Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 30 tháng 07 năm 2015
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
UBND tỉnh Đắk Lắk vừa có Công văn gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh yêu cầu báo cáo tình hình thực hiện công tác bảo tồn đa dạng sinh học theo Quyết định số 1250/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
​Theo đó, UBND tỉnh Đắk Lắk giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan tham mưu, dự thảo Báo cáo của UBND tỉnh về tình hình thực hiện công tác bảo tồn đa dạng sinh học theo Quyết định số 1250/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trước ngày 5/8, các đơn vị trên phải triển khai thực hiện để UBND tỉnh Đắk Lắk báo cáo Ban Chỉ đạo thực hiện Chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. (Trung Tâm Thông Tin Và Tư Liệu Môi Trường 29/7) đầu trang(
Trong 6 tháng đầu năm 2015, tình hình phá rừng tại 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông vẫn diễn biến phức tạp. Theo nhận định của các cơ quan chức năng, nguyên nhân mất rừng do chủ rừng và các sở, ngành, các cấp liên quan buông lỏng quản lý, không ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Theo báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk, trong 6 tháng đầu năm 2015, toàn tỉnh xảy ra 6 vụ cháy rừng tại các huyện Ea H’leo, Lắk, Ea Kar, Krông Năng, với trên 237ha rừng (chủ yếu là rừng trồng) bị thiệt hại.
Lực lượng kiểm lâm đã phát hiện và xử lý 986 vụ (giảm 221 vụ so với cùng kỳ), tịch thu 1.646m3 gỗ, 82 lượt xe các loại; tiền thu sau xử lý 9,6 tỷ đồng; khởi tố hình sự 12 vụ; tham gia công tác giám định thiệt hại vi phạm do các cơ quan chức năng trưng cầu 24 vụ.
Tình trạng chống người thi hành công vụ cũng diễn ra tương đối phức tạp, đã xảy ra 4 vụ, gây thương tích cho 5 công chức, viên chức. Việc triển khai rà soát, lập phương án xử lý, thu hồi rừng bị phá, đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái pháp luật tuy chưa có kết quả đột biến nhưng cũng đã tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của chủ rừng, góp phần ngăn chặn nạn phá rừng, đất lâm nghiệm bị lấn chiếm…
Còn tại Đắk Nông, trong 6 tháng đầu năm, việc chặt phá rừng vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tuy giảm 2,9% số vụ (giảm 6 vụ) nhưng lại tăng 162,4% diện tích (tăng 145ha) so với cùng kỳ.
Diện tích rừng bị phá tập trung chủ yếu ở các huyện Tuy Đức, Đắk Song, Đắk Mil, Đắk Glong, Krông Nô và thị xã Gia Nghĩa. Nguyên nhân mất rừng do chủ rừng và các sở, ngành, các cấp liên quan buông lỏng quản lý, không ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, tình hình chuyển đổi cây trồng trên địa bàn tỉnh theo hướng tự phát khá phổ biến. Một số diện tích cao su đã chuyển đổi sang cây trồng khác, diện tích mía ngày càng giảm (chỉ đáp ứng khoảng 5% nguyên liệu cho nhà máy đường hoạt động), diện tích trồng tiêu tăng đột biến (tăng 2.944ha) và chủ yếu được trồng trên đất rừng. Còn việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp còn chậm. (Tài Nguyên Và Môi Trường 29/7) đầu trang(
Theo danh mục các khu bảo tồn đa dạng sinh học vừa được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố, Đồng Tháp có 3 đơn vị nằm trong danh mục này.
Đó là Khu bảo tồn Tràm Chim với 7.313ha, thuộc huyện Tam Nông; Khu bảo tồn Xẻo Quít với trên 62ha, thuộc huyện Cao Lãnh và Khu bảo tồn Gò Tháp với gần 290ha, thuộc huyện Tháp Mười.
