Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 21 tháng 10 năm 2014
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG

BẢO VỆ RỪNG
Báo Nông Thôn Ngày Nay đã từng phản ánh tình trạng vùng đệm Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thủy (huyện Giao Thủy) liên tục bị người dân chặt phá cây, hút bùn ra kênh để lấy chỗ nuôi ngao (vạng), khiến hệ sinh thái trong khu vực bị tàn phá nghiêm trọng.
Đến nay, mọi việc vẫn không có gì thay đổi, thậm chí tốc độ tàn phá VQG còn trầm trọng hơn.
Nông dân Đinh Minh Đức, xóm 2, xã Giao Thiện cho biết, 2 năm gần đây, dọc đầu trên và dưới kênh K2, K3 liên tục xảy ra tình trạng người dân cải tạo đầm nuôi tôm, cua tự nhiên (dưới tán rừng ngập mặn) để chuyển sang nuôi ngao. Theo ông Đức, nuôi ngao quả là “siêu lợi nhuận”, nhưng phải chặt cây, hút bùn đi rồi bơm cát vào mới nuôi được, vì thế diện tích rừng ở đây ngày càng giảm, kênh mương thì tắc nghẽn bùn đất.
Cách đầm ông Đức không xa, nông dân Nguyễn Văn Hán vừa lội dưới đầm lên bức xúc nói: “Hơn nửa tháng nay, anh Ninh (Trần Văn Ninh ở xã Gia Xuân) đã đưa máy về ngày đêm hút bùn ra kênh, khiến kênh K2 đục ngầu, đặc quánh bùn. Chúng tôi đã báo cho cán bộ VQG, Hạt Kiểm lâm Giao – Xuân – Hải, nhưng chẳng thấy ai ra kiểm tra, xử lý”.
Trao đổi với PV, ông Đoàn Ngọc Toản – Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Giao – Xuân – Hải thừa nhận, việc người dân phá, lấn chiếm rừng, hút bùn ra kênh mương tại VQG Xuân Thủy để nuôi ngao là có thật. Riêng năm 2013 đã xảy ra 14 vụ, số tiền xử phạt lên đến hàng trăm triệu đồng.
“Từ đầu năm đến nay cũng đã xảy ra 6 vụ, nhưng chỉ 1 vụ bị xử phạt là hộ ông Trần Trung Thụy ở ô đầm số 23, thửa 66, thôn Tân Hồng, xã Giao Thiện. Hộ ông Thụy đã phải trồng trả lại 1.453m2 rừng và bị phạt 15 triệu đồng” – ông Toản cho biết.
Theo lời ông Đức, đối với những hộ muốn được chuyển đổi, hút bùn… thì người đó phải có “quan hệ” với lãnh đạo địa phương, mấy năm trước hộ ông Tuyền, Trọng, Nam “chạy” mất vài chục triệu đồng mới được chuyển đổi.
Trao đổi với PV về những phản ánh của ông Đức, ông Đoàn Ngọc Toản thừa nhận có tiêu cực. “Trước đây, tôi đã quyết liệt xử phạt những hộ vi phạm, nên có lần đi về đêm, đã bị chủ đầm thuê đầu gấu chặn đánh. Rất may tôi phát hiện và kịp thời lánh nạn”- ông Toản nói.
Cũng theo ông Toản, mặc dù không ra mặt, nhưng chúng tôi biết nhiều lãnh đạo địa phương cũng có bãi nuôi tôm, cua, ngao ở đây, dưới tên của người khác. Việc liên tiếp xảy ra những sai phạm như trên cũng là xuất phát từ lợi ích kinh tế của con ngao, chứ không thì chẳng ai dám đụng đến một cây sú, vẹt nào.
Về vấn đề trên, ông Trịnh Bình Lục – Chủ tịch UBND xã Giao Thiện (Giao Thủy) cho biết, việc các hộ hút bùn ra kênh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng chảy, môi trường, bởi đây là kênh dẫn nước chính vào các đầm, phục vụ nuôi trồng thủy hải sản cho toàn khu vực Giao Thủy. Ông Lục cũng cho biết, bản thân ông có nuôi tôm, cua, ngao ở bãi, nhưng phủ nhận việc “chống lưng” cho những vi phạm vừa qua.
“Tôi có nuôi ngao, anh em cũng nuôi, nhưng ở đây có ít thôi mà tôi chủ yếu nuôi bên huyện Thái Thụy (Thái Bình). Anh Ninh thì tôi biết, nhưng không có chuyện “hậu thuẫn” cho việc hút bùn ra kênh. Hôm trước, tôi có nghe anh Phạm Văn Ánh (phụ trách quản lý tài nguyên VQG Xuân Thủy- PV) nói, nhưng vì bận, hơn nữa xã chúng tôi rộng tới 3.000ha, riêng bãi bồi đã 2.000ha, đi xa 10km nên chúng tôi chưa kịp kiểm tra” – ông Lục nói.
Trả lời phóng viên qua điện thoại, ông Phùng Văn Nhân – Phó Chủ tịch UBND huyện Giao Thủy một mực khẳng định những vi phạm tại VQG Xuân Thủy đã được xử lý triệt để. Nhưng khi PV đưa ra thông tin cụ thể, ông Nhân cho biết: Sẽ chỉ đạo lãnh đạo xã Giao Thiện kiểm tra và sớm xử lý, khắc phục tình trạng trên.
Đó là khẳng định của ông Nguyễn Phúc Hội - Phó Giám đốc VQG Xuân Thủy. Ông Hội cho biết: “Chúng tôi chỉ quản lý vùng lõi, vùng đệm do Hạt Kiểm lâm Giao - Xuân - Hải và UBND các xã Giao Thiện, Giao Xuân, Giao An… quản lý. Khi phát hiện sai phạm, chúng tôi chỉ có thể báo cáo lên Hạt Kiểm lâm, UBND các xã và phối hợp xử lý, chứ không có quyền xử lý”. (Nông Thôn Ngày Nay 21/10, tr6) đầu trang(
20/10, Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV) cho biết, vấn nạn du lịch trại gấu đã được giải quyết dứt điểm nhờ các chiến dịch tăng cường thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh.
Hoạt động kinh doanh du lịch trích hút mật gấu tại Hạ Long đã hoạt động từ khoảng năm 2007 với sáu trại gấu lớn dọc theo tuyến đường chính đến vịnh Hạ Long. Các trang trại nuôi nhốt gấu này thường xuyên tiếp đón các chuyến xe chở khách du lịch, chủ yếu là Hàn Quốc.
Tại đây, du khách được tận mắt chứng kiến việc trích hút mật gấu, sau đó mua mật gấu mang về nước. Các hoạt động này đã vi phạm pháp luật Việt Nam và Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã (CITES).
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều văn bản chỉ đạo cấm xe chở khách du lịch đến thăm quan các trại gấu, và sau nhiều năm nỗ lực, bốn trong tổng số sáu trang trại gấu đã ngừng các hoạt động kinh doanh du lịch trích hút mật gấu. Tuy nhiên, hai trang trại gấu còn lại vẫn ngang nhiên tiếp tục các hoạt động kinh doanh du lịch trích hút mật gấu và bán mật gấu cho du khách.
Đầu năm 2014, UBND tỉnh Quảng Ninh đã quyết liệt chỉ đạo các cơ quan chức năng có biện pháp chấm dứt mọi hoạt động du lịch trích hút mật gấu tại hai trang trại này, đồng thời thành lập một tổ công tác liên ngành để giám sát. Từ tháng 5 đến nay đã không còn đoàn khách du lịch nào đến thăm quan cả hai trại gấu này. Các cơ quan chức năng địa phương vẫn tiếp tục theo dõi các trang trại này để đảm bảo hoạt động du lịch trích hút mật gấu sẽ không hoạt động trở lại.
Bà Nguyễn Phương Dung, Phó Giám đốc ENV chia sẻ: “Thành công của chiến dịch này đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh trong việc xử lí hoạt động kinh doanh trích hút mật gấu trái phép và ngay tại điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Sự thành công của chiến dịch này là một ví dụ điển hình về sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng, các cơ quan báo chí, cộng đồng và các tổ chức xã hội". (Công An Nhân Dân 21/10, tr2) đầu trang(
20-10, cuộc họp song phương giữa Việt Nam và Indonesia về thực thi pháp luật bảo vệ động vật hoang dã đã được tổ chức tại Hà Nội nhằm tăng cường chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi giữa hai nước trong việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cuộc họp cũng hướng tới sự phát triển bền vững trong hợp tác kiểm soát buôn bán các loài hoang dã giữa cơ quan quản lý hai quốc gia cùng là thành viên Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Đây là cuộc họp song phương Việt Nam - Indonesa lần thứ 5 và tiếp nối các cuộc họp song phương năm 2010, 2011, 2012 và 2013.
Tại cuộc họp, PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đánh giá cao sự hợp tác ngày một bền chặt giữa Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam và Tổng cục Bảo vệ và Bảo tồn thiên nhiên (Bộ Lâm nghiệp Indonesia), nhấn mạnh đây là điểm tích cực trong hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia trong khu vực ASEAN, góp phần thực thi CITES hiệu quả trên toàn thế giới.
Ông Djohan Utama Perbatasari, Cục trưởng Cục Thanh tra và Bảo vệ rừng (Tổng cục Bảo vệ và Bảo tồn thiên nhiên Indonesia) hoan nghênh thiện chí và chúc mừng các nỗ lực của các cơ quan chức năng Việt Nam trong hợp tác với Indonesia để kiểm soát buôn bán các loài hoang dã, những giá trị đa dạng sinh học bất biến của thiên nhiên hai quốc gia và thế giới.
Cũng trong cuộc họp, cơ quan chức năng hai nước đã trao đổi và chia sẻ các thông tin về thực thi pháp luật bảo vệ động vật hoang dã, đề xuất các giải pháp cụ thể, hướng tới xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động chung Việt Nam - Indonesia để duy trì và phát triển có hiệu quả sự hợp tác bền vững trong kiểm soát buôn bán các loài hoang dã, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam và Indonesia là thành viên. (Nhân Dân 21/10) đầu trang(
Thời gian gần đây, rừng nguyên sinh vùng giáp ranh giữa xã Tư, huyện Đông Giang (Quảng Nam) với xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng) trở thành “điểm nóng” khai thác lâm sản trái phép.
Đây là khu vực hơn 5.000 ha của 6 tiểu khu thuộc vùng giáp ranh dài 27km với tỉnh Quảng Nam, rất giàu tài nguyên lâm sản, nhưng chỉ có 5 cán bộ nhân viên Trạm Quản lý bảo vệ rừng Cà Nhông, cùng 2 kiểm lâm địa bàn chịu trách nhiệm quản lý bảo vệ…
Vài ba tháng trở lại đây, “lâm tặc” đã lén lút xâm nhập vào lâm phận Đà Nẵng, săn tìm gỗ quý (chủ yếu kiền kiền, gõ…) chặt hạ, xẻ thành phách, cất giấu chờ cơ hội vận chuyển về xuôi tiêu thụ. Nhưng, hành động của những kẻ phá rừng không qua khỏi sự cảnh giác của bà con đồng bào dân tộc thiểu số Cơ Tu ở xã Tư, huyện Đông Giang. Họ đã kịp thời báo với chính quyền địa phương và lực lượng chức năng về sự xâm hại tài nguyên rừng đáng báo động này.
Ngay khi nhận tin báo của bà con, chính quyền các cấp và lực lượng Kiểm lâm huyện Đông Giang và Hòa Vang, cùng Ban Quản lý Rừng đặc dụng Bà Nà – Núi Chúa đã khẩn trương vào cuộc. Trực tiếp cùng lực lượng làm nhiệm vụ tại hiện trường có các đồng chí lãnh đạo UBND huyện Đông Giang và Sở NN&PTNT TP Đà Nẵng.
Liên tục trong 3 ngày 6, 7 và 8/10, các tổ tuần tra kiểm soát triển khai ráo riết, lần theo dấu vết “lâm tặc” và đã phát hiện tại khoảnh  5,  tiểu khu 37, thuộc rừng đặc dụng Bà Nà- Núi Chúa, 66 phách gỗ xẻ (55 phách gỗ kiền kiền, 11 phách gỗ gõ) tổng khối lượng 14,366 m3 khai thác nhiều tuần trước đó.
Cơ quan chức năng đã lập biên bản vụ việc và phối hợp với chính quyền các địa phương tiến hành tịch thu toàn bộ số gỗ trên. Cơ quan Kiểm lâm và Công an 2 địa phương đã khẩn trương vào cuộc điều tra vụ phá rừng nghiêm trọng này.
Nhận định không chỉ ở khoảnh 5 mà các khoảnh lân cận cũng bị lâm tặc tàn phá, gỗ đang cất giấu trong rừng, Sở NN&PTNT TP Đà Nẵng, UBND huyện Hòa Vang đã chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm, Ban Quản lý rừng đặc dụng Bà Nà- Núi Chúa và UBND xã Hòa Bắc tiếp tục mở rộng diện truy tìm lâm sản cất giấu trái phép.
Mặc cho thời tiết không thuận, liên tục có mưa, rừng nhiều vắt, song lực lượng chức năng không quản khó khăn, vất vả, tiếp tục băng rừng, lội suối kiểm tra, kiểm soát. Kết quả, trong 2 ngày 11 và 12/10, các tổ tuần tra kiểm soát phát hiện tại khoảnh 4, thuộc tiểu khu 37 có 4 điểm cất giấu 226 phách gỗ (loại nhỏ) với tổng khối lượng 10m3.
Mở rộng diện truy tìm sang khu vực rừng của huyện Đông Giang sát đó, lực lượng bảo vệ rừng phát hiện thêm 5 điểm cất giấu 211 phách, với 9m3 gỗ nữa. Toàn bộ số gỗ này đang được Ban Quản lý rừng đặc dụng Bà Nà - Núi Chúa, cùng dân quân xã Hòa Bắc và lực lượng Kiểm lâm tịch thu chuyển về Trạm Quản lý bảo vệ rừng Cà Nhông…
Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy 1 tuần, lực lượng chức năng đã phát hiện tại vùng rừng giáp ranh của huyện Đông Giang, Quảng Nam với huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, hơn 33 m3 gỗ chủ yếu gỗ kiền kiền và gõ.
Theo nhận định của Ban Quản lý rừng đặc dụng Bà Nà - Núi Chúa, rất có thể số gỗ bị lâm tặc khai thác trái phép chưa dừng lại ở khối lượng nêu trên, hiện đơn vị đang tiếp tục mở rộng quy mô tuần tra, kiểm soát.
Trao đổi về thực trạng nêu trên, ông Phạm Ngọc Sự, Trưởng Ban quản lý rừng đặc dụng Bà Nà - Núi Chúa cho biết: Trước đây, khu vực rừng giáp ranh này khá bình yên. Tình trạng phá rừng nghiêm trọng nêu trên xảy ra cách đây vài ba tháng, ông Sự nhận định, có thể sau khi tàn phá đến cạn kiệt tài nguyên lâm sản ở rừng Quảng Nam khu vực giáp ranh, “lâm tặc” đã lén lút xâm nhập trái phép vào lâm phận Đà Nẵng.
Rất may, tình trạng phá rừng này được phát hiện kịp thời, khi bọn chúng chưa kịp chuyển gỗ đi tiêu thụ. Từ vụ phá rừng này cho thấy, “lâm tặc” đã đánh hơi và xâm hại vào khu vực rừng giàu tài nguyên lâm sản nhất của Đà Nẵng, qua đó cần phải triển khai cấp bách phương án bảo vệ.
Trước mắt, Ban điều động  9 cán bộ nhân viên tại văn phòng và 2 Trạm Quản lý bảo vệ rừng Phú Túc và An Lợi tăng cường phối hợp với Trạm Cà Nhông, và lực lượng Kiểm lâm 2 địa phương thường xuyên tuần tra kiểm soát khu vực giáp ranh.
Trực tiếp chỉ đạo việc tuần tra kiểm soát tại vùng rừng giáp ranh, ông Trần Viết Phương, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Đà Nẵng cho rằng: Qua xem xét địa hình, “lâm tặc” phá rừng ở Đà Nẵng, nhưng vận chuyển gỗ ngược qua phía Quảng Nam, do vậy ngăn chặn hiệu quả tình trạng này rất cần sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 địa phương.
Đối với lâm phận Đà Nẵng, Sở đã chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm và Ban Quản lý rừng đặc dụng Bà Nà - Núi Chúa, tăng cường tối đa lực lượng và mở rộng diện tuần tra, kiểm soát dọc tuyến giáp ranh. Về lâu dài phải tính đến việc bổ sung lực lượng thường trực cho điểm nóng này. (Công An Nhân Dân 20/10) đầu trang(
Cần biết - Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với đặc điểm địa lý, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh mẽ, Việt Nam là một trong các quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao.
Trong lớp thú phải kể đến bộ linh trưởng thuộc ba họ khác nhau gồm họ cu li, họ khỉ, họ vượn, với 26 loài và phân loài. Trong đó có 5 loài, phân loài đặc hữu gồm voọc Cát Bà, voọc quần đùi trắng, voọc mũi hếch, chà vá chân xám, khỉ đuôi dài côn đảo.
Thú linh trưởng được xem là những loài chỉ thị cho sức khỏe hệ sinh thái, thước đo của mức độ đa dạng sinh học, đồng thời đóng vai trò quan trọng đối với đời sống văn hóa, tinh thần và khoa học phục vụ con người.
Việt Nam đã tăng cường đầu tư, xây dựng và phát triển bền vững các khu rừng đặc dụng nhằm bảo tồn sự đa dạng sinh học trong đó có các loài linh trưởng, với 2,2 triệu ha rừng đặc dụng được thành lập và 30 vườn quốc gia, 114 khu bảo tồn loài và sinh cảnh.
Tuy vậy, các loài thú linh trưởng Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, do nguyên nhân là hầu hết các loài linh trưởng đang phải sống trong các sinh cảnh nhỏ hẹp, bị chia cắt như quần thể voọc mũi hếch tại Hà Giang và Tuyên Quang, voọc cát bà tại Cát Bà – Hải Phòng, voọc quần đùi trắng tại Vân Long – Ninh Bình…
Ngoài việc mất nơi sống, thiếu nguồn thức ăn, còn có hiện tượng suy thoái nguồn gen do đồng huyết, cận huyết đối với các loài linh trưởng. Bên cạnh đó, chất lượng rừng suy giảm, sự xâm lấn do các hoạt của con người, khả năng lây các bệnh dịch từ con người, nhiễu động nơi sống làm giảm khả năng sinh sản, sống sót của các loài thú linh trưởng.
Đặc biệt, nạn săn bắn, buôn bán trái phép các loài thú linh trưởng ngày càng gia tăng là nguyên nhân trực tiếp đẩy nhiều loài linh trưởng đến nguy cơ tuyệt chủng. Các loài linh trưởng bị săn bắn, buôn bán nhiều gồm chà vá chân nâu, chà vá chân xám, khỉ đuôi dài, vượn đen má trắng.
Hiện nay có duy nhất 1 trung tâm cứu hộ các loài thú linh trưởng tại Vườn quốc Cúc Phương được hình thành năm 1993, trung tâm đã cứu hộ trên 260 cá thể, sinh sản thành công 240 cá thể và tái thả lại tự nhiên trên 50 cá thể; còn các trung tâm cứu hộ khác như Sóc Sơn, Củ Chi, Cát Tiên mang tính chất cứu hộ đa loài. Các trung tâm cứu hộ này thiếu nguồn nhân lực, không có một cơ chế tài chính bền vững, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài trợ nước ngoài.
Để bảo tồn và phục hồi các loài thú linh trưởng, Việt Nam cần có một kế hoạch hành động quốc gia kịp thời và tổng thể, có chế tài xử lý nghiêm khắc các hành vi săn bắt, nuôi nhốt, giết mổ, buôn bán trái phép. Thành lập hệ thống trung tâm cứu hộ thú nói chung và linh trưởng nói riêng; quy hoạch hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn, trong đó ưu tiên cho các khu bảo tồn thú linh trưởng.
Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên, đặt hàng các nghiên cứu về phân bố, tập tính, bảo tồn các loài thú linh trưởng. Cần tổ chức chiến dịch tuyên truyền bảo vệ linh trưởng, đặc biệt nhắm đến đối tượng săn bắn, tiêu thụ thú linh trưởng.
Đồng thời, nước ta nên có quy định cụ thể quản lý các loại dụng cụ súng, bẫy săn, phát triển các mô hình du lịch sinh thái bền vững và khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia. (Tuổi Trẻ 21/10) đầu trang(
Đó là biệt danh của các thành viên tổ kiểm soát hải quan Chi cục hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, qua những “chuyên án” bắt giữ hàng trăm khúc ngà voi được vùi sâu trong các thùng hàng thời gian gần đây.
Chiếc ôtô bảy chỗ dán kính màu đen lao ra khỏi sân trụ sở Chi cục hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất hòa vào dòng xe cộ vun vút trên đường. Chiếc xe chạy thẳng hướng cảng sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất.
Trong xe, lực lượng “đặc nhiệm” thuộc tổ kiểm soát hàng hóa hải quan chuẩn bị sẵn sàng tác chiến. “Tổ kiểm soát gồm chín thành viên. Chỉ cần nghe thông tin hàng nóng lọt về bằng đường hàng không là 24/24 giờ chúng tôi phải có mặt” - ông Nguyễn Văn Sơn, đội phó, cho biết.
Tại sân đỗ máy bay, hàng hóa ra vào kho nhộn nhịp. Một thùng cactông lớn được đóng gói cẩn thận, xuất từ máy bay của Hãng hàng không Turkish Airlines (Thổ Nhĩ Kỳ) lọt vào tầm ngắm của lực lượng “đặc nhiệm”.
Trên vận đơn đề dòng chữ: Người gửi: C.F, người nhận: Công ty VTTH (Hà Nội). Tên hàng hóa: Hạt điều. Thùng hàng ấy về từ châu Phi. Một loạt nghi vấn được tổ đặc nhiệm đặt ra: Vì sao hàng không về sân bay quốc tế Nội Bài thay vì Tân Sơn Nhất? Tên hàng hóa kê khai là hạt điều? VN là nước có rất nhiều hạt điều và hạt điều rất phổ biến, sao phải gửi về từ tận châu Phi?...
Thông tin từ hiện trường lập tức báo cáo về ban chỉ huy. Lúc này, ông Đỗ Thanh Quang - chi cục trưởng Chi cục hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất - quyết định xác lập chuyên án để phá án.
“Tôi cử cán bộ trinh sát bay từ TP.HCM ra Hà Nội tìm hiểu thông tin, địa chỉ người nhận. Truy tìm thông tin về người nhận, trải qua ba lần xác minh thì phát hiện đây là một địa chỉ ảo của những người buôn lậu ngà voi dựng lên để đánh lạc hướng cơ quan chức năng nếu bị phát hiện” - ông Quang nhớ lại.
Khi trinh sát từ Hà Nội quay về TP.HCM báo cáo cụ thể tình hình, lực lượng hải quan tại sân bay phối hợp với lực lượng kiểm soát phòng chống buôn lậu của Tổng cục Hải quan và các cơ quan chức năng tại TP.HCM cùng kiểm tra thùng hạt điều trên.
59 chiếc ngà voi với trọng lượng hơn 40kg được vùi giấu tinh vi trong hàng chục ký hạt điều đã làm những người có mặt bất ngờ. Những khúc ngà voi này được bọc rất kỹ bằng giấy bạc, ước tính giá trị lên đến hơn 2,4 tỉ đồng.
Đó chỉ là một trong nhiều vụ buôn lậu ngà voi, sừng tê giác mà lực lượng hải quan chống buôn lậu của Chi cục hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất phát hiện, xử lý.
Hằng ngày, chiếc xe của lực lượng đặc nhiệm vẫn liên tục di chuyển âm thầm trong sân bay. Ra tới sân đỗ máy bay, chiếc xe đậu nép sau một chiếc máy bay vận tải rồi dừng. Lúc này, gương mặt của ông Hà Văn Bá - đội phó đội kiểm soát hàng hóa - cùng các cán bộ trên xe tập trung cao độ nhìn qua lớp kính xe màu đen. Những cặp mắt nheo nheo, chăm chú. Một lát sau, chiếc ôtô lặng lẽ chạy qua một điểm khác để tiếp tục trinh sát...
“Chọn một vị trí thích hợp để tránh bị lộ. Chúng tôi ngồi ngay trên xe, lúc cần sẽ sử dụng ống nhòm quan sát. Ống nhòm có loại dành riêng cho ngày và loại sử dụng được trong điều kiện trời tối cho ban đêm” - ông Bá tiết lộ về những ống nhòm hồng ngoại mang theo trên xe. Ông Bá cũng cho biết “vũ khí” trên giúp kiểm soát được việc bốc dỡ hàng hóa từ xa để kịp thời phát hiện những dấu hiệu bất thường tại sân đỗ máy bay cả ngày lẫn đêm.
Ông Tống Lê Dân - chi cục phó Chi cục hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất - cho biết gần đây lực lượng chức năng phát hiện và bắt nhiều vụ buôn lậu ngà voi, sừng tê giác bằng đường hàng không vì đây là những vật có giá trị kinh tế rất cao và khó bị phát hiện khi giấu trong các thùng hàng.
“Đối với sừng tê giác, một chiếc sừng ước tính có giá lên đến 7-10 tỉ đồng nên dân buôn lậu thường chọn cách xách tay. Nhưng ngà voi thì thường không mang theo người mà được gửi theo đường hàng không dưới dạng bưu phẩm, bưu kiện. Địa chỉ ghi trên vận đơn thường là địa chỉ ảo. Nếu bị phát hiện, họ sẵn sàng bỏ luôn hàng” - ông Dân nói.
Theo ông Dân, không những cất giấu tinh vi lẫn trong hàng hóa, việc lựa chọn hình thức vận chuyển sao cho không “mất người”, dân buôn lậu ngà voi cũng “đánh hơi” hàng rất giỏi. Chủ hàng đã theo dõi ngay khi hàng vừa xuống sân bay, vào kho. Một khi “có động” như hàng hóa bị soi chiếu, kiểm tra kỹ là sẽ từ chối nhận hàng ngay.
“Chúng tôi luôn chú ý đến những tuyến bay trọng điểm, nơi xuất phát hàng đi từ những quốc gia trọng điểm” - một thành viên tổ kiểm soát hàng hóa hải quan cho biết. Đồng thời “sưu tra” đối tượng: đến tận nhà người nhận hàng để kiểm tra, “không thể có chuyện một ông xe ôm lại nhận lô hàng to như thế”.
Từ danh sách các hãng hàng không cung cấp, lực lượng sẽ “tầm soát” đối tượng, lọc ra những người cần thiết, có khi mất rất nhiều thời gian mới tìm được đúng đối tượng.
“Lực lượng hải quan soi chiếu theo hình dáng và màu sắc thu được. Người soi chiếu hàng hóa phải là người có đầu óc tưởng tượng cao. Phải biết sừng tê giác có hình dạng như thế nào, ngà voi hình dạng ra sao... Một chai dầu gội nếu là chất lỏng thì phải có một màu cố định, bên trong là dạng bột chắc chắn sẽ cho màu sắc khác” -  các thành viên tổ đặc nhiệm chia sẻ.
Từ kinh nghiệm kiểm tra hàng lậu lâu năm của mình, ông Dân kể vui ông thường đi siêu thị mua đồ hộp mang về chụp ảnh, lấy hình ảnh để phân tích, nâng cao nghiệp vụ soi chiếu cho lực lượng đặc nhiệm của mình. (Tuổi Trẻ 20/10) đầu trang(
TAND thị xã Sông Cầu (Phú Yên) vừa tuyên phạt Nguyễn Văn Ngọc (xã Xuân Lâm, thị xã Sông Cầu) một năm tù treo về tội hủy hoại tài sản.
Theo cáo trạng, ngày 1-4-2014, Ngọc đi thăm rẫy, sau đó cùng ba người khác nhậu tại lán trại trên rẫy. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Ngọc đến rừng trồng keo lá tràm của ông Nguyễn Xuân Lang ở gần đó.
Vì cho rằng ông Lang chiếm đất của gia đình mình nhưng khi được bồi thường (do giải tỏa) lại không cho tiền trà nước nên Ngọc nảy sinh ý định đốt rừng keo của ông Lang cho bõ ghét.
Ngọc dùng quẹt gas đốt ba chùm cỏ tranh ở ba vị trí khác nhau trên đất trồng keo của ông Lang làm lửa bốc cháy lan sang rừng keo của một người khác. Tổng giá trị thiệt hại là 38,5 triệu đồng. (Pháp Luật TPHCM 21/10) đầu trang(
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ cháy rừng với tổng diện tích bị thiệt hại gần 16,4 ha, gấp gần 20 lần so với diện tích rừng bị cháy trong năm 2013.
Hiện tại, mới chỉ bước vào giai đoạn đầu mùa khô năm 2014-2015 nhưng tại một số địa phương đã tiếp tục xảy ra cháy rừng. Điều này đặt ra cho các cấp, ngành chức năng, chính quyền các địa phương và người trồng rừng yêu cầu nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động triển khai các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) trong thời gian còn lại của mùa khô năm nay.
Theo ông Lê Văn Minh, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh, trước nguy cơ xảy ra các vụ cháy rừng ngày càng gia tăng, ngay từ đầu năm 2014, Chi cục đã tham mưu cho tỉnh kiện toàn Ban chỉ đạo PCCCR từ cấp tỉnh đến cấp xã, thành lập tổ, đội xung kích chữa cháy rừng ở các thôn có rừng với 800 người tham gia.
Chi cục tổ chức 4 hội nghị tập huấn về công tác PCCCR cho hơn 400 lượt người là các chủ hộ nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, cộng tác viên kiểm lâm và kiểm lâm địa bàn thuộc các huyện: Gia Bình, Quế Võ, Tiên Du và thành phố Bắc Ninh. Hợp đồng với Đài truyền thanh các địa phương có rừng tổ chức tuyên truyền quy ước bảo vệ rừng và công tác PCCCR trong mùa khô hanh.
Chi cục chỉ đạo các chủ lô, hộ nhận khoán trồng chăm sóc, bảo vệ rừng tiến hành xây dựng 3 km đường băng cản lửa, phát dọn thực bì hơn 9 ha, làm mới 2 bảng nội quy bảo vệ rừng và PCCCR đặt tại các vị trí trọng điểm, nhiều người đi lại, in và phát hơn 1.000 tờ rơi góp phần nâng cao ý thức người dân và khách du lịch trong quản lý bảo vệ và PCCCR.
Mặc dù đã có sự chủ động và triển khai đồng bộ các biện pháp nhưng từ đầu năm đến nay, tình trạng cháy rừng vẫn gia tăng, trong đó vụ cháy gần đây nhất xảy ra tại thôn Phật Tích, xã Phật Tích (Tiên Du) với diện tích rừng thiệt hại khoảng 0,18 ha.
Lý giải nguyên nhân số vụ cháy rừng, diện tích rừng bị cháy tăng cao từ đầu năm đến nay, ông Lê Văn Minh cho biết, đa phần các vụ cháy rừng xảy ra là do sự vô ý thức khi sử dụng lửa của các nhóm học sinh, thiếu niên tại các địa phương, việc ném, xả lửa, tàn thuốc bừa bãi của các nhóm thanh niên du lịch, dã ngoại, việc không kiểm soát tốt lửa khi thực hiện việc dọn dẹp, chăm sóc vườn nhà hoặc hoạt động thắp nhang, đốt vàng mã tại các phần mộ tiếp giáp với rừng, trong rừng.
Một nguyên nhân khác là do công tác điều tra sau cháy rừng chưa thực sự triệt để nên chưa xác định rõ nguyên nhân, đối tượng gây cháy để có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa. Mặt khác, ý thức tự giác tham gia công tác PCCCR của người dân nhiều nơi còn chưa cao, nhiều địa phương chưa chủ động trong công tác PCCCR rừng.
Để nâng cao khả năng kiểm soát, hiệu quả của công tác PCCCR, giảm thiểu số vụ cháy và thiệt hại do cháy rừng gây ra, trong thời gian tới các cấp, ngành chức năng cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả 5 nhóm giải pháp, trong đó trọng tâm là: Củng cố và xây dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo PCCCR các cấp, các tổ, đội xung kích PCCCR cấp thôn. Xây dựng quy ước bảo vệ rừng trong cộng đồng dân cư.
Tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền cho cộng đồng về chính sách của Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân và cộng đồng trong PCCCR. Huấn luyện kỹ thuật, phương pháp PCCCR cho lực lượng chuyên ngành, chủ rừng và các tổ đội xung kích. Phân vùng trọng điểm, dự báo, cảnh báo nguy cơ cháy rừng để giúp cho việc xử lý tình huống, bố trí nhân lực, vật lực đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ chữa cháy.
Các chủ rừng khi thiết kế trồng rừng cần lưu ý thiết kế hệ thống đường băng cản lửa hoặc xây dựng các công trình phòng cháy, đồng thời phải thực hiện đầy đủ thủ tục, quy định của pháp luật về công tác PCCCR và khắc phục hậu quả do cháy rừng gây ra.
Thực hiện tốt các giải pháp trên chắc chắn sẽ là tiền đề giúp cho công tác PCCCR trong thời gian tới đạt kết quả tốt, giảm thiểu số vụ cháy cũng như thiệt hại do cháy rừng gây ra. (Báo Bắc Ninh 21/10) đầu trang(
Người sản xuất sinh vật cảnh ở Đà Lạt, Di Linh đã và đang tiếp cận các quy trình kỹ thuật “thuần dưỡng” mới hơn 50 loài lan rừng đặc hữu của Lâm Đồng, hy vọng có thêm một nguồn thu nhập quan trọng cho kinh tế hộ gia đình.
Theo Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Ứng dụng Nông nghiệp công nghệ cao Đà Lạt: Lâm Đồng là một tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên với hệ thực vật đa dạng và phong phú, trong đó bao gồm khá nhiều loài lan rừng đặc hữu quý hiếm, phân bổ trên hầu khắp các khu rừng trong tỉnh.
Từ năm 2006 đến năm 2008, Viện Sinh học Tây Nguyên (đứng chân tại Đà Lạt) đã thu thập khoảng 210 loài lan rừng Lâm Đồng thì có đến 110 loài đặc hữu quý hiếm được xác định tên khoa học.
Những năm gần đây, nhiều loài lan rừng đã được “thuần dưỡng” từ nước ngoài “nhập cư” về với số lượng đáng kể, nhưng theo thời gian, lan rừng Lâm Đồng vẫn luôn chiếm ưu thế cạnh tranh nhờ tính đặc hữu về sắc màu, độ bền của hoa, nên thường đạt giá trị kinh tế cao hơn.
Tuy nhiên, trước tình trạng những cánh rừng bị xâm phạm vẫn chưa hết xảy ra ở Lâm Đồng, không ít loài lan rừng đặc hữu (trong đó có loài quý hiếm ghi trong Sách Đỏ) thường xuyên suy giảm nghiêm trọng vì bị thu hẹp không gian sinh tồn.
Để bảo tồn và từng bước nhân rộng nguồn gene lan rừng đặc hữu có giá trị hàng hóa ngày càng tăng ở Lâm Đồng, Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Ứng dụng Nông nghiệp công nghệ cao Đà Lạt đã xây dựng 3 mô hình ở thành phố Đà Lạt và 1 mô hình ở huyện Di Linh để đưa khoa học kỹ thuật mới vào nghiên cứu “thuần dưỡng”, từ đó hoàn chỉnh quy trình trước khi chuyển giao rộng rãi cho người sản xuất trên từng khu vườn nhà.
Tất cả 4 mô hình mẫu “thuần dưỡng” lan rừng Lâm Đồng đều đã đáp ứng các điều kiện: diện tích nhà kính, nhà lưới tối thiểu từ 100 - 300m2/mô hình; có lắp đặt giàn treo, hệ thống tưới nước và thoát nước trong điều kiện bán tự nhiên… Mỗi mô hình được vốn nhà nước hỗ trợ 200 chậu lan rừng trên 2 năm tuổi (từ 7-20 đơn vị/chậu), được chọn chăm sóc từ 51/110 loài lan đặc hữu quý hiếm ở Lâm Đồng do Viện Sinh học Tây Nguyên thu thập nói trên.
Sau từ 6-9 tháng vừa thực hành vừa bổ sung kỹ thuật mới, với 51 loài lan rừng sưu tập cho mỗi mô hình đã mang lại những tín hiệu khả quan. Ở mô hình thứ nhất với diện tích 150m2 khung gỗ, nhà lưới 2 tầng che sáng 50%, tọa lạc bên hồ nước, đảm bảo những thông số cơ bản về độ ẩm, độ thông thoáng cho lan rừng sinh trưởng đạt yêu cầu mỗi ngày.
Tùy theo mỗi loại lan rừng, mô hình ở đây đã phối trộn các loại giá thể dớn sợi, dớn bảng chặt nhỏ với than đen rồi “đong” vào từng chậu sành sứ, chậu gỗ và chậu nhựa - tỷ lệ giữa 1 phần than trộn chung từ 3 đến 5 phần dớn - để phát triển bộ rễ khỏe mạnh, có khả năng hút đủ chất dinh dưỡng lên nuôi thân, lá và hoa.
Đồng thời, tiến hành bó chặt từng giò lan rừng trên đoạn thân cây dẻ và cây vú sữa treo trên giàn hoặc cắm sâu vào chậu giá thể. Sau nhiều tháng theo dõi, nhiều tên hoa ở mô hình đầu tiên đã chứng tỏ hiệu quả đề kháng các loại sâu bệnh và tăng trưởng với tốc độ nhanh như: Huyết nhung trơn, Long tu, Kim điệp, Lan hương, Thủy tiên vàng, Hải vàng, Hỏa hoàng, Gấm Thượng Hải…
Ở mô hình thứ hai nằm trên diện tích rộng đến 1.000m2, môi trường bên trong nhà lưới với những hàng cây cảnh bố trí bao quanh hồ nước, trên đó ở từng phần gốc, cành cây, các bảng dớn giá thể được “đặt” lên cho lan rừng đeo bám và đã phát triển tươi tốt không thua kém khi sinh trưởng tự nhiên trong rừng.
Ở 2 mô hình còn lại, 51 loài lan rừng được “canh tác” trên giá thể và giàn treo tương tự như mô hình 1 và 2, nhà lưới che 50% ánh sáng mặt trời, kết hợp tưới phun tự động và tưới phun trực tiếp, cũng được thu về những “chỉ số” mới về phát triển rễ, chồi, thân lá…
Kết quả 4 mô hình “thuần dưỡng” lan rừng đều cho hoa đồng loạt trên vườn nhà với nhiều kích thước từ dạng nhỏ đến trung bình và lớn. Bên cạnh loài lan nở ra đơn độc từng đóa hoa một như Lan hài vân, còn có những loài lan nở ra từng chùm hoa như Kim điệp, Hải yến, Hoàng thảo hạc vĩ, Dáng hương thơm…
Rồi rực rỡ nhiều sắc màu với Thanh đạm tuyết ngọc (trắng tuyền), Hỏa hoàng (màu cam), Huyết nhung (màu đỏ), Hoàng thỏa giả hạc (tím hồng)… Và xuất hiện các tên hoa nở lâu tàn là Huyết nhung trơn, Vân đa dạ hương, Tóc tiên trung…
Đến nay, toàn bộ quy trình mẫu về “thuần dưỡng” lan rừng vừa nêu, đã được chuyển giao trực tiếp đến 40 hộ gia đình ở Đà Lạt và Di Linh và đang tiếp tục nhân rộng trên các địa bàn lân cận. (Báo Lâm Đồng 16/10; Kinh Tế Nông Thôn 17/10, tr11) đầu trang(
UBND huyện đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác quản lý bảo vệ rừng 9 tháng, triển khai nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2014. Ông Dương Văn Xanh – Phó chủ tịch UBND huyện chủ trì hội nghị.
Qua báo cáo tại hội nghị cho thấy, tính đến cuối tháng 9/2014, Hạt Kiểm lâm huyện và Vườn quốc gia Yok Đôn đã phối hợp với chính quyền địa phương, Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Tổ chức được 40 cuộc họp dân ở 40 thôn, buôn ở 7 xã phổ biến các nội dung về Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Bộ luật Hình sự và các văn bản liên quan đến công tác quản lý và bảo vệ rừng, có gần 3.000 lượt người dân đến dự. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng được tuyên truyền, triển khai đến từng hộ gia đình.
Hạt Kiểm lâm và các Trạm kiểm lâm địa bàn thường xuyên đôn đốc các xã vùng lõi phân công lịch trực 24/24 giờ vào các ngày trọng điểm khô hanh, duy tu bảo dưỡng và quản lý các phương tiện, dụng cụ phục vụ phòng cháy, chữa cháy rừng hiện có luôn vận hành tốt.
Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động về khai thác và sử dụng lâm sản luôn được quan tâm thực hiện thường xuyên, UBND huyện đã chỉ đạo Hạt Kiểm lâm huyện, Ban quản lý rừng phòng hộ Buôn Đôn kịp thời hướng dẫn các cá nhân, tổ chức thực hiện việc khai thác và sử dụng lâm sản theo đúng quy định, đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
Tuy nhiên, tình trạng khai thác vận chuyển lâm sản trái phép vẫn diễn ra, trong 9 tháng qua các đơn vị chuyên môn của huyện đã phát hiện 756 vụ, tăng 92 vụ so với cùng kỳ năm 2013. Đã xử lý 676 vụ, tịch thu 351m3 gỗ các loại, giảm hơn 323m3 so với cùng kỳ năm trước, tịch thu gần 1.500 phương tiện và dụng cụ các loại. Tổng số tiền xử phạt các vụ vi phạm hơn 3,5 tỷ đồng.
Tại hội nghị, các đại biểu đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng, đề án giao đất giao rừng, việc khai thác lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy hiện nay của người dẫn đang diễn biến phức tạp, cần có biện pháp ngặn chặn kịp thời, một số kiểm lâm địa bàn yếu về năng lực, nghiệp vụ nên hiệu quả trong công tác quản lý bảo vệ rừng đạt chưa cao.
Nhiều diện tích đất quy hoạch cho phát triển rừng phòng hộ, nhưng bị người dân lấn chiếm làm nương, rẫy. Việc triển khai thực hiện các dự án phát triển vùng rừng nguyên liệu của doanh nghiệp chưa thực sự đem lại hiệu quả, tiến độ trồng rừng chậm.
Kết luận hội nghị, ông Dương Văn Xanh – Phó chủ tịch UBND huyện đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo của huyện, các địa phương cần tập trung, quyết liệt hơn nữa trong việc trong công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Trong thời gian tới các thành viên ban chỉ đạo, đặc biệt là các xã có rừng và lực lượng kiểm lâm của huyện, tăng cường các biện pháp tuần tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý tình trạng chặt phá rừng; đẩy mạnh công tác phòng cháy, chữa cháy rừng; công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng sâu rộng cho các tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức trách nhiệm của người dân để tham gia cùng với chính quyền địa phương, các ngành chức năng thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng gắn với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường theo hướng bền vững. (Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Buôn Đôn 18/10) đầu trang(
Sáng 21/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức hội nghị đánh giá công tác quy hoạch và thành lập khu bảo tồn biển tại Việt Nam, đề xuất kế hoạch giai đoạn 2015-2020.
Khu bảo tồn biển có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế biển, cải thiện sinh kế của cộng đồng ngư dân các địa phương ven biển, bảo tồn biển còn có ý nghĩa to lớn đối với nghiên cứu khoa học, giáo dục cộng đồng, giải trí và du lịch sinh thái; góp thêm cơ sở pháp lý và cung cấp các công cụ hành chính cho việc đấu tranh bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, giải quyết các vấn đề môi trường xuyên biên giới trong vùng Biển Đông mà các nước trong khu vực đang quan tâm.
Báo cáo của Bộ NN-PTNT cho thấy, theo quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020, đã được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2010, nước ta sẽ có 16 khu bảo tồn biển. Tới thời điểm này, đã thành lập và hình thành được mạng lưới 9/16 khu bảo tồn biển, gồm: Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Côn Đảo, Phú Quốc.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám cho biết, đến nay, hệ thống cơ chế, chính sách cho bảo tồn Biển về cơ bản đã hình thành tương đối đồng bộ, gồm: Luật Thuỷ sản, Luật bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến 2030, Quy hoạch Hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam….
Bộ NN-PTNT đã phối hợp với UBND các tỉnh, thành liên quan tổ chức nhiều sự kiện truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng dưới các hình thức đa dạng như: tìm hiểu về đa dạng sinh học biển, tìm hiểu về tiềm năng nguồn lợi tại các khu bảo tồn biển… Bộ cũng đã phối hợp với Chính phủ các nước như Đan Mạch, Mỹ… các tổ chức quốc tế như WB-GEF, IUCN, NOAA,…; và nhận được sự hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật để triển khai công tác bảo tồn biển Việt Nam.
Tuy nhiên, một số quy định tại các văn bản liên quan đến bảo tồn biển còn có sự khác biệt, gây lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển; chưa có quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức và định biên biên chế của ban quản lý khu bảo tồn gây khó khăn cho nhiều địa phương trong việc đề xuất hình thành bộ máy này.
Một trong những khó khăn nữa được chỉ ra là kinh phí hoạt động của Ban quản lý khu bảo tồn, theo quy định thì có 3 nguồn (ngân sách nhà nước, đóng góp của các tổ chức, cá nhân và nguồn thu từ dịch vụ môi trường liên quan đến hoạt động thu phí), nhưng thực tế mới dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước cấp, và nguồn ngân sách cũng còn ít so với nhu cầu.
Hơn nữa, các khu bảo tồn biển thường gắn với những khu vực mà cộng đồng dân cư nghèo, sống chủ yếu phụ thuộc vào nguồn lợi từ tự nhiên khai thác từ các khu bảo tồn. Trong khi các chính sách hỗ trợ tạo sinh kế cho ngư dân sống trong và xung quanh các khu bảo tồn biển chưa có, gây khó khăn cho công tác bảo tồn.
Bên cạnh việc khắc phục các tồn tại hiện nay, Bộ NN-PTNT cho rằng, thời gian tới cần điều tra, nghiên cứu cập nhật số liệu đề xuất thêm các vùng biển có tiềm năng bảo tồn để quy hoạch thành các khu bảo tồn, bổ sung vào hệ thống các khu bảo tồn biển Việt Nam, nhằm tăng diện tích các vùng biển có tiềm năng bảo tồn và quản lý. (VOV 21/10) đầu trang(
Ở Việt Nam, 9 cây muỗm có niên đại gần 1.000 năm ở đền Voi Phục là những cây đầu tiên được VACNE công nhận là cây di sản. Nhưng sau một thời gian ngắn đã có 8 trong số 9 cây muỗm bị chết.
Trao đổi với PV báo Người Đưa Tin về hiện tượng 8 cây muỗm di sản có niên đại gần 1.000 năm ở đền Voi Phục (phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội) liên tiếp chết, ông Phùng Quang Chính - ủy viên ban chấp hành hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) cho rằng: “Ngoài lý do cây già và sâu bệnh thì có sự tác động của cộng đồng. Ngay việc chăm sóc, diệt sâu, mối không đúng cách cũng khiến cây bị “bức tử”...”.
Tìm đến ban Quản lý Di tích đền Voi Phục, chúng tôi được ông Nguyễn Văn Tùng, Trưởng ban cho biết, trước đây, 8 trong 9 cây muỗm phải nhờ tới sự can thiệp và chữa trị của các chuyên gia về cây trồng. Đầu năm 2013, khi phát hiện ra những dấu hiệu cây bị bệnh, ông có liên lạc với VACNE nhằm mục đích thông tin, yêu cầu sự giúp đỡ từ các chuyên gia.
Sau lời kêu cứu, VACNE có cử người xuống tận nơi, lấy mẫu nấm về kiểm tra và xem xét. VACNE đã giới thiệu các chuyên gia từ viện Lâm nghiệp Việt Nam tới chữa trị cho cây bằng hình thức phun thuốc từ trên cao. Khoảng giữa năm 2013, cây muỗm bị bệnh có tiến triển tươi tốt nhưng đến tháng 11/2013, 3 cây muỗm bị rụng lá và chết khô dần. Đến nay, cả 8 cây được chăm sóc đều đã chết khô.
Cụ Hà Văn May là thủ từ giữ đền Voi Phục hơn 40 năm nay, mặc dù đã 94 tuổi nhưng vẫn còn rất minh mẫn, cụ cho biết trong số 9 cây muỗm thì hai cây nằm ngoài khuôn viên của đền. Nhiều lần những hộ dân quanh đó đòi cưa cành để xây nhà, song chính quyền phường Thụy Khuê đều phản đối quyết liệt mới giữ được. “Dù vậy, chỉ trong thời gian ngắn 8 “cụ muỗm” lần lượt chết khô. Xót xa lắm...”, cụ May tâm sự.
Cùng trao đổi với PV báo Người Đưa Tin, ông Phùng Quang Chính - ủy viên ban chấp hành VACNE khẳng định các cây muỗm ở đền Voi Phục có nguyên nhân chính là do sự tác động của cộng đồng và sâu bệnh.
“Cây cũng như người, già cũng sẽ phải chết. Nếu như các cây muỗm được chăm sóc tốt thì cây sẽ sống lâu và ngược lại. Ở đền Voi Phục sau khi được ban Quản lý đền thông báo việc cây bị bệnh, chết chúng tôi đã xuống đền và mời chuyên gia chữa bệnh nhưng cây không khỏi. Có thể là khi các đơn vị thi công tu bổ lại đền đào móng làm đứt rễ cây hoặc dùng xe tải chở vật liệu đè lên rễ cũng khiến cây bị chết”, ông Chính nói.
Theo thống kê của VACNE, Việt Nam hiện có khoảng 700 cây di sản, các cây này có tuổi thọ trung bình từ 200 đến 300 năm và được vinh danh tại nhiều địa phương. Về ý kiến Nhà nước vinh danh cây di sản xong bỏ mặc đấy, ông Chính cho hay do VACNE không được cấp kinh phí. Ngoài ra, ông Chính cũng lý giải: Hiện nay không chỉ ở đền Voi Phục có cây di sản chết sau khi được bảo vệ, chăm sóc mà ở một số nơi khác như Thanh Hóa, Hoài Đức (Hà Nội) cũng đang xảy ra tình trạng tương tự.
Ông Chính lấy dẫn chứng, cây Táu ở đền Thiên cổ miếu (xã Trưng Vương, TP.Việt Trì) có niên đại khoảng 300 năm sau khi được công nhận cây di sản đã có dấu hiệu héo, rụng lá. Nguyên nhân là do người dân chăm sóc cây quá tốt. Họ xây bồn bao quanh gốc cây, đổ đất phù sa, bón hàng tạ phân cho cây nhưng họ có biết làm như thế là đang ngăn cản quá trình quang hợp của cây hay không?
Hay như cây Gạo có niên đại 350 năm ở Hoài Đức, các cụ ở đây đổ nước vo gạo, nước tinh khiết vào gốc cây cũng là nguyên nhân khiến cây ra lộc nhưng bị héo, cành khô, bên cạnh đó còn xuất hiện sâu đục thân...
Theo các nhà khoa học cần có những biện pháp chăm sóc cây di sản một cách đúng kỹ thuật để giúp cây khỏe mạnh, chống chịu được với các loại sâu bệnh và kéo dài tuổi thọ. Đơn giản như việc chăm sóc cây một cách vô tội vạ, phi khoa học cũng khiến cây di sản bị “chết oan”. (Người Đưa Tin 19/10) đầu trang(
Đoàn công tác liên ngành gồm: Sở TN&MT, CS môi trường , Chi cục Kiểm lâm tỉnh phối hợp với BQL Khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh, chính quyền H. Phước Sơn và H. Nam Giang mở đợt kiểm tra, truy quét "vàng tặc" tại khu vực giáp ranh 2 huyện.
19-10, Đoàn công tác liên ngành cho biết, tại khu vực Vàng Nhẹ (H. Phước Sơn) Đoàn đã phát hiện, biên bản và tiêu hủy 4 lán trại, 5 máy đãi bằng gỗ cùng 6 máy xay đá cùng các thiết bị như máy nổ, thùng dầu do các đối tượng "vàng tặc" cất giấu trước khi bỏ trốn; tại khu vực suối Rin (xã Đắc Pring, H. Nam Giang), nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh, đoàn kiểm tra tiếp tục phát hiện nhiều điểm khai thác vàng sa khoáng trái phép, "vàng tặc" để lại những lán trại trống không cùng nhiều máy xay đá và các thiết bị khác. (Công An TP Đà Nẵng 21/10) đầu trang(
Trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, voi không chỉ là một tài sản lớn của gia đình, mà có vị trí quan trọng đời sống vật chất, văn hoá tinh thần; nhiều người còn xem voi như một thành viên trong nhà, trong cộng đồng mình.
Ở xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước có một gia đình người dân tộc M’Nông là một trong những gia đình như thế. Họ cũng là người đang nỗ lực để duy trì và bảo vệ những chú voi hiếm hoi còn lại ở đại ngàn.
Dù chỉ mới ngoài 20 tuổi đời, nhưng anh Điểu Trọng đã có hơn 10 năm gắn bó với những con voi của gia đình, điều này giúp anh có thêm kinh nghiệm trong quá trình thuần dưỡng voi.
Theo anh Trọng, tuy có nhiều động tác điều khiển nhưng những tín hiệu bằng âm thanh của người quản tượng vẫn là quan trọng nhất và voi sẽ ứng xử theo ý chủ. Voi tuy to lớn và cồng kềnh là thế nhưng rất khéo léo.
Anh Điểu Trọng cho biết: “Thuần phục voi cũng rất dễ, voi rất nghe lời và hiểu ý của chủ. Nó giúp ích cho mình rất nhiều. Với nó, tôi thấy gần gũi lắm. Khi nó đau, nó bệnh tôi hấy thương và lo lắng lắm”.
Từ một giống vật hoang dã khi được thuần dưỡng, dần dần voi trở thành người bạn thân thiết với con người trong đời sống sinh hoạt hàng ngày nơi đây.
Anh Điểu Vóc, thôn Đak La, xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, Bình Phước cho hay: “Mình nuôi dưỡng nó cho tốt, mình chăm sóc nó chẳng hạn voi nó có bệnh này kia thì mình phát hiện sớm thì mình biết cái cách để mình cúng điếu nó để tồn tại lại”.
Ngoài việc sử dụng voi làm sức kéo phụ giúp bà con những công việc nặng như kéo gỗ, vận chuyển hàng hóa, đối với người M’Nông, voi còn là biểu tượng cho sự may mắn.
Do đó, dù đã có rất nhiều người hỏi mua nhưng gia đình nhất quyết không bán, mà giữ lại, nuôi dưỡng, nhằm truyền lại cho lớp con cháu. Bởi không chỉ là một tài sản lớn của gia đình, mà voi còn có vị trí quan trọng đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số; thậm chí, voi được coi như một thành viên trong cộng đồng.
Anh Điểu Vóc, thôn Đak La, xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, Bình Phước chia sẻ: “Hồi xưa ông bà, ông cố nội để lại rồi tới mình bây giờ rồi mình cũng phải để lại cho con cái mình sau này. Vì sao vậy ạ? Vì mình coi nó như cái đồ vật quý giá đối với bản thân mình, đã gắn bó với mình”.
Hiện nay, Bình Phước có 6 hộ dân ở huyện Bù Đăng đang nuôi 8 con voi cái, giống châu Á, trọng lượng 2 - 3 tấn/con, độ tuổi 30 - 50 tuổi, trong đó 7 con khỏe mạnh, có khả năng sinh sản tốt.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh, bắt đầu từ quý tư này, đơn vị sẽ hỗ trợ 4 hộ dân nuôi voi ngụ xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, số lượng 4 con, với mức bình quân 500.000 đồng/tháng/con theo tâm tư, nguyện vọng của các hộ nuôi voi cũng như góp phần định hướng ý thức, trách nhiệm cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hôi gìn giữ, bảo tồn đàn voi. (VTV 19/10) đầu trang(
Ông Phan Thanh Tùng, Trưởng phòng Bảo vệ rừng – Bảo tồn thiên nhiên (Chi cục Kiểm lâm Hà Tĩnh) cho biết, thời gian gần đây tại địa bàn huyện Hương Sơn xuất hiện đàn voi rừng với nhiều cá thể xâm hại rừng trồng của bà con địa phương.
Điển hình như ngày 8/10, tại khu vực Khe Lui Lui, thôn Khe Dầu (thuộc Tiểu khu 55, xã Sơn Kim I), xuất hiện đàn voi rừng và trong quá trình di chuyển tìm kiếm thức ăn đã phá hại nhiều diện tích rừng keo trồng của bà con nhân dân.
Sau khi nhận được thông tin, Hạt Kiểm lâm Hương Sơn đã chỉ đạo Trạm Kiểm lâm đóng trên địa bàn phối hợp với chính quyền xã Sơn Kim I, Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo tổ chức tuyên truyền cho bà con không được đi lại khu vực đàn voi xuất hiện và dùng các biện pháp để đẩy đuổi đàn voi.
UBND tỉnh Hà Tĩnh cũng đã có Công văn giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng chỉ đạo các đơn vị, lực lượng chức năng trực thuộc phối hợp với chính quyền địa phương theo dõi, thực hiện các biện pháp ngăn chặn, đẩy đuổi.
UBND xã Sơn Kim I thành lập các tổ, đội thường trực theo dõi việc di chuyển kiếm ăn của đàn voi; tuyên truyền khuyến cáo người dân hạn chế đi lại trong rừng, đặc biệt khu vực có khả năng đàn voi hoạt động; thực hiện các biện pháp ngăn chặn như: đánh kẻng, trống, loa phóng thanh, đèn pin chiếu sáng vào mắt voi… để đẩy đuổi đàn voi vào rừng; bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người dân và bảo vệ sức khỏe cho đàn voi. (Tin Tức 21/10) đầu trang(
20.10, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Bình cho biết, đã phối hợp với các cơ quan chức năng vận chuyển một gốc sưa có kích thước “khủng” vào lưu giữ để chuẩn bị trưng bày tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh.
Gốc sưa “khủng” trên được người dân địa phương phát hiện vào ngày 23.2 trong khi đang rà cá tại khu vực ngầm bến Troóc (xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch). Sau 2 ngày tích cực triển khai, lực lượng chức năng địa phương mới trục vớt được gốc sưa trên. Phần gốc có chiều dài thân 1,65m; đường kính thân 1m; nặng khoảng 2 tấn. Sau khi giám định chủng loại, các cơ quan chức năng kết luận gốc sưa trên là sưa mộc vàng (gỗ nhóm 1).
Đây là gốc sưa lớn nhất được phát hiện từ trước tới nay tại Quảng Bình. Sau đó gốc sưa trên được cất giữ, bảo quản tại Hạt Kiểm lâm huyện Bố Trạch. Tại phiên họp thường kỳ tháng 2.2014, UBND tỉnh quyết định đưa gốc sưa “khủng” trên vào trưng bày tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh nhằm phục vụ khách tham quan.
Ngày 20.10, gốc sưa “khủng” đã được các lực lượng chức năng giữ nguyên hiện trạng, làm sạch, đánh bóng, xử lý hóa chất để chống mối mọt và vận chuyển vào Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Bình.
Cùng ngày, Bảo tàng tổng hợp tỉnh cho biết đã bố trí một vị trí nhằm cất giữ và bảo quản gốc huê “khủng” trên để chờ ngày trưng bày vì hiện bảo tàng đang được xây dựng chưa hoàn thiện nên chưa thể đón khách thăm quan.
Theo tìm hiểu của PV Báo Lao Động, tại thời điểm phát hiện gốc sưa trên, gỗ sưa có giá thị trường khoảng 12 - 15 triệu đồng/kg. Dư luận địa phương cho rằng thời điểm đó gốc sưa này có giá khoảng 17 tỷ đồng. (Lao Động 21/10) đầu trang(
Những ngày qua, người dân nhiều nơi đổ xô đến khu vực Đình Phú Thuận tại ấp Phú Hòa A, xã Phú Thuận A, huyện Hồng Ngự để xem cây trôm rừng và xin nước nấu từ thân cây để uống… trị bá bệnh.
Cây Trôm rừng có tuổi thọ gần 200 năm, cao khoảng 30m đến 40m, đường kính của thân từ 6m – 7m. Cách đây hơn 2 tuần do ảnh hưởng mưa, giông nên cây trôm rừng bị ngã. (Nông Thôn Ngày Nay 21/10, tr6) đầu trang(
Môi trường nước hồ đang bị đe dọa ô nhiễm, nguồn thủy sản tự nhiên đang cạn kiệt dần, người mưu sinh trên hồ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn... Đó là thực trạng đáng buồn đang diễn ra trên hồ thủy điện Trị An, Đồng Nai ngày nay.
Năm 2002- 2004, vụ “xẻ thịt” lòng hồ Trị An, ngăn chặn các eo ngách trên lòng hồ làm ao nuôi, đầm nuôi thả cá trái phép là tâm điểm chú ý của dư luận cả nước. Hàng loạt cán bộ quản lý từ cấp tỉnh trở xuống đến xã đã bị kỷ luật vì liên quan đến sự vụ này. Sau đó các hồ, ao trái phép đã phải phá dỡ, trả lại mặt nước hồ.
Gần 10 năm sau, việc lấn chiếm lòng hồ lại bị tái diễn, tuy hình thức có sự thay đổi, quy mô ở mức độ nhỏ hơn nhưng tính chất thì chẳng có gì khác so với lần vi phạm trước.
Các cơ quan chức năng vẫn đang “loay hoay” chưa biết xử lý vấn đề này ra sao, trong khi mỗi ngày người đăng chắn, nuôi thả cá trái phép vẫn xả hàng tấn thức ăn chăn nuôi, thuốc kháng sinh xuống hồ gây ô nhiễm nguồn nước tự nhiên.
Theo con tàu của lực lượng Kiểm lâm thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai, PV phải mất gần 2 tiếng mới tới được địa điểm người dân đăng chắn lưới trái phép trên hồ, đó là địa bàn xã La Ngà, huyện Định Quán.
Hiện ra trước mắt PV là hàng chục eo ngách trên vùng bán ngập hồ Trị An đã bị người dân đăng chắn, đón lõng cá vào sinh sản và thả nuôi trong những tháng nước hồ đầy.
Chỉ tay về hướng cái chòi nhỏ trên mặt hồ, ông Nguyễn Hữu Phước, Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Khu bảo tồn nói, toàn bộ khu này có đến cả trăm ha đã bị người dân địa phương mua lưới mắt nhỏ về đăng chắn khoảng 3 năm nay mà chúng tôi vận động họ tháo dỡ chưa được. Việc đăng chắn này là hoàn toàn tự phát, khi chúng tôi phát hiện thì một vùng nước lớn đã bị vây kín bởi lưới rồi.
Theo ông Phước, đăng chắn có tác hại là không cho cá sau khi sinh sản ở vùng eo ngách bán ngập lọt ra ngoài hồ, nên lượng cá tôm trong hồ bị giảm đáng kể, dẫn đến mất tính đa dạng sinh học của hồ Trị An. Thêm vào đó là một lượng phân, thức ăn chăn nuôi đổ xuống hồ do một số hộ thả thêm cá vào nuôi trong đăng chắn, gây ô nhiễm môi trường nước.
Trong lúc thả neo để quay lại hình ảnh lưới đăng trái phép, bắt gặp vài thuyền nhỏ lấp ló, dò xét phía trong bờ, mà theo các anh kiểm lâm là những người bảo vệ cho chủ đăng chắn trái phép.
Gặp hai anh em Nguyễn Niên, Nguyễn Dũng (hộ có hợp đồng với Khu Bảo tồn được phép đánh bắt cá trên hồ) đang trở vào bờ sau chuyến lưới cá buổi sáng, anh Nguyễn Niên cho biết gia đình anh có 6 người sống ven hồ thuộc xã La Ngà, huyện Định Quán, chuyên làm nghề lưới cá trên hồ này cả chục năm nay, nhưng lúc này kiếm cá thật sự khó khăn hơn trước rất nhiều.
Chỉ vào hai thùng xốp đựng nửa nước, anh Niên cho biết từ sáng đến 12 giờ trưa mới bắt được khoảng 4kg tôm nhỏ và khoảng 2kg cá tạp, bán hết cũng chỉ được 300.000 đồng, trừ tiền xăng dầu còn chẳng nổi 200.000 đồng.
Theo anh niên giãi bày, nhiều hộ đăng chắn quá, dẫn đến không có cả lối vào bờ mỗi khi gặp mưa, gió lớn trên hồ, rất nguy hiểm. Thêm vào đó, các anh luôn bị xua đuổi mỗi khi cho thuyền lưới lại gần đăng chắn vùng nước nông, trong khi ra giữa lòng hồ sâu rất khó bắt được cá tôm.
Ông Nguyễn Hữu Phước cho biết: Từ đầu năm 2014 chúng tôi đã tiến hành xử lý vi phạm hành chính 11 trường hợp đăng chắn lưới loại mắt nhỏ bị cấm, với mỗi hộ vi phạm bị phạt 3 triệu đồng, còn việc buộc các hộ này tháo dỡ đăng chắn trả lại nguyên trạng vẫn chưa thể tiến hành.
Trong cuộc họp mới đây bàn cách xử lý các hộ vi phạm đăng chắn lòng hồ Trị An của UBND huyện Định Quán mà PV được tham dự, cho thấy vẫn chưa có biện pháp xử lý triệt để nào được thông qua. Trong cuộc họp có đại diện các phòng, ban chuyên môn của UBND huyện Định Quán, đại diện Khu Bảo tồn và các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai.
Rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề trách nhiệm ai là người ra quyết định cưỡng chế các hộ đăng chắn thả nuôi cá trái phép trên hồ Trị An, buộc tháo dỡ trả lại nguyên trạng ban đầu.
Có ý kiến cho rằng, UBND tỉnh Đồng Nai đã có quyết định giao quản lý hồ Trị An cho Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai thì Khu bảo tồn phải có trách nhiệm quản lý, xử lý các trường hợp vi phạm này. Đại diện Khu bảo tồn cho rằng họ mới được giao quản lý hồ mấy năm nay, trong khi các hộ dân lấn chiếm mặt nước hồ để giữ cá, thả nuôi lại nằm ở các xã La Ngà, Phú Ngọc của huyện Định Quán, nên chính quyền địa phương cũng phải có trách nhiệm. Việc xử lý triệt để 14 hộ lấn chiếm trái phép này phải thuộc về UBND huyện Định Quán mới đúng.
Cuộc họp khá nhiều ý kiến, duy chỉ có đại diện các xã La Ngà, Phú Ngọc là không có ý kiến gì mà chỉ ngồi nghe.
"Hơn 800 hộ dân (có hợp đồng với Khu Bảo tồn) làm nghề đánh bắt cá trên hồ thì tỏ ra nóng giận, khi liên tục “tra tấn” lãnh đạo Khu bảo tồn bằng các cuộc điện thoại, có khi cả lúc nửa đêm"- ông Trần Văn Mùi, Giám đốc Khu bảo tồn chia sẻ.
Dư luận ở huyện Định Quán cũng phản ánh đến lãnh đạo Khu bảo tồn, cho rằng những hộ đăng chắn trên chắc chắn không riêng gì của họ, mà phải có sự hùn hạp, đứng sau của cán bộ chính quyền địa phương.
Những nghi vấn này PV đã hỏi trực tiếp ông Phạm Quý Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy huyện Định Quán, ông cũng thẳng thắn: “Trước đây thì cũng có một vài cán bộ hùn hạp, nhưng nay thì rút hết rồi. Quan điểm của huyện là phát hiện cán bộ huyện, xã sai phạm là xử lý nghiêm, còn việc các hộ dân chưa chịu tháo dỡ đăng chắn, thì tới đây chúng tôi sẽ phối hợp với Khu bảo tồn xử lý triệt để, đúng pháp luật”.
Bà Nguyễn Thị Thanh Yên, Chủ tịch UBND huyện Định Quán thông tin trong cuộc họp, huyện đã nhận được đơn của một vài hộ xin được giữ đăng chắn một thời gian nữa để thu hồi lại vốn đầu tư. Huyện chưa có ý kiến về vấn đề này, chờ Khu bảo tồn có kế hoạch xử lý triệt để việc đăng chắn, chứ kiên quyết không cho tồn tại.
Theo thông tin PV thu thập được, có hộ bỏ ra cả trăm triệu đồng mua lưới, cọc vây vùng bán ngập lòng hồ để giữ cá mùa sinh sản và thả nuôi kiếm lợi hơn 1 tỷ đồng mỗi năm. Vậy làm sao có chuyện chưa thu hồi lại vốn, xin được chậm tháo dỡ để tiếp tục trây ỳ?
Kết thúc cuộc họp, UBND huyện Định Quán đã thống nhất giao Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp với cơ quan chức năng huyện Định Quán để xử lý vụ việc này.
Nhưng để đến khi sự việc được xử lý triệt để, đúng trình tự thủ tục pháp luật, có lẽ còn tốn nhiều thời gian nữa, trong khi hồ Trị An vẫn bị ô nhiễm, nguồn thủy sản của hồ đang dần cạn kiệt, khoảng 1.500 người đang sống nhờ vào hồ sẽ phải đối mặt với sự mưu sinh nhọc nhằn hơn. (Tin Tức 18/10) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
20/10, Trường Cán bộ quản lý NN&PTNT 2 tại TP.HCM phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp tổ chức khai giảng lớp bồi dưỡng quản lý, lãnh đạo cho 37 Chi cục trưởng kiểm lâm và giám đốc các VQG trên toàn quốc.
Phát biểu tại lễ khai giảng, TS Nguyễn Thắng – Hiệu trưởng nhà trường cho biết, lớp bồi dưỡng kiến thức cho lãnh đạo, quản lý nhằm bồi dưỡng, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm giữa các chi cục trưởng, giám đốc VQG để nâng cao nhận thức về quản lý và lãnh đạo trong đơn vị công tác trên toàn quốc.
Tham gia lớp bồi dưỡng, 37 học viên sẽ trải qua 2 ngày học lý thuyết và các chuyên đề “Nghệ thuật quản lý, lãnh đạo”, “Thuật dùng người của nhà lãnh đạo trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế” và 3 ngày tham quan nghiên cứu thực tế tại VQG Côn Đảo. (Nông Nghiệp Việt Nam 21/10, tr2) đầu trang(
9 tháng 2014, xuất khẩu (XK) gỗ và sản phẩm gỗ đã đạt 4,5 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2013.
Tại hầu hết các thị trường kim ngạch XK gỗ và các sản phẩm gỗ đều tăng, trong đó Hoa Kỳ và Nhật Bản có mức tăng trưởng cao nhất, lần lượt là 14,41% và 23,71% so với cùng kỳ năm 2013.
Theo Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFORES), với tốc độ phát triển bình quân 2 chữ số liên tục nhiều năm (năm 2013 là 19% với 5,7 tỷ USD). Dự kiến đến hết năm 2014, kim ngạch XK ngành gỗ sẽ chạm đích 6,5 tỷ USD. (Đại Đoàn Kết 21/10, tr6) đầu trang(
Trong đơn gửi Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi, ông Nguyễn Văn Tổng thường trú tại số 36 Đô Lương, Phường 11, TP Vũng Tàu, phản ánh: “Chúng tôi bao gồm những cán bộ hưu trí, những nông dân, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước gom góp tiền bạc bán tài sản, nhà cửa lấy tiền trồng cây gây rừng phủ xanh đồi núi trọc.
Nay UBND tỉnh BR-VT có nhu cầu lấy đất cho nước ngoài thuê làm khu du lịch, chúng tôi ủng hộ nhưng chỉ yêu cầu thực hiện đền bù theo đúng quy định của pháp luật hiện hành”…
Bộ Tư pháp (Văn bản số 8152/BTP-PLDSKT ngày 19/12/2013 gửi Văn phòng Chính phủ) nêu rõ về việc áp dụng pháp luật đất đai trong việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng. Sau khi có ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường, của Thanh tra Chính phủ và ý kiến chỉ đạo của 2 Phó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải thực hiện bồi thường. Nhưng UBND tỉnh BR-VT đã làm ngược lại…
Ông Nguyễn Văn Tổng khiếu nại Quyết định số 1593/QĐ-UBND ngày 25/6/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT bác đơn khiếu nại của “Tổ hưu trí” yêu cầu bồi thường giá trị quyền sử dụng đối với 54.294,5m2 đất nông nghiệp bị thu hồi. Lí do: Khu đất trên có nguồn gốc năm 1987, Đặc Khu Vũng Tàu – Côn Đảo giao cho UBND phường Phước Thắng (nay là Phường 11) quản lí. Năm 1988, ông Tổng cùng 14 người có đơn xin được giao đất để trồng bạch đàn, được UBND phường Phước Thắng chấp thuận, ông Nguyễn Văn Nhâm là cán bộ xây dựng Phường 11 giao đất cho các gia đình.
Mặc dù có sự không thống nhất giữa các hồ sơ lưu trữ ở 3 cấp (phường, thành phố, tỉnh) nhưng thực tế đất do 15 hộ dân sử dụng ổn định từ năm 1989. Ngày 9/11/2005 UBND Phường 11 xác nhận nguồn gốc đất, các hộ làm nghĩa vụ thuế đầy đủ, không có tranh chấp và chuyển cơ quan chức năng cấp GCNQSDĐ.
Trong thời gian này, UBND tỉnh BR-VT có nhiều văn bản chỉ đạo, đề nghị UBND thành phố Vũng Tàu xem xét và thực hiện cấp GCNQSDĐ cho ông Tổng và 14 hộ dân (các Văn bản số 866/UBND-VP ngày 8/2/2007; số 3369/UBND-VP ngày 4/6/2007; số 4525/UBND-VP ngày 19/7/2007; số 390/UBND-VP ngày 22/1/2008; số 1920/UBND-VP ngày 1/4/2008; số 3461/UBND-VP ngày 6/6/2008).
Nhưng, ngày 11/6/2008 Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu có Văn bản số 980/CV-UBND cho rằng: “Khu đất đã có 3 quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh BR-VT: Số 8704/QĐ-UB ngày 1/11/2004; số 3095/QĐ-UB ngày 26/8/2005; số 2260/QĐ-UB ngày 28/6/2007. Căn cứ khoản 1, Điều 48, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, không cấp GCNQSDĐ đối với đất thuộc khu vực phải thu hồi theo quy hoạch mà đã có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; “Tổ hưu trí” được tiếp tục sử dụng theo hiện trạng, cơ quan chức năng thực hiện thu hồi đất sẽ xem xét bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật”.
UBND thành phố Vũng Tàu ban hành Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 4/8/2008 thu hồi 54.294,5m2 đất do “Tổ hưu trí” đang sử dụng để đầu tư xây dựng và kinh doanh khu du lịch nghỉ mát, giải trí đa năng tại Khu Chí Linh – Cửa Lấp. Ngày 13/10/2008, Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu ban hành Quyết định số 4342/QĐ-UBND không bồi thường giá trị quyền sử dụng 54.294,5m2 đất nêu trên.
Ông Tổng khiếu nại Quyết định số 4342, nhưng bị Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT bác đơn (Quyết định số 1593/QĐ-UBND ngày 25/6/2010). Ông Tổng khiếu nại lên đến Thủ tướng Chính phủ. Ngày 27/8/2010, Văn phòng Chính phủ (VPCP) có công văn truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với UBND tỉnh BR-VT kiểm tra  làm rõ nội dung khiếu nại. Sau khi kiểm tra, xác minh ngày 27/1/2011 Bộ TNMT có Báo cáo số 250/BTNMT-TTr trong đó kiến nghị Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND tỉnh BR-VT chỉ đạo UBND thành phố Vũng Tàu lập phương án bồi thường 54.294,5m2 đất theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/5/2011 VPCP lại có Công văn số 3054/VPCP/KNTN truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đồng ý với kiến nghị của Bộ TN&MT tại Công văn số 250/BTNMT-TTr; giao Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT chỉ đạo thực hiện và báo cáo Thủ tướng trong quý II/2011. Thời gian này, UBND tỉnh BR-VT cũng có Công văn số 2247/UBND-VP ngày 10/5/2011 và 2891/UBND-VP ngày 7/6/2011 báo cáo vướng mắc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 5/7/2011, VPCP có Công văn số 4528/VPCP-TTr đề nghị Bộ TN&MT có ý kiến đối với các ý kiến vướng mắc của UBND tỉnh BR-VT nêu. Ngày 17/8/2011, Bộ TN&MT có Báo cáo số 3072/BTNMT-TTr  trong đó giải thích và trả lời các ý kiến của UBND tỉnh BR-VT.
Sau khi xem xét báo cáo của Bộ TN&MT cùng các kiến nghị của UBND tỉnh BR-VT, ngày 14/9/2011 VPCP có Công văn số 6406/VPCP-KNTN truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Đồng ý với ý kiến của Bộ TN&MT tại Văn bản số 3072/BTNMT-TTr ngày 17/8/2011 về việc giải quyết khiếu nại của ông Tổng và 14 cá nhân; giao cho Bộ TN&MT hướng dẫn cụ thể UBND tỉnh BR-VT giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng và 14 cá nhân liên quan theo đúng quy định của pháp luật; UBND tỉnh BR-VT chỉ đạo thực hiện nhằm giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại, báo cáo Thủ tướng trong tháng 10/2011.
Như vậy, vụ việc rất đơn  giản, rõ như ban ngày, có nhiều cơ quan nhà nước đã vào cuộc; thiết nghĩ có ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng thì cơ quan hành chính cấp dưới phải thi hành. Vậy mà, cả hai Phó Thủ tướng đã chỉ đạo bồi thường cho ông Tổng và 14 hộ dân, nhưng UBND tỉnh BR-VT vẫn cố tình không thực hiện?
Tại Văn bản số 8152/ BTP-PLDSKT ngày 19/12/2013 của Bộ Tư pháp khẳng định: “Diện tích đất UBND thành phố Vũng Tàu thu hồi của ông Nguyễn Văn Tổng và 14 hộ dân đủ điều kiện được bồi thường. Về nguyên tắc, việc áp dụng pháp luật để xét bồi thường cho các hộ dân có đất bị thu hồi phụ thuộc vào thời điểm ban hành Quyết định thu hồi đất và hiệu lực của văn bản pháp luật đất đai quy định về việc bồi thường được áp dụng.
Theo Báo cáo số 250/BTNMT-TTr ngày 27/1/2011 của Bộ TN&MT, liên quan đến khu đất bị thu hồi có 3 quyết định thu hồi khu đất của UBND cấp tỉnh (Quyết định số 8704/QĐ-UB ngày 1/11/2004, Quyết định số 3095/QĐ-UB ngày 26/8/2005; Quyết định số 2260/QĐ-UB ngày 28/6/2007) và một Quyết định thu hồi đất của UBND thành phố Vũng Tàu (Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 4/8/2008 về việc thu hồi đất tại Phường 11, TP Vũng Tàu do một nhóm người lấy tên là “Tổ hưu trí” đang sử dụng).
Trong trường hợp này, cần phải căn cứ vào Quyết định thu hồi đất cuối cùng là Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 4/8/2008 của UBND thành phố Vũng Tàu để xác định văn bản pháp luật nào về bồi thường được áp dụng? Tại thời điểm ban hành Quyết định số 3133 của UBND thành phố Vũng Tàu thì Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai đang có hiệu lực áp dụng.
Theo quy định tại Điều 44, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đối với đất sử dụng trước ngày 15/10/1993 mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì diện tích đất bị thu hồi của 15 hộ dân này được bồi thường về đất đã và đang quản lí, sử dụng. Do đó, Bộ Tư pháp nhất trí với quan điểm của Bộ TN&MT, Thanh tra Chính phủ và các ý kiến chỉ đạo của VPCP là yêu cầu UBND thành phố Vũng Tàu bồi thường diện tích bị thu hồi cho ông Tổng và 14 hộ dân.
Mặt khác, khoản 2, Điều 14, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất thuộc nhóm đất nông nghiệp mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều này, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận” (được bồi thường khi thu hồi đất – NV). Và, khoản 2, Điều 45, Nghị định số 84: “2. Đất do lấn, chiếm và đất được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 1/7/2004 trở về sau thì người có hành vi lấn, chiếm hoặc được giao đất, thuê đất không đúng thẩm quyền không được bồi thường về đất khi thu hồi đất”.
Đối chiếu với  quy định của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ  trên đây, trường hợp của ông Tổng và 14 hộ dân ở Phường 11, TP Vũng Tàu  được giao và sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp trước ngày 15/10/1993, nên hoàn toàn đủ điều kiện được bồi thường về đất khi thu hồi đất. (Người Cao Tuổi 21/10) đầu trang(
Chỉ là khu đất rừng, nhưng “chủ đầu tư” đã tự vẽ ra một dự án được quảng cáo là sang trọng, nhiều tiện ích mang tên Casablanca Villas Đại Lải. Từ đây, “chủ đầu tư” đã đứng ra kêu gọi, huy động góp vốn và đang có dấu hiệu lừa đảo.
Trong thời gian qua, các trang mạng BĐS liên tiếp đăng tải lời mời chào, rao bán, thậm chí bán trả góp cho tất cả những ai có nhu cầu mua đất với giá dao động chỉ 5 triệu đồng/m2 tại hồ Thanh Niên, thôn Thanh Cao II, xã Ngọc Thanh (Phúc Yên, Vĩnh Phúc) trong quần thể “Dự án khu biệt thự nghỉ dưỡng 4 sao Casablanca Villas Đại Lải”.
Ngay như trang web của Công ty CP Công nghiệp Việt Nam liên kết được giới thiệu là “chủ đầu tư dự án” cũng dành không ít mỹ từ để nói về Casablanca Villas Đại Lải: “Quần thể khu nghỉ dưỡng – biệt thự sinh thái Casablanca Villas mang đầy đủ yếu tố thân thiện và văn minh, gắn kết hài hòa với thiên nhiên... bạn còn được hưởng tiện nghi hàng đầu thế giới với những dịch vụ hoàn hảo như: bãi đỗ xe, bể bơi, quầy bar, khu vui chơi ngoài trời, sân chơi trẻ em, bến thuyền, nơi câu cá, khu thể thao đa năng, sân golf mini cao cấp”.
Nhưng thực tế, đây chỉ là một quả đồi với cây bụi mọc lên khắp nơi. Người dân địa phương cho biết, khu đất này thường diễn ra hoạt động san lấp trái phép vào buổi tối. UBND xã Ngọc Thành đã từng lập biên bản vi phạm về hành vi này.
Được biết, toàn bộ diện tích hơn 3,7 ha mà Công ty CP Công nghiệp Việt Nam liên kết gọi là dự án Casablanca Villas là diện tích đất rừng. Hạt kiểm lâm Thị xã Phúc Yên giao cho ông Lê Văn Hữu (xã Ngọc Thanh) quản lý. Sau đó, ông Hữu đã chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Tuấn Anh, Tổng Giám đốc Công ty CP Công nghiệp Việt Nam liên kết.
Đến ngày 28/7/2010, UBND thị xã Phúc Yên cấp Giấy CNQSD số BC231306 cho ông Nguyễn Tuấn Anh với diện tích là 3,7 ha, thuộc đất lâm nghiệp với mục đích là trồng rừng và không được chuyển đổi mục đích sử dụng khi chưa có sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền, cho đến nay toàn bộ diện tích trên vẫn là đất lâm nghiệp.
Thế nhưng, bằng nhiều hình thức khác nhau Công ty CP Công nghiệp Việt Nam liên kết đã quảng bá tới công chúng rằng Công ty là chủ đầu tư và đang tiến hành xây dựng biệt thự nghỉ dưỡng theo tiêu chuẩn 4 sao với cái tên “Dự án Casablanca Villas Đại Lải”. Đồng thời, ra lời kêu gọi các nhà đầu tư cùng bắt tay góp vốn hợp tác nhằm xây dựng dự án biệt thự nghỉ dưỡng.
Qua tìm hiểu, đến nay, đã có khoảng trên 20 người ký hợp đồng mua bán đất được ký dưới dạng “hợp đồng góp vốn” với Công ty CP Công nghiệp Việt Nam liên kết. Mỗi hợp đồng góp vốn có giá trị từ 1 đến 2 tỷ đồng.
Theo quy định của pháp luật, tại thời điểm này, công ty chưa được phép ký hợp đồng góp vốn gắn với chuyển quyền sử dụng đất. Cụ thể, tại Điểm b Khoản 1, Điểm a, Điểm e Khoản 3, Khoản 4 Điều 9, Nghị định số 71/2010/NĐ-CP đã quy định rõ về việc huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở.
Theo đó, để được phép ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng QSDĐ có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II phải tuân thủ các điều kiện như: Đã giải phóng mặt bằng của dự án và đã thực hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án; Sau khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng với nội dung và tiến độ của dự án thì chủ đầu tư cấp I được ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho chủ đầu tư cấp II; Phải có văn bản thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở biết trước ít nhất 15 ngày, tính đến ngày ký hợp đồng huy động vốn, trong văn bản thông báo phải nêu rõ hình thức huy động vốn, số vốn cần huy động, phải nêu rõ diện tích đất sẽ chuyển nhượng, …
Chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở phải sử dụng vốn đã huy động vào đúng mục đích xây dựng dự án phát triển nhà ở đó, không được dùng số vốn đã huy động vào mục đích khác hoặc sử dụng cho các dự án phát triển nhà ở khác.
Quá trình điều tra xác minh cho thấy, Công ty CP công nghiệp Việt Nam liên kết đã không tuân thủ các quy định trên. Kể từ khi ký hợp đồng huy động vốn với khách hàng đến nay, khu đất thực hiện dự án trên vẫn trong tình trạng đắp chiếu và không được phép san lấp thêm.
Trao đổi với phóng viên, lãnh đạo thị xã Phúc Yên và xã Ngọc Thanh đều khẳng định “trên địa bàn hoàn toàn không có dự án này” và cho rằng, thực chất đây là “một dự án ảo và có dấu hiệu lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân”. (Kinh Tế Nông Thôn 18/10) đầu trang(
Viện KSND TP.Biên Hòa (Đồng Nai) vừa có cáo trạng truy tố 8 người cưa 12 cây keo lai, với tổng thiệt hại 10,6 triệu đồng về tội “hủy hoại tài sản”.
8 bị can bị truy tố ra trước tòa gồm Đinh Trọng Thúc (48 tuổi), Nguyễn Thị Anh (42 tuổi, vợ Thúc), Vũ Thị Mộng Thu (49 tuổi), Nguyễn Tồn Chí (52 tuổi, chồng Thu), Ngô Quang Tuyên (35 tuổi), Vũ Thị Mộng Huyền (42 tuổi, em ruột Thu), Đỗ Thị Le (64 tuổi) và Nguyễn Thị Thu Hường (24 tuổi, tất cả đều ngụ tại TP.Biên Hòa).
Trong số này, chỉ có Nguyễn Tồn Chí, Đỗ Thị Le và Nguyễn Thị Anh được tại ngoại, 5 người còn lại đều bị bắt tạm giam vào ngày 5.7.2014.
Theo cáo trạng, ngày 26.10.1992, Trạm trồng rừng Biên Hòa (nay là Trung tâm lâm nghiệp Biên Hòa) ký hợp đồng với ông Ngô Văn Y. (ngụ P.Tân Hòa) trồng và chăm sóc bảo vệ rừng với diện tích 1 ha (0,22 ha đất trống thuộc lô 129 và 0,78 ha đất trồng rừng thuộc lô 104 - tương đương 10.000 m2).
Năm 2001, Trung tâm lâm nghiệp Biên Hòa khai thác và trồng lại keo lai trên diện tích lô 129 và 104. Đến ngày 4.12.2001, ông Y. chuyển nhượng lại hợp đồng cho Nguyễn Đức H. (ngụ P.Tân Hòa) để tiếp tục chăm sóc và hưởng lợi sản phẩm.
Đến năm 2005, ông H. sang nhượng cho ông Nguyễn Thiện Hùng (ngụ P.Long Bình) diện tích 1.008 m2; sang nhượng cho vợ chồng bà Vũ Thị Mộng Thu và Nguyễn Tồn Chí 4.800 m2 với giá 260 triệu đồng; sang nhượng cho vợ chồng ông Đinh Trọng Thúc và Nguyễn Thị Anh 243 m2 với giá 100 triệu đồng (tất cả đều bằng giấy tờ viết tay).
Đến năm 2006, vợ chồng Thu và Chí sang nhượng (cũng bằng giấy tờ viết tay) cho Đỗ Thị Le 499,5 m2 với giá 150 triệu đồng; sang nhượng cho Nguyễn Quang Tuyên 270 m2 với giá 100 triệu đồng; sang nhượng cho Vũ Thị Mộng Huyền 150 m2 với giá 20 triệu đồng.
Ngày 13.10.2013, Thúc, Thu, Chí, Tuyên, Huyền, Le, Anh và Hường đến cưa 12 cây keo lai có độ tuổi trên 12 năm để dọn đất thì bị Trung tâm lâm nghiệp Biên Hòa phát hiện, lập biên bản và chuyển cho Cơ quan CSĐT xử lý. Qua trưng cầu giá trị tài sản bị hủy hoại, Phòng Tài chính kế hoạch TP.Biên Hòa kết luận 12 cây keo lai trị giá trên 10,6 triệu đồng. Ngày 4.3.2014, Cơ quan CSĐT Công an TP.Biên Hòa khởi tố vụ án “hủy hoại tài sản”; đến ngày 7.5.2014 thì khởi tố 8 bị can nêu trên.
Sau khi bị khởi tố, ông Nguyễn Tồn Chí, bà Đỗ Thị Le, bà Nguyễn Thị Anh có đơn gửi đến nhiều nơi kêu cứu.
Theo ông Chí, có khoảng 30 ha đất rừng do Trạm trồng rừng Biên Hòa ký hợp đồng với các hộ dân trồng rừng từ cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Đến năm 2000 thì khu vực “biến” thành đại công trình nhà xưởng của nghề mộc, tình trạng mua bán đất lâm trường bằng giấy tay tràn lan, đốn cây làm nhà cửa… nhưng không ai ngăn chặn.
Ngày 17.10.2014, có mặt ở khu vực KP.8, P.Long Bình, chúng tôi chứng kiến nơi đây không còn dấu tích gì liên quan đến rừng, mà thay vào đó là hàng trăm căn nhà, hàng chục nhà xưởng mọc lên khắp nơi.
Theo hồ sơ, Trạm trồng rừng Biên Hòa được giao quản lý khu vực Long Bình với diện tích 314 ha. Trạm đã ký 55 hợp đồng giao khoán trồng rừng với diện tích 159,04 ha. Từ năm 2013, Thanh tra tỉnh Đồng Nai cũng đã phát hiện có 8 hợp đồng ở khu vực KP.8, P.Long Bình chuyển nhượng trái phép với diện tích gần 20 ha.
“Ở đây có hàng ngàn hộ dân cũng mua bán như 8 chị em chúng tôi, họ cũng chặt cây tràm trên đất đã mua nhưng không ai bị bắt giữ. Vậy mà cuối năm 2013, gia đình, anh chị em chúng tôi đốn 12 cây tràm còn sót lại trên đất, lại bị bắt giam là một điều không bình thường”, ông Chí nói.
Theo Cơ quan CSĐT Công an TP.Biên Hòa, sau khi thu giữ 24 cây keo lai (có thêm 12 cây của một hộ dân khác), vào ngày 7.5.2014 Trung tâm lâm nghiệp Biên Hòa đã đem bán cho ông Nguyễn Phú Đ. (ngụ P.Trảng Dài, TP.Biên Hòa) với giá trên 21 triệu đồng.
Qua trưng cầu giám định, ngày 25.5.2014, Phòng Tài chính kế hoạch TP.Biên Hòa, kết luận 24 cây keo lai bị cưa, chặt có tổng giá trị 21.053.000 đồng. Trong đó, 12 cây mà 8 bị can nêu trên đốn hạ, trị giá 10.694.167 đồng.
Luật sư Trần Vũ Hải, Đoàn luật sư Hà Nội (người bào chữa cho 8 bị can nêu trên), cho rằng theo quy định của pháp luật thì hành vi hủy hoại hoặc cố ý hư hỏng tài sản có giá trị 2 triệu đồng trở lên mới đủ dấu hiệu của tội danh “hủy hoại tài sản”.
Mỗi gia đình của nhóm bị can đều độc lập, chặt cây thì cần phải xác định thiệt hại (nếu có) cho riêng từng cá nhân. Hơn nữa, khi xác định thiệt hại cũng cần phải tính giá trị cây trước khi bị cưa hạ là bao nhiêu? Bán ở trên khu vực trên (chưa tính công cưa hạ) thì bao nhiêu?... (Thanh Niên 20/10) đầu trang(
Chào mừng Đại hội đại biểu Hội Liên Hiệp Thanh Niên TPHCM nhiệm kỳ 2014 – 2019, ngày 18-10, Trung tâm công tác xã hội thanh niên TPHCM (Thành đoàn TPHCM ) phối hợp cùng Huyện đoàn Cần Giờ tổ chức dọn vệ sinh dọc bãi biển 30 - 4 (xã Long Hòa, Cần Giờ) và trồng cây tại khu vực phòng hộ rừng Cần Giờ.
Hơn 130 đoàn viên, thanh niên, công an, dân quân tự vệ huyện Cần Giờ phối hợp cùng nhân viên công ty BAT Việt Nam lập thành 4 đội tình nguyện gồm: đội làm vệ sinh bãi biển, đội tuyên truyền bảo vệ môi trường, đội trồng rừng và đội thanh niên huyện Cần Giờ, đã dùng chổi, sọt rác dọn vệ sinh hơn 1.000m bãi biển 30-4. (Sài Gòn Giải Phóng 20/10) đầu trang(
Tại tỉnh Kon Tum, hiện đã có 19 tổ chức, hơn 5.000 hộ dân và 23 cộng đồng tham gia bảo vệ rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng.
Thực tế cho thấy, việc thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại địa phương đang tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động chỉ đạo của chính quyền cũng như công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Ba năm trở lại đây, trung bình mỗi năm tỉnh Kon Tum có nguồn thu trên 100 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng do 11 thủy điện trên địa bàn chi trả. Thông qua Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh, số tiền này được giải ngân cho 19 tổ chức, hơn 5.000 hộ dân và 23 cộng đồng đang tham gia bảo vệ rừng.
Tác động tích cực, rõ nét nhất từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là đã tạo lập được cơ sở kinh tế bền vững, người dân, tổ chức Nhà nước có nguồn thu từ đó yên tâm bảo vệ rừng.
Ba năm qua, 9.000ha, trong tổng số hơn 56.000ha rừng của Vườn quốc gia Chư Mom Ray được chi trả trên 5 tỷ đồng tiền cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Ông Đào Xuân Thủy, Phó giám đốc cho rằng, chính sách này đang tạo ra một động lực mới giúp đơn vị quản lý bảo vệ rừng tốt hơn:“Đơn vị chúng tôi 100% vốn ngân sách cấp hàng năm, do đó rất hạn chế trong các hoạt động quản lý bảo vệ rừng. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng giúp đơn vị chủ động hơn trong việc triển khai các hoạt động quản lý bảo vệ rừng, đặc biệt trong công tác tuần tra và các hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Nguồn kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng đã giúp chúng tôi đẩy mạnh được việc giao khoán rừng cho cộng đồng, hộ gia đình bảo vệ rừng. Đây là cách bảo vệ rừng hiệu quả nhất”.
Từng là điểm nóng hoạt động khai thác lâm sản trái phép, sau khi 3.200ha rừng tự nhiên ở xã Đăk Tờ Kan, huyện Tu Mơ Rông được giao cho 5 làng đồng bào dân tộc thiểu số Xê Đăng quản lý bảo vệ, số vụ vi phạm lâm luật giảm hẳn. Tại làng Đăk P’rông, để bảo vệ 700ha rừng được giao, 110 hộ dân thành lập 5 tổ quản lý bảo vệ, thường xuyên tuần tra, tổ chức chốt chặn liên tục trên tuyến đường chính vào rừng.
Anh A Tuấn, một người dân cho biết:“Trước đây bà con trong làng chưa làm chốt này xảy ra người khai thác gỗ một năm cũng hơn chục lần. Làm được chốt này rồi thì 2 năm rồi chỉ xảy ra một vụ. Đối với bảo vệ rừng là công việc chung của làng. Làng thành lập  5 tổ, chia nhau trực 24 giờ chỉ trừ mấy hộ có người bệnh tật hay người già”.
Việc thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng giúp tỉnh Kon Tum đẩy nhanh được tiến trình giao đất, giao rừng. Đến nay, hơn 600.000 rừng cùng với diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh đã có chủ thể quản lý. Riêng diện tích khoán cho trên 5.000 hộ dân và 23 cộng đồng là gần 130.000ha. Từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, thu nhập của mỗi hộ nhận khoán năm 2013 trung bình đạt từ 3,5 triệu đến 10,5 triệu đồng.
Nhờ cải thiện được cuộc sống từ rừng, người dân gắn bó hơn với rừng và tích cực tham gia nghề rừng. Ông An Văn Sáu, Bí thư Đảng ủy xã Đăk Tờ Kan, huyện Tu Mơ Rông chia sẻ: “Người dân đã nâng cao được nhận thức, xác định được việc quản lý bảo vệ rừng là đem lại quyền lợi cho chính mình. Cụ thể là người dân được hưởng lợi từ tiền Nhà nước chi cho để quản lý bảo vệ rừng. Thứ hai là được hưởng lợi từ rừng và dưới tán rừng để phát triển sản xuất trồng cây bời lời và các loại cây ngắn ngày. Qua việc này kinh tế của người dân từng bước được nâng lên, nhân dân có nhiều biện pháp bảo vệ rừng, như tự thành lập các chốt chặn ở đường ra, ngõ vào để ngăn chặn đối tượng khai thác rừng. Các thôn đều thành lập các tổ kiểm tra”.
Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng đang giúp các chủ rừng ở Kon Tum, nhất là các Công ty lâm nghiệp Nhà nước giải quyết được khó khăn về nguồn kinh phí để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Theo các Công ty lâm nghiệp tại địa phương, khi chưa có chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng, ngân sách hàng năm cấp cho doanh nghiệp phục vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng chỉ có 15.000 trên một ha. Hiện, số tiền này là trên 200 nghìn đồng, có vùng đạt trên 300 nghìn đồng.
Được tiếp sức từ khoản tiền 6 tỷ đồng mỗi năm từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng, Công ty TNHH Một thành viên lâm nghiệp Đăk Tô đã thành công trong xây dựng phương án quản lý rừng bền vững đối với hơn 14.000ha trên tổng diện tích 16.000ha rừng của đơn vị.
Ông Vũ Văn Cương, Phó giám đốc Công ty cho biết:“Chúng tôi thứ nhất tiền khoán bảo vệ rừng trả cho người dân 200.000 đồng một ha. Tổng số tiền chúng tôi trả cho người dân một năm khoảng 1,6 tỷ. Thứ hai là bình quân một năm chúng tôi cấp được 120.000 cây bời lời. Đặc biệt năm 2014 chúng tôi tiến hành các chương trình trồng rừng. Chủ trương Công ty là phải thu hút người dân tham gia trồng rừng để họ trực tiếp bảo vệ rừng. Chúng tôi khoán cho người dân các công đoạn trực tiếp trong trồng rừng 9 triệu đồng trên một ha. Với gắn kết với người dân như thế này, chúng tôi tin tưởng người dân sẽ cùng chúng tôi bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên cũng như rừng trồng”.
Để phát huy hơn nữa tác động tích cực của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trong bảo vệ và phát triển rừng, tỉnh Kon Tum đang tích cực huy động triệt để các nguồn thu nhằm nâng cao mức chi trả, tăng thu nhập cho người làm nghề rừng; hàng năm giải ngân kịp thời cho các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ môi trường rừng, đồng thời tăng cường công tác giám sát, kiểm tra về số lượng và chất lượng rừng. (Kontum.gov.vn 20/10) đầu trang(
Với tỷ lệ che phủ rừng thuộc diện cao nhất nước, Bắc Kạn có nhiều lợi thế để triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và cũng là tỉnh đầu tiên trong cả nước thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng tự nguyện. Từ đây, người trồng rừng được nhận chi trả cho đóng góp về rừng.
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là một sáng kiến mới của Việt Nam trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được thể chế hóa tại Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ. Chính sách mới này lần đầu tiên chi trả phí cho người trồng rừng, ghi nhận công chăm sóc rừng, xanh hóa và mang lại ô xi cho môi trường sống. Ngược lại, thu phí từ những người sử dụng dịch vụ, hưởng lợi gián tiếp từ rừng để phục vụ chi trả.
Với mục tiêu đó thì Bắc Kạn là tỉnh đóng góp lớn cho việc xanh hóa môi trường sống khi bình quân mỗi năm giai đoạn 2011 - 2014 tỉnh trồng mới gần 12.000ha rừng, nâng độ che phủ lên hơn 70% vào năm 2013. Diện tích đất lâm nghiệp toàn tỉnh là 342.833ha do đó tổng diện tích rừng trồng, rừng tự nhiên tái sinh sẽ tiếp tục được nâng lên trong những năm tới.
Năm 2015, tỉnh đặt mục tiêu trồng mới thêm 8.000ha rừng. Trên địa bàn tỉnh có nhiều đơn vị sử dụng dịch vụ môi trường rừng như nhà máy thủy điện; sản xuất nước sạch… Việc chi trả dịch vụ môi trường rừng là cần thiết để thúc đẩy phát triển bảo vệ rừng.
Thực tế, ở Bắc Kạn, đối với nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại Ba Bể, nơi có hồ Ba Bể, việc chi trả dịch vụ môi trường rừng đã không phải là mới khi nơi đây lần đầu tiên trong cả nước triển khai chi trả dịch vụ môi trường rừng tự nguyện do dự án 3PAD triển khai.
Bản Huống, xã Hoàng Trĩ là thôn được chọn thí điểm khi có 180ha rừng phòng hộ và 350ha rừng sản xuất. Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo của thôn còn cao hơn 60% vì vậy dễ có nhiều tác động ảnh hưởng tới rừng đầu nguồn hồ Ba Bể. Triển khai thực hiện, người sử dụng dịch vụ môi trường rừng sẽ chi trả phí cho người chăm sóc, bảo vệ rừng trên cơ sở tự nguyện, có ký cam kết.
Các hộ dân trong thôn thành lập tổ tuần rừng 3 lần/tháng. Hợp tác xã xuồng tại hồ Ba Bể thống nhất trích 2% doanh thu chi trả dịch vụ môi trường rừng. Các nhà nghỉ tại hồ trích 4.000đ/khách nghỉ nộp cho Quỹ Bảo vệ phát triển rừng. Số tiền chi trả được sử dụng cho tuần tra, bảo vệ rừng; sinh kế; phục hồi rừng mới; vệ sinh môi trường… Sự thành công của mô hình là hướng mở cho Bắc Kạn nhân rộng ra toàn tỉnh trong thời gian tới.
Để thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, Bắc Kạn đã thành lập Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh. Tỉnh cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện chính sách. Tuy nhiên, vì có ít cơ sở sử dụng các dịch vụ môi trường rừng nên dù tỷ lệ che phủ rừng rất cao nhưng số thu dịch vụ môi trường rừng tại Bắc Kạn chưa phải là quá lớn.
Theo báo cáo của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Bắc Kạn, nguồn thu dịch vụ môi trường rừng lớn nhất của Bắc Kạn là từ công trình thủy điện của Công ty thủy điện Tuyên Quang giáp ranh với Bắc Kạn. Nguồn thu này nộp về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam. Đến nay, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam đã điều phối cho Bắc Kạn 14,6 tỷ đồng từ nguồn chi trả của Công ty thủy điện Tuyên Quang giai đoạn 2011 - 2013.
Với nội tỉnh, Bắc Kạn có 3 nhà máy thủy điện là Tà Làng (Ba Bể); Thượng Ân (Ngân Sơn) và Nặm Cắt (Bạch Thông). Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh đã làm việc với các nhà máy để xác định lượng điện bán hàng năm, ký hợp đồng ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng. Dự kiến số tiền các nhà máy phải chi trả giai đoạn từ 2011 đến hết tháng 8/2014 là hơn 1,7 tỷ đồng.
Hiện tại, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Bắc Kạn đang triển khai lập hồ sơ cung cấp dịch vụ môi trường rừng thuộc lưu vực Công ty thủy điện Tuyên Quang làm cơ sở chi trả; triển khai phương án trồng rừng thay thế. Trong năm 2014, Quỹ phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trồng 20ha rừng thay thế gồm 7ha keo, thông Mã Vĩ tại Đồn Đèn, xã Khang Ninh (Ba Bể) và 13ha thông Mã Vĩ tại Đèo Gió, xã Vân Tùng (Ngân Sơn).
Tuy nhiên, việc triển khai chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng còn bất cập. Theo đánh giá ban đầu của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Bắc Kạn, mức chi trả bình quân/ha giai đoạn 2011 - 2013 khoảng 40.000đ/ha/năm là thấp. Trong khi diện tích và số hộ được chi trả lớn với khoảng 110.000ha rừng lưu vực vùng cấp nước cho thủy điện Tuyên Quang và khoảng 25.000 chủ rừng.
Nguồn thu để thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng của tỉnh thấp dẫn tới mức chi trả bình quân hàng năm thấp hơn mức hỗ trợ giao khoán bảo vệ rừng (200.000đ/ha/năm) khá lớn.
Để khắc phục vấn đề này, Bắc Kạn kiến nghị Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Chính phủ xem xét quy định tăng mức chi trả của các đơn vị sử dụng dịch vụ môi trường rừng; cân đối, bổ sung nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng cho Bắc Kạn trong kế hoạch ngân sách hàng năm để bảo đảm đơn giá tối thiểu 200.000đ/ha/năm nhằm cải thiện đời sống cho người làm nghề rừng. (Báo Bắc Kạn 20/10) đầu trang(
Ông Nguyễn Công Hà, Giám đốc Ban Quản lý rừng Phòng hộ (BQLRPH) Ninh Hòa (thị xã Ninh Hòa) vừa cho biết, hiện dơn vị đang hoàn thiện hồ sơ để khởi kiện ra TAND thị xã những hộ dân lấn chiếm đất rừng trái phép, gây thiệt hại nặng nề cho BQLRPH Ninh Hòa.
Theo ông Hà, hiện có hơn 120ha đất rừng không thể trồng mới cây vì vướng lấn chiếm. BQLRPH Ninh Hòa đã thuê người phát dọn thực bì khoảng 50ha, với giá 7 triệu đồng/ha, nếu diện tích này không sớm trồng cây thì xem như bỏ phí. Ngoài ra, ban cũng đã đặt hàng cây giống cho 120ha với giá trị 2 triệu đồng/ha. Nếu không lấy cây giống đúng hợp đồng sẽ phải đền tiền cho đối tác cung cấp giống.
Trước đó, Báo SGGP ngày 14-10 có bài phản ánh tình trạng hơn 1 tháng qua, hàng chục hộ dân sống tại xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa ngang nhiên lấn chiếm cả trăm hécta đất rừng do BQLRPH Ninh Hòa quản lý, gây thiệt hại cho đơn vị quản lý rừng.
Đến thời điểm này, tình hình lấn chiếm đất rừng vẫn chưa dừng lại, gây bức xúc dư luận và tiềm ẩn nhiều hệ lụy xấu sau này. (Sài Gòn Giải Phóng 20/10; Tài Nguyên & Môi Trường 18/10) đầu trang(
Ban Quản lý Dự án Thủy lợi thuộc Sở NN-PTNT cho biết: Trong vụ trồng rừng năm nay, đơn vị phối hợp với Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn triển khai trồng 8,9 ha rừng ngập mặn ven đầm Thị Nại thuộc địa bàn phường Nhơn Bình (TP Quy Nhơn).
Đến thời điểm hiện nay, đơn vị đã trồng được 2,3 ha rừng tập trung, gồm cây bần trắng và mắm trắng. Bên cạnh đó, đơn vị cũng đã hỗ trợ cây giống cho người dân địa phương trồng phân tán bằng cây bần trắng và cây đâng trên các bờ ao nuôi tôm với chiều dài trên 28.000 m.
Được biết, kinh phí trồng rừng do Dự án Nâng cấp hệ thống đê và trồng rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu từ nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới hỗ trợ. (Báo Bình Định 19/10) đầu trang(
Cây chè, cây keo đang là 2 cây mũi nhọn trong phát triển kinh tế ở xã đặc biệt khó khăn Tân Long (Đồng Hỷ). Thu nhập từ 2 loại cây trồng này đã giúp nhiều hộ dân thoát nghèo, đời sống ngày một nâng lên...
Gia đình anh Tư là một trong trên 1 nghìn hộ dân (chiếm 80% số hộ của xã) ở xã Tân Long đã tham gia trồng chè. Cùng với những đồi chè xanh mướt đã và đang được mở rộng ở xã Tân Long người dân nơi đây cũng chú trọng trồng rừng, chủ yếu là cây keo để phát triển kinh tế.
Hiện xã có khoảng 70% số hộ tham gia trồng rừng với diện tích gần 1 nghìn ha rừng sản xuất. Mỗi năm doanh thu từ rừng đạt khoảng 70 triệu đồng/ha/năm. Trên địa bàn ngày càng xuất hiện nhiều những mô hình phát triển kinh tế từ rừng, tiêu biểu như anh: Hoàng  Văn Chí, xóm Làng Mới; Vũ Văn Khải, xóm Làng Giếng; Nguyễn Văn Hiệp, xóm Đồng Mây…
Từ hiệu quả thực tế như trên, tư duy người dân trên địa bàn đã thay đổi, bà con đã chú trọng trồng mới và chăm sóc rừng trồng như những cây màu khác. Ngoài phát triển kinh tế từ trồng rừng, một số người dân trên địa bàn xã đã mạnh dạn đầu tư máy móc để sơ chế gỗ rừng thành ván bóc, từ đó đem lại lợi nhuận cao và tiêu thụ lượng gỗ rừng tại chỗ đồng thời giải quyết việc làm cho người dân.
Cơ sở sản xuất ván bóc của gia đình anh Tạ Văn Triển, xóm Làng Mới là một ví dụ như vậy. Năm 2013 anh đầu tư hơn 300 triệu đồng để mua hệ thống máy móc, gồm: máy cắt gỗ, máy bóc gỗ, máy bóc lồng, máy mài... để sơ chế gỗ rừng thành ván bóc.
Anh cho biết: Nguyên liệu của cơ sở anh chủ yếu là gỗ keo và mỡ mua của người dân trên địa bàn. Sản phẩm ván bóc đầu ra được xuất bán ở Trung Quốc và Ấn Độ. Trung bình, mỗi tháng cơ sở cần khoảng 1 nghìn m3 gỗ nguyên liệu để sản xuất được trên 300 khối ván bóc thành phẩm đáp ứng nhu cầu của bạn hàng.
Từ đó đem loại doanh thu khoảng gần 700 triệu đồng. Cơ sở của anh giải quyết việc làm ổn định cho 4 lao động kỹ thuật và 10 lao động thời vụ với mức lương bình quân là 4,5 triệu đồng/tháng.
Về phát triển trồng rừng, xã đẩy mạnh công tác khuyến lâm để hướng dẫn bà con. Đồng thời lồng ghép nhiều chương trình, dự án để hỗ trợ nhân dân trồng và đầu tư chăm sóc rừng. Vì vậy diện tích rừng trồng mới mỗi năm đạt khoảng 100 ha, nâng diện tích rừng sản xuất đạt gần 1 nghìn ha.
Đến nay, diện tích này đã cho thu nhập ổn định theo chu kỳ sinh trưởng của cây rừng, mỗi năm người dân của xã khai thác được khoảng 100 ha. Bên cạnh trồng rừng, chúng tôi cũng rất kỳ vọng vào phát triển cây chè trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. (Báo Thái Nguyên 17/10) đầu trang(
Ban Thường vụ Tỉnh ủy vừa có Công văn số 703-CV/TU chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12.3.2014 của Bộ Chính trị.
Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) về sắp xếp, đổi mới về phát triển nông, lâm trường quốc doanh, tỉnh Tây Ninh đã đạt được kết quả quan trọng, cơ bản hoàn thành việc rà soát, sắp xếp và chuyển đổi các công ty nông nghiệp trên địa bàn theo Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; lập và phê duyệt quy hoạch sử dụng đất chi tiết; hoàn thành việc ký hợp đồng thuê đất với 7/7 công ty nông nghiệp theo Nghị định số 170/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 của Chính phủ và Thông tư số 04/2005/TT- BTNMT ngày 18/7/2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty chủ động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ tài chính, góp phần tăng thu ngân sách hằng năm của tỉnh. Tỉnh cũng đã thực hiện chuyển đổi 4 Ban quản lý dự án lâm nghiệp thành Ban Quản lý Vườn quốc gia Lò Gò -Xa Mát; Ban Quản lý Khu rừng Văn hóa Lịch sử Chàng Riệc; Ban Quản lý Khu rừng Văn hóa Lịch sử Núi Bà và Ban quản lý khu rừng phòng hộ Dầu Tiếng. Công tác quản lý đất lâm nghiệp được thực hiện chặt chẽ, đồng bộ hơn; lập lại trật tự kỷ cương pháp luật về quản lý bảo vệ rừng. Tình trạng bao, lấn chiếm đất lâm nghiệp được kiểm tra xử lý kịp thời. Hằng năm, trồng rừng đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình quản lý và sử dụng đất của các công ty nông nghiệp, các ban quản lý khu rừng vẫn còn một số hạn chế, như: vẫn còn diện tích đất cho mượn, đất bị lấn chiếm, đất tranh chấp, đất liên doanh, liên kết, uỷ thác; còn trường hợp cấp trùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đất quy hoạch lâm nghiệp; đất có hợp đồng, xác nhận cho trồng cây cao su sai quy định, sai vị trí quy hoạch; chậm xử lý tình trạng người dân cất nhà, chòi trái phép trên đất lâm nghiệp.
Ngày 12.3.2014, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 30-NQ/TW về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông lâm nghiệp. Để thực hiện tốt Nghị quyết 30, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ có Công văn số 703-CV/TU chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Quyết định số 686/QĐ-TTg ngày 11/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình, kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW.
Trong đó, tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong các công ty nông, lâm nghiệp và nhân dân về chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông lâm nghiệp.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc sắp xếp, đổi mới và phát triển công ty nông nghiệp, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các công ty nông nghiệp và các ban quản lý các khu rừng theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ban cán sự đảng UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện một số nhiệm vụ như: Xây đựng phương án tổng thể sắp xếp lại các công ty nông nghiệp phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tập trung xử lý dứt điểm các trường hợp sử dụng đất chưa đúng quy định, đất cho mượn, đất bị lấn chiếm, đất liên doanh, liên kết; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trùng trên đất quy hoạch lâm nghiệp, đất có hợp đồng, giấy xác nhận cho trồng cây cao su sai quy định, sai vị trí quy hoạch; các trường hợp người dân cất nhà, chòi trái phép trên đất lâm nghiệp.
Phấn đấu trong năm 2015 hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực hiện thuê đất hoặc giao đất theo quy định của pháp luật về đất đai; thu hồi, chuyển giao đối với các loại đất do các công ty nông nghiệp không có nhu cầu sử dụng, sử dụng hiệu quả thấp, để hoang hóa, các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai về địa phương quản lý sử dụng.
Đối với đất thu hồi chuyển giao về địa phương, phải rà soát lại các đối tượng sử dụng đất, diện tích đất để giải quyết cho hộ gia đình, cá nhân được tiếp tục giao đất hoặc thuê đất theo quy định.
Thực hiện cổ phần hóa đối với các công ty nông nghiệp theo phương án được Chính phủ phê duyệt. Tiếp tục triển khai, chuyển giao tiến bộ, khoa học và công nghệ về giống mới, phân bón, cơ giới hóa, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch và chế biến.
Tăng cường vai trò nòng cốt của các công ty nông nghiệp trong việc hình thành và thực hiện mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và cơ sở khoa học công nghệ. (Báo Tây Ninh 18/10) đầu trang(./.
Biên tập: Lê Vòng