèo thuyền, lội bộ vào các con rạch trong rừng ngập mặn để đánh bắt thủy hải sản và hái rau rừng đem bán để mưu sinh. (Báo Đồng Nai 22/8) đầu trang(
21/8, gần 50 tình nguyện viên là học sinh đến từ Nhật Bản cùng các đoàn viên thanh niên thị xã Quảng Yên đã tham gia trồng rừng ngập mặn tại xã Hà An.
Với sự hăng hái, nhiệt tình của các tình nguyện viên, trên 200 cây Bần (cây Lậu) đã được trồng. Được biết, toàn thị xã có trên 2.670 ha rừng ngập mặn, diện tích này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ đê sông biển và môi trường sinh thái góp phần phát triển nông nghiệp và bảo vệ các vùng nuôi trồng thủy sản.
Trong đó, 12/ 19 phường , xã có rừng ngập mặn, phường Hà An đứng đầu các xã, phường trên địa bàn thị xã về diện tích rừng ngập mặn với gần 400 ha. Những năm gần đây cấp ủy, chính quyền phường đã tích cực vận động nhân dân trồng mới được gần 15 ha rừng ngập mặn tuy nhiên diện tích bãi triều chưa được phủ xanh, trồng rừng ngập mặn ở phường còn nhiều với trên 100 ha.
Đây là chương trình thuộc dự án “Trồng rừng ngập mặn - giảm thiểu rủi ro” do Hội chữ thập đỏ Nhật Bản tài trợ. Thông qua đó, khẳng định vai trò của Hội CTĐ trong công tác phòng ngừa, ứng phó, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.Tạo sự gắn kết cộng động giữa các quốc gia trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời trang bị kiến thức, giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức bảo vệ môi trường  sống. (Đài PTTH Quảng Ninh 21/8) đầu trang(
20/8 tại Tp.Pleiku, (Gia Lai) Cục bảo tồn đa dạng sinh học đã tổ chức hội thảo “tuyên truyền nâng cao năng lực và phổ biến pháp luật Đa dạng sinh học và các văn bản có liên quan” cho các cán bộ đang công tác tại chi cục bảo vệ môi trường, lực lượng cảnh sát môi trường và một số đơn vị liên quan thuộc các tỉnh Tây Nguyên.
Tại buổi hội thảo các đại biểu được nghe lãnh đạo Cục Bảo tồn đa dạng sinh học trình bày khái quát thực trạng và các vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học hiện nay.
Để thực hiện tốt công tác này, hiện nay Chính Phủ đã ban hành 8 Nghị định hướng dẫn liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc thực hiện Luật Đa dạng sinh học và 6 quyết định triển khai các nội dung liên quan do Thủ tướng Chính phủ ban hành và một số văn bản do các bộ liên quan ban hành.
Đây được xem là những cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học trước nguy cơ bị phá vỡ ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Hội thảo còn tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng quản lý đa dạng sinh học tại Gia Lai cũng như một số địa phương trên địa bàn Tây Nguyên, đóng góp ý kiến về cho dự thảo “Thông tư về cung cấp, trao đổi và quản lý thông tin về đa dạng sinh học” do Cục bảo tồn đa dạng sinh học chủ trì xây dựng. (Đài PTTH Gia Lai 21/8) đầu trang(
Với lợi thế có diện tích đất rừng lớn, những năm qua, xã Vĩnh Hòa (huyện Vĩnh Thạnh) đã vận động nhân dân tích cực tham gia trồng rừng nhằm phủ xanh đất trống và tăng thu nhập. Nhờ vậy, đời sống của người dân Bana ở đây đang từng bước được cải thiện.
Anh Đinh Minh Lua, ở thôn M9, xã Vĩnh Hòa, cho biết: “Trước đây gia đình tôi thuộc diện hộ nghèo của xã. Thông qua các chương trình, dự án của Nhà nước, những năm qua, gia đình tôi đã trồng được trên 3 ha keo, bạch đàn. Vừa rồi, tôi đã bán 1,5 ha rừng bạch đàn, thu lãi được 25 triệu đồng. Khoảng 2 năm nữa, chúng tôi sẽ có thêm 2 ha keo đến tuổi khai thác. Nhờ trồng rừng, gia đình tôi đã thoát nghèo”.
Có thể nói, những năm gần đây, nhận thức của người dân Vĩnh Hòa về phát triển kinh tế đồi rừng đã chuyển biến rõ nét, thể hiện qua việc đăng ký trồng rừng theo các dự án hằng năm. Cụ thể, khi có chỉ tiêu, kế hoạch trồng rừng của năm mới, rất nhiều hộ dân đã đăng ký tham gia. Hiện diện tích rừng sản xuất của xã đã trên 450 ha; nhiều hộ có thu nhập mỗi năm khoảng 30-40 triệu đồng, thậm chí hàng trăm triệu đồng, là động lực quan trọng để người dân yên tâm đầu tư trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng...
Để phát huy thế mạnh kinh tế đồi rừng, xã Vĩnh Hòa đã thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về giao đất, giao rừng đến tận hộ dân chăm sóc, quản lý và bảo vệ; phối hợp với các cơ quan chuyên môn mở các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ KHKT về trồng trọt và chăn nuôi cho bà con; định hướng, vận động người dân trồng xen canh đậu đen, đậu xanh ở những diện tích đất mới trồng rừng...
Nhờ vậy, bà con đã trồng được từ 80 đến 100 ha rừng/năm theo các chương trình, dự án, và tự đầu tư mua giống, phân bón trồng được khoảng 20 ha rừng/năm. Hàng năm, nông dân địa phương còn sản xuất 14 ha đậu phụng, 40 ha đậu xanh, đậu đen, 80 ha mì, đem lại nguồn thu nhập đáng kể. Nhiều hộ còn kết hợp giữa trồng rừng và chăn nuôi gia súc, cho thu nhập khá.
Ông Phạm Việt Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hòa, cho biết: Thu nhập từ rừng trồng đã giúp nhiều hộ xây dựng được nhà cửa kiên cố, chăm lo cho con cái được học hành; tỉ lệ hộ nghèo của xã giảm 6 - 7%/năm. (Báo Bình Định 22/8) đầu trang(
21-8, nhiều sinh viên thuộc một số trường Đại học của Nhật Bản đã sang Đồng Nai tham gia trồng rừng tại khu rừng ngập mặn do Ban Quản lý Rừng phòng hộ Long Thành quản lý.
Khoảng 2 ngàn cây xu ổi và gõ biển đã được trồng trong khu vực rừng ngập mặn tại địa bàn xã Phước An (huyện Nhơn Trạch). Xu ổi và gõ biển là 2 loại cây gỗ lớn sống khu vực rừng ngập mặn nhưng hiện nay còn rất ít. Trồng 2 loại cây này có tác dụng góp phần giữ gìn và phát triển đa dạng sinh học.
Theo Ban Quản lý Rừng phòng hộ Long Thành, trong vòng 3 năm lại đây, Ban quản lý đã phối hợp với các tổ chức, địa phương có rừng trồng được trên 40 hécta cây gỗ lớn trong rừng ngập mặn. (Báo Đồng Nai 22/8) đầu trang(
Nhằm tạo ra một cách thức sản xuất mới, chuyển đổi phương thức sản xuất để nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp, tăng hiệu quả sử dụng đất và chất lượng rừng trồng, phát triển lâm nghiệp bền vững, tỉnh Thái Nguyên hiện đang tập trung triển khai xây dựng mô hình "cánh rừng mẫu lớn" tại xã Quy Kỳ, huyện Định Hóa, với tổng diện tích gần 460 ha.
Đây là lần đầu tiên, mô hình "cánh rừng mẫu lớn" được xây dựng ở tỉnh Thái Nguyên. Theo đề án tổng thể, "cánh rừng mẫu lớn" ở Quy Kỳ được xây dựng dựa trên việc trồng rừng bằng tập đoàn cây đa tác dụng, có năng suất, chất lượng cao, sử dụng phương châm "lấy ngắn nuôi dài" thông qua trồng rừng kết hợp trồng xen cây dược liệu, lâm sản phụ, phát triển chăn nuôi dưới tán rừng.
"Cánh rừng mẫu lớn" gồm 4 dự án thành phần: dự án trồng rừng gỗ lớn kết hợp trồng cây đặc sản, dược liệu dưới tán rừng quy mô 151 ha; dự án ứng dụng khoa học công nghệ thâm canh rừng trồng sản xuất gần 200 ha; dự án trồng cây quế để chiết xuất tinh dầu 98 ha và dự án sản xuất lâm nghiệp kết hợp với sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp gần 20 ha.
Cơ cấu cây trồng trong "cánh rừng mẫu lớn" gồm các loại cây rừng bản địa có giá trị kinh tế cao đã qua khảo nghiệm phù hợp với sinh thái, thổ nhưỡng địa phương như dổi xanh, lim xanh, đa chai, chò chỉ...; khu vực thâm canh rừng trồng sử dụng các giống cây keo, mỡ, bạch đàn, thông, sa mộc...
Các loại lâm sản phụ trồng dưới tán rừng gồm các loại cây dược liệu, cây đặc sản, luôn có nhu cầu cao trên thị trường như: Sa nhân, ba kích, mây nếp, đinh lăng, giảo cổ lam... Trong "cánh rừng mẫu lớn", mật độ trồng rừng gỗ lớn có cây ăn quả trồng 500 cây/ha, trồng thâm canh cây mỡ 2.500 cây/ha, trồng thâm canh keo 1.660 cây/ha...
Với tổng vốn đầu tư khoảng 33 tỷ đồng trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, việc đầu tư cho mô hình "cánh rừng mẫu lớn" chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện (vốn doanh nghiệp chiếm gần 90% tổng vốn đầu tư) và một phần hỗ trợ của Nhà nước bằng nguồn chính sách phát triển rừng sản xuất theo chương trình phát triển và bảo vệ rừng giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn.
Các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xây dựng "cánh rừng mẫu lớn" được tỉnh Thái Nguyên ưu đãi theo quy định của Nhà nước về khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn gồm: giao rừng gắn với giao đất, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường, hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ...
Theo đánh giá của Chi cục Kiểm lâm Thái Nguyên - đơn vị chịu trách nhiệm chính trong xây dựng, triển khai đề án, mô hình cánh rừng mẫu lớn ở Quy Kỳ không chỉ tạo ra mô hình điểm về phát triển kinh tế lâm nghiệp mà còn từng bước tạo ra vùng du lịch sinh thái, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương, phù hợp với kế hoạch phát triển và bảo vệ rừng giai đoạn 2011 - 2020. (Bộ NNPTNT 22/8) đầu trang(
22/8, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Xuân Tiến cùng đại diện các ngành Nông nghiệp - PTNT, Giao thông - Vận tải, Kế hoạch Đầu tư, Tài nguyên - Môi trường và lãnh đạo thành phố Đà Lạt đã tới làm việc, khảo sát một số dự án có sử dụng đất rừng và dự án Khu chung cư 5B.
Thăm và làm việc tại dự án An Phú Lacue (thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương), dự án hợp tác trồng xà lách giữa Việt Nam - Nhật Bản, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Xuân Tiến đã đánh giá rất cao khả năng hợp tác hiện tại và trong tương lai, đặc biệt về nông nghiệp giữa Lâm Đồng và đối tác Nhật Bản. Ông cũng lắng nghe những chia sẻ, đề xuất của các chuyên gia Nhật Bản hướng tới mở rộng mô hình trồng rau theo xu hướng hữu cơ, nâng cao giá trị và danh tiếng của nông sản Lâm Đồng.
Thăm Dự án Khu dân cư 5B nằm trên địa bàn phường 3, phường 4, Đà Lạt, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu thành phố Đà Lạt, chủ đầu tư dự án, chú ý tới việc xã hội hóa, thu hút vốn đầu tư từ cộng đồng bên cạnh việc sử dụng vốn ngân sách. Ngoài ra, cần chú trọng tới vấn đề an toàn lao động cũng như đảm bảo tâm lý ổn định của cư dân trong vùng dự án.
Hiện dự án Khu dân cư 5B đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng cơ sở. Sau khi hoàn thành, dự án sẽ bao gồm 623 căn nhà liên kế, 200 căn nhà biệt lập, 3 khu chung cư với 500 căn hộ và một khu tiện ích công cộng bao gồm khu thương mại, khu vui chơi, trường học và trạm y tế.
Đặc biệt, Đoàn đã tới thăm và làm việc với chủ đầu tư của 3 dự án có sử dụng đất rừng bao gồm Dự án Khu nghỉ dưỡng Long Thành (phường 8, Đà Lạt), Dự án Du lịch sinh thái của Công ty V&R (phường 10, Đà Lạt) và Dự án Khu nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái An Tâm (phường 10, Đà Lạt). Cả 3 dự án trên đều sử dụng diện tích đất rừng tương đối lớn, có tác động mạnh tới trữ lượng rừng Đà Lạt.
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Xuân Tiến yêu cầu chủ đầu tư và các ngành liên quan xem xét, nghiên cứu, đánh giá thật kỹ quy hoạch theo hướng đảm bảo môi trường rừng, không để việc thực hiện dự án ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.
Việc thực hiện dự án sẽ phụ thuộc vào chính kết quả đánh giá mức độ ảnh hưởng tới môi trường rừng Đà Lạt vốn là rừng phòng hộ cảnh quan môi trường. (Báo Lâm Đồng 22/8) đầu trang(
UBND huyện Cát Hải vừa tổ chức hội nghị thảo luận, tham gia ý kiến xây dựng kế hoạch triển khai thí điểm mô hình “Quản lý, bảo vệ, phát triển rừng ngập mặn kết hợp nuôi trồng và khai thác thủy sản bền vững có sự tham gia của cộng đồng” tại xã Phù Long.
Đây là mô hình nằm trong khuôn khổ dự án xây dựng quan hệ đối tác giữa UBND huyện Cát Hải và Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và Phát triển cộng đồng (MCD) nhằm tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của các cộng đồng ven biển Việt Nam.
Mô hình thực hiện tại các đầm nuôi trồng thủy sản liền kề có diện tích rừng ngập mặn trong đê hoặc ngoài đê bao đang được các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp quản lý và sản xuất.
Qua đó, đánh giá kết quả về công tác bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, trong đó người dân đang trực tiếp nuôi trồng thủy sản là nhân tố chính tham gia thực hiện, chính quyền địa phương đóng vai trò chỉ đạo, giám sát.
Đồng thời tạo sinh kế mới ổn định, tạo thu nhập cao và không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tự nhiên của rừng ngập mặn. (Báo Hải Phòng 22/8) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Mạng theo dõi nạn buôn bán động vật hoang dã toàn cầu Traffic cho biết do nhu cầu sử dụng mật, da, thịt và tay gấu trong các ngành đông y và ẩm thực “truyền thống” ở Trung Quốc (TQ) tăng cao nên số gấu đen được buôn từ biên giới Nga sang TQ cũng tăng theo.
Báo cáo của Traffic cho biết, có ít nhất 2.800 con gấu đen đã bị giết hại ở châu Á trong 12 năm qua.
TQ vẫn là thị trường chợ đen lớn nhất thế giới buôn bán “gấu đen”. Chỉ tính riêng khu vực giữa Primorsky Krai của Nga và tỉnh Hắc Long Giang của Trung Quốc đã có 1.934 con gấu bị sát hại.
Giới chuyên gia bảo vệ động vật hoang dã cảnh báo tình trạng buôn lậu ở khu vực này đang tăng báo động, khi mà nhu cầu tiêu thụ tay gấu đang tăng lên ở TQ trong thời điểm hiện nay.
Tay gấu có nguồn gốc từ Nga được bán qua Trung Quốc với giá cao gấp 20 lần giá ban đầu. Hải quan thành phố Thanh Đảo hồi tuần qua vừa bắt một nhóm vận chuyển tấm da gấu còn dính cả đầu và tứ chi.
TQ đang tăng cường chống nạn buôn lậu các bộ phận cơ thể của loài gấu đen, nhất là nạn buôn gấu lấy mật.
Chính phủ nước này cũng vừa ban hành luật xử 10 năm tù giam đối với những người ăn các món được chế biến từ động vật quí hiếm và những đối tượng buôn lậu các loài này. (Tuổi Trẻ 23/8) đầu trang(./.
Biên tập: Lê Vòng