Khu bảo tồn Xẻo Quít và Khu bảo tồn Gò Tháp do đáp ứng tiêu chí về bảo vệ cảnh quan nên được chuyển tiếp thành Khu Bảo vệ cảnh quan; Khu bảo tồn Tràm Chim được chuyển tiếp thành Vườn Quốc gia. Cả 3 khu bảo tồn này đều do UBND tỉnh Đồng Tháp quản lý. (Báo Đồng Tháp 29/7) đầu trang(
Tại xã Huy Bắc, huyện Phù Yên, lực lượng liên ngành gồm Hạt kiểm lâm huyện, Ban chỉ huy quân sự, Công an xã Huy Bắc vừa phát hiện và thu giữ 2 vụ cất giấu lâm sản trái phép. Tổng lượng gỗ ước tính gần 5m3 gỗ Pơ mu.
Tại bếp nhà ông Vì Văn Vui, bản Phai Làng II, xã Huy Bắc, lực lượng liên ngành đã lập biên bản thu giữ 30 hộp gỗ xẻ nhóm IIA, loại gỗ Pơ mu. Tổng khối lượng đo được 1,44m3. Tại tầng hầm nhà ông Vì Văn Việt, lực lượng liên ngành lập biên bản thu giữ 69 hộp gỗ Pơ mu cùng loại. Tổng khối lượng đo được hơn 3,3m3. Toàn bộ số gỗ trên đã được thu giữ, vận chuyển về hạt kiểm lâm huyện cất giữ.
Trước đó, tại huyện Vân Hồ, nhận được thông tin có người chặt phá rừng lấy gỗ trái phép tại khu rừng phòng hộ thuộc bản Khoang Tuống, xã Suối Bàng, lực lượng kiểm lâm huyện đã xuống kiểm tra hiện trường. Tại đây, phát hiện 12 gốc cây gạo cùng 69 khúc gốc và 4 cành cây đã bị đốn, mỗi khúc có độ dài từ 2-2,5m. Ước tính gần 30m3. Theo phản ánh từ người dân, các đối tượng khai thác gỗ vào ban đêm khoảng từ 3-5 giờ sáng, để tránh sự tuần tra, kiểm soát của lực lượng bảo vệ rừng và nhân dân trong bản.
Hiện các vụ việc đang tiếp tục được điều tra, làm rõ. (Tài Nguyên Và Môi Trường 29/7) đầu trang(
Sinh ra và lớn lên giữa rừng U Minh, sau ngày tham gia cách mạng, ông được phân công làm giám thị trại giam kinh 7 (nay thuộc huyện An Biên, Kiên Giang), nằm cách bìa rừng U Minh chỉ hơn cây số. Ngày ngày, thấy rừng U Minh xanh mát mắt, bạt ngàn, nhưng người dân quanh rừng sao vẫn nghèo đói, chạy gạo ăn từng bữa; với tầm nhìn rộng, sự hiểu biết uyên thâm về vùng đất mình sinh ra, ông đã đưa ra những sáng kiến táo bạo.
Ban đầu, ông dùng nhân lực của trại giam để khai khẩn những vùng đất hoang hóa dày đặc lau sậy. Ông cùng hàng trăm phạm nhân ngày ngày vào rừng phát quang.
Những cây sậy to bằng cổ tay người được thồ chở ra ngoài trại giam, một bộ phận phạm nhân ngồi lựa từng loại, bó mang chở đi bán cho các nhà máy giấy ở Sài Gòn. Bán được lau sậy, ông lấy kinh phí mua cây giống cho trồng cừ tràm để gây rừng. Ròng rã từ năm 1979 đến 1995, hàng trăm hecta tràm được trồng mới quanh U Minh.
U Minh Thượng có tổng diện tích hơn 40 ngàn hecta, trong đó hơn 8000 hecta vùng lõi, tức rừng nguyên sinh được bảo vệ nghiêm ngặt. Vị giám thị trại giam xin lãnh đạo tỉnh để rừng cho trại giam quản lý.
Rừng trồng lên rồi, ông lại đau đáu nỗi lo mất rừng. “Dân mình lúc đó còn nghèo. Lại ở giữa một nguồn tài nguyên phong phú đa dạng như vậy, liệu mình có giữ được không? Dân không có gạo ăn, phải đi vào rừng chặt cây, bắt con này con kia mà bán. Không tạo điều kiện cho bà con làm ăn, phát triển kinh tế, thì chẳng mấy chốc mà hết rừng”, ông Đởm lý giải.
Để giải bài toán kinh tế cho dân, ông vạch ra một dự án mới là đưa dân vào vùng đệm (vùng bao quanh rừng nguyên sinh) sinh sống. Mỗi hộ được cắt 4 hecta đất. Quanh mỗi hộ, Nhà nước xẻ những con kinh nhỏ để đưa nước xổ phèn, rửa mặn, làm ao nuôi tôm cá.
Ngoài ra mỗi hộ được ngân hàng cho vay vốn để sản xuất. Với dự án này, ông dự định đưa hơn 3.500 hộ dân không có đất sản xuất vào vùng đệm định cư trên diện tích khoảng 14.000 hecta.
Thời điểm này, ông Đởm đã đến tuổi về hưu, thôi công tác ở trại giam. “Tôi có quyết định về hưu được hơn 2 tháng thì được mời gọi về làm Giám đốc quản lý rừng U Minh Thượng. Ban đầu nhận thấy mình già rồi, khó nhận trọng trách đó, nhưng sau đó như chưa dứt nợ với rừng, tôi gật đầu đồng ý”, ông kể lại.
Năm 1999, “vua rừng” được lãnh đạo tỉnh Kiên Giang phân công làm trưởng ban chỉ đạo dự án phát triển kinh tế khu vực vùng đệm rừng U Minh (nay là hai xã Minh Thuận và An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng). Tuổi đã già, nhưng sức còn khỏe phi thường, ông hằng ngày hăng hái đi vận động từng hộ dân.
Nhớ lại những ngày đó, ông xót xa: “Nhiều hộ dân lúc đó đâu có chịu đi. Một số hộ đang ở trong khu vùng đệm ,chỉ còn phải xẻ kênh nữa thôi, nhưng người ta còn không chịu. Tôi và anh em làm dự án này khổ vô cùng, còn bị một số hộ kiện cáo lung tung. Tôi đau lòng lắm. Nhưng rồi nghĩ mình cũng xuất thân nông dân, nên thông cảm với họ nhiều hơn”, ông tâm sự.
Dự án đang từng bước tiến hành suôn sẻ, mọi người đang phấn đấu từng ngày để nhìn thấy cuộc sống người dân no ấm, đi lên Bất ngờ đầu năm 2002, một trận cháy rừng khủng khiếp bậc nhất lịch sử thiêu rụi hàng ngàn hecta rừng U Minh Thượng, cũng như thiêu cháy tâm huyết của “vua rừng” ấp ủ bao năm qua.
Nhớ lại quá khứ đau thương của rừng, đôi mắt ông chợt ầng ậc nước. Tháng 1/2002, từ Khu bảo tồn thiên nhiên, rừng U Minh Thượng được nâng cấp lên Vườn Quốc gia. Chỉ hơn hai tháng sau khi có quyết định, rừng bị cháy.
Trưa ngày 24/3/2002, tại tiểu khu 138, quản lý khu này phát hiện một đám cháy nhỏ, nên huy động các thành viên dập lửa. Đến 2h sáng hôm sau, đám cháy cơ bản được khoanh vùng. Bất ngờ đến gần trưa, đám cháy lại bùng lên dữ dội. Bất chấp sức người, sức của đã trút cạn để ngăn lửa, nhưng suốt gần 20 ngày đêm, đám cháy cứ thế len lỏi khắp các cánh rừng.
4000 người ngày đêm tham gia chữa cháy vẫn không ngăn nổi ngọn lửa đã thiêu rụi khoảng 3000 hecta rừng nguyên sinh. Những  con số khủng khiếp ám ảnh Mười Đởm suốt cuộc đời. Suốt những ngày nhìn cánh rừng mình cùng sống cả đời, nay ngùn ngụt trong lửa, ông tâm sạ: “Tôi đau đớn vô cùng. Tôi còn bao nhiêu dự định còn chưa làm được với rừng U Minh”.
Sau vụ cháy rừng thế kỷ ấy, Mười Đởm “thoái vị”. Ông tâm sự: “Trận cháy đó làm tôi thoái chí vô cùng. Tuổi đã già, tôi liệu có còn sống nhìn thấy rừng U Minh Thượng hồi sinh nữa không?”. Dự án phát triển kinh tế dân cư vùng đệm cũng vì thế mà bỏ lỡ, tất nhiên còn do nhiều nguyên nhân khác.
Tính đến năm 2006, chỉ mới hơn 2000 hộ được đưa vào vùng đệm. Điều đáng mừng là sáng kiến ngày xưa, từ đây mới bắt đầu phát huy hiệu quả. Trước đó, vùng đệm có đến 70% hộ nghèo, nhưng tính đến năm 2009,  toàn vùng đệm đã có 2500 hộ dân đủ ăn, thậm chí tương đối đầy đủ. Từ những phần đất của nhà nước cắt rừng cho, người dân trồng lúa, hoa màu, khóm, mía, chuối cho năng suất cao.
Thực tế ấy khiến ông phần nào đã thấy ấm lòng. “Nhiều người dân ngày xưa phản đối dự án phát triển kinh tế vùng đệm, nay mới thực sự nhìn thấy kết quả. Đủ ăn đủ mặc, con cái đi học đàng hoàng, nhà cửa khang trang, họ mới hiểu”, ông đúc rút kinh nghiệm. U Minh Thượng sau thảm họa, đang từng ngày hồi sinh mạnh mẽ.
Vườn Quốc gia U Minh Thượng vốn là rừng úng phèn U Minh, hình thành và tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Cà Mau và Kiên Giang. Do bị dòng sông Trẹm chia cắt nên phân ra hai vùng thượng, hạ (Rừng U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau).
Diện tích vườn Quốc gia U Minh Thượng hiện hơn 20000 hecta, trong đó 8.038 hecta vùng lõi, vùng đệm là hơn 13 ngàn hecta. Vườn Quốc gia U Minh Thượng đang được đầu tư, phục vụ cho việc nghiên cứu, bảo tồn các nguồn giống, gen sinh học quý hiếm, đồng thời thực hiện dự án phát triển du lịch sinh thái và truyền thống. (Tin 247 29/7) đầu trang(
Mặc dù thời tiết những tháng đầu năm diễn biến phức tạp, đặc biệt đợt nắng nóng kéo dài cuối tháng 4 và tháng 5 vừa qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản xuất cây con, tiến độ trồng và chăm sóc rừng.
Tuy nhiên nhờ sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo ngành, Sở Nông nghiệp và PTNT, sự vào cuộc tích cực của cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương nên công tác phát triển, bảo vệ rừng đạt kết quả cao.
Theo đó, 6 tháng đầu năm toàn tỉnh trồng được 5.000 ha rừng tập trung, tăng 15% so với cùng kỳ, đạt 100% kế hoạch năm; trồng được 1,2 triệu cây phân tán các loại, tăng 20% so với kế hoạch. Tổng diện tích bảo vệ rừng là 152.445 ha, tăng gần 5% so với cùng kỳ và vượt kế hoạch 2%, trong đó diện tích hỗ trợ khoán bảo vệ rừng phòng hộ, đặc dụng trên 8.000 ha và thực hiện chăm sóc lần thứ nhất của rừng trồng năm thứ 2, năm thứ 3 đạt 7.500 ha.
Sản lượng khai thác gỗ từ đầu năm đến nay ước đạt gần 193.000 m3, trong đó chủ yếu là khai thác gỗ rừng trồng tập trung, và vườn rừng, đạt 77% kế hoạch năm và tăng 158% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cùng đó, công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được cơ quan chuyên môn chỉ đạo tăng cường. 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã kiểm tra, phát hiện lập biên bản và xử phạt hành chính 176 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, giảm 25 vụ so với cùng kỳ, riêng số vụ vi phạm phá rừng giảm 53 vụ; tịch thu hơn 111m3 gỗ các loại, 20 kg động vật hoang dã, 23 xe mô tô, 22 cưa xăng.
Tổng số tiền thu từ xử lý vi phạm và bán tang vật tịch thu hơn 1,3 tỷ đồng. Trong công tác phòng cháy, chữa chay rừng, Sở chỉ đạo đơn vị chuyên môn tập huấn kiến thức PCCCR cho cộng đồng, thành lập tổ công tác kiểm tra, hướng dẫn các địa phương, chủ rừng thực hiện PCCCR, huấn luyện kỹ năng thực hành sử dụng các thiết bị phương tiện, dụng cụ chuyên dùng.
Vì vậy, từ đầu năm đến nay, mặc dù trên địa bàn tỉnh để xảy ra 05 vụ cháy rừng nhưng các vụ đều được phát hiện sớm, huy động trên 1.000 lượt người tham gia chữa cháy nên đã hạn chế được thiệt hại do cháy rừng gây ra.
Nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm, Sở Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo các đơn vị tiếp tục nâng cao chất lượng giống cây lâm nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng rừng trồng, rừng gỗ lớn, đặc biệt đối với các huyện miền núi; đẩy mạnh trồng rừng tập trung và trồng cây phân tán theo kế hoạch; chỉ đạo các đơn vị cơ sở và chủ rừng thực hiện quyết liệt các biện pháp PCCCR trong các tháng mùa khô năm 2015-2016; tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát nhằm phát hiện sớm và xử lý nghiêm các đối tượng chặt phá, khai thác, vận chuyển lâm sản, động vật hoang dã trái phép trên địa bàn... (Sở NN&PTNN Tỉnh Bắc Giang 29/7) đầu trang(
Để lấn chiếm đất rừng trồng cà phê, nhân viên bảo vệ rừng của Công ty TNHH MTV lâm nghiệp An Nguyễn (huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng) đã thuê “lâm tặc” hạ độc thông rừng.
Ngày 29-7, Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm (tỉnh Lâm Đồng) đã khởi tố vụ án, bắt khẩn cấp 5 đối tượng liên quan đến vụ đầu độc 2,6 hecta rừng thông ba lá tại tiểu khu 444 xã Lộc Ngãi (huyện Bảo Lâm), gồm Vũ Văn Thanh (44 tuổi, nhân viên bảo vệ rừng Công ty An Nguyễn, thường trú tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), Vũ Tuấn Chung, Nguyễn Hữu Long, Vũ Quốc Lâm (cùng thường trú tại huyện Bảo Lâm), Vũ Tuấn Long (thường trú tại huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng).
Theo tường trình của Vũ Văn Thanh tại cơ quan điều tra, Thanh được Công ty An Nguyễn thuê bảo vệ rừng từ năm 2012.
Vì muốn lấn chiếm đất rừng trồng cà phê, Thanh thuê một người dân tộc (chưa rõ họ tên, địa chỉ) đào 3.000 hố dưới tán rừng thông để trồng cà phê và trả công 30 triệu đồng.
Đến tháng 4-2015, Thanh thuê Chung vào rừng ken cây, đổ hóa chất để cho cây thông chết và hứa trả công 5 triệu đồng. Chung rủ thêm Hữu Long, Tuấn Long và Lâm thực hiện việc hạ độc thông rừng.
Chung khai, để làm cây chết, Chung sử dụng rìu đi trước chặt nhiều nhát vào gốc thân cây, những người khác thay phiên nhau cảnh giới và đổ thuốc trừ sâu được chứa trong chai nước rửa chén, chai nhớt. Công an huyện Bảo Lâm xác định, diện tích rừng bị hủy hoại là 2,6 hecta.
Trước đó, Tuổi Trẻ đăng thông tin “Đầu độc thông rừng để lấn đất” báo động tình trạng phá rừng thông để lấn đất canh tác nông nghiệp tại tỉnh Lâm Đồng, trong đó huyện Bảo Lâm là điểm nóng. Ngay sau đó, Công an tỉnh Lâm Đồng đã lập chuyên án truy quét các “lâm tặc” trực tiếp hạ độc rừng thông. Đến ngày 29-7, Công an huyện Bảo Lâm đã phá 4 vụ hạ độc thông rừng và khởi tố 10 bị can. (Tuổi Trẻ 29/7; Thanh Niên 30/7; VnExpress 30/7) đầu trang(
Tháng 6.2013, tại hội thảo công bố giai đoạn 1 dự án “Sự sụt lún đất của bán đảo Cà Mau” do Bộ NN-PTNT phối hợp với Viện Địa kỹ thuật Hoàng gia Na Uy (NGI) tổ chức, các chuyên gia đã đưa ra kịch bản cảnh báo nạn khai thác mạch nước ngầm tràn lan cộng với tình trạng chặt phá rừng bừa bãi như thời gian qua sẽ dẫn đến hậu quả khó lường cho tỉnh Cà Mau, nếu ngành chức năng không có biện pháp can thiệp kịp thời.
Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương, đồng thời giao cho Bộ NN-PTNT và Bộ TN-MT sớm nghiên cứu tìm phương án tối ưu xây dựng hồ chứa nước ngọt ở vùng U Minh Hạ để cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho người dân Cà Mau, thay cho việc sử dụng nước ngầm. Tuy nhiên, đến nay, dự án xây dựng hồ nước ngọt ở Cà Mau vẫn chưa thể triển khai do chưa chọn được mặt bằng xây dựng.
Ngày 27.7, ông Tô Quốc Nam, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau, cho biết: “Cà Mau được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ vốn (khoảng 450 tỉ đồng) để xây dựng hồ sinh thái chứa nước ngọt tại Vườn quốc gia U Minh Hạ. Diện tích mặt hồ khi xây dựng là 190 ha, diện tích sử dụng 360 ha.
Nhưng theo phương án xây dựng hồ tại Vườn quốc gia U Minh Hạ đã được Chính phủ phê duyệt, thì Ngân hàng Thế giới không thống nhất do ảnh hưởng đến diện tích rừng đặc dụng. Còn nếu chọn ở vị trí khác thì sẽ ảnh hưởng đến gần 40 hộ dân nhận đất rừng giao khoán.
Theo tính toán sơ bộ, số tiền hỗ trợ, bồi hoàn để di dời, tái định cư... cho các hộ dân lên đến hơn 250 tỉ đồng; trong khi địa phương không có nguồn tiền này”.
Theo tính toán của tỉnh, nếu xây dựng hồ sinh thái chứa nước ngọt như trên sẽ chủ động được hơn 10 triệu m3 nước phục vụ cho hơn 500.000 hộ dân trong tháng mùa khô. Theo thống kê của ngành chức năng, tỉnh Cà Mau hiện có gần 1.200 giếng khoan cung cấp nước tập trung, với lượng nước được bơm hơn 373.000 m3/ngày, nhưng không phân bố đều trên toàn tỉnh mà tập trung vào một vài nơi ở đô thị.
Do đó, khu vực này có thể xảy ra lún lớn hơn nhiều so với tốc độ sụt lún chung là 1,56 - 2,3 cm/năm. Theo các dữ liệu thu được từ vệ tinh, bờ biển Cà Mau bị thụt vào từ 100 - 1.400 m trong 20 năm qua. Đánh giá sơ bộ cho thấy sụt lún có thể đã lên đến từ 30 - 70 cm ở nhiều nơi. (Thanh Niên 30/7) đầu trang(
Thông qua 2 chương trình hợp tác kỹ thuật mới, các Chính phủ Đức và Australia sẽ hỗ trợ Việt Nam 12,5 triệu Euro để bảo vệ rừng và các hệ sinh thái ven biển.
Chương trình Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học rừng và các dịch vụ hệ sinh thái tại Việt Nam (gọi tắt là Chương trình Đa dạng Sinh học Rừng), và Chương trình Bảo vệ tổng hợp vùng ven biển và rừng ngập mặn Đồng bằng sông Cửu Long nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu (gọi tắt là Chương trình ICMP) giai đoạn II vừa được ký kết giữa đại diện Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam và Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức GIZ.
Theo đó, Chương trình Đa dạng Sinh học Rừng có mục tiêu là thiết lập các điều kiện tiên quyết nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học và các hệ sinh thái rừng ở cấp trung ương, được thực hiện từ 2015-2018.
Tổng ngân sách cho Chương trình này là 4,5 triệu Euro (tương đương 139,6 tỷ đồng) do Chính phủ Đức hỗ trợ không hoàn lại thông qua BMZ. Chính phủ Việt Nam cung cấp 10% vốn đối ứng là 450 ngàn Euro (tương đương 12,6 tỷ đồng).
Chương trình ICMP giai đoạn II có mục tiêu là nâng cao năng lực thể chế, tài chính và lập kế hoạch để thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.
Chương trình xây dựng trên các giải pháp thực tế, thích ứng với biến đổi khí hậu do chính quyền và người dân địa phương triển khai với sự hỗ trợ của chính phủ Đức và Úc từ năm 2007.
Nhờ các giải pháp được thực hiện trong giai đoạn 1 của chương trình, 99% đê vùng bờ của Sóc Trăng và Bạc Liêu hiện không chịu tác động trực tiếp của sóng biển, 603 ha rừng ngập mặn đã được phục hồi…
Trong giai đoạn II (2014 – 2017), ICMP tập trung thể chế hóa và nhân rộng các giải pháp đã được xây dựng nhằm đạt được tác động toàn diện trên quy mô lớn.
Tổng ngân sách Chương trình lên đến 8,8 triệu Euro (tương đương 209,4 tỷ đồng), trong đó, Chính phủ Đức tài trợ 4,5 triệu Euro (tương đương 107,1 tỷ đồng), Chính phủ Úc tài 3,5 triệu Euro (tương đương 83,3 tỷ đồng). Chính phủ Việt Nam đóng góp 800 ngàn Euro (tương đương 19 tỷ đồng) vốn đối ứng.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐB SCL) là nơi cư trú của 17 triệu người và là vùng canh tác nông nghiệp quan trọng nhất của cả nước. Sản lượng lúa gạo của vùng chiếm 52% tổng sản lượng của cả nước, cung cấp lương thực cho hơn 145 triệu dân sinh sống ở khu vực châu Á, gần bằng tổng dân số của cả Đức và Pháp cộng lại.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng công nghiệp lớn thứ ba cả nước, chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội và TP. HCM. Tuy nhiên, hiện nay Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với các mối đe dọa từ biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng nước biển dâng.
Theo các nghiên cứu chính thức, 38% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long có thể bị nước biển nhấn chìm vào năm 2100. Một số khu vực ven bờ đang bị xâm thực khoảng 30m mỗi năm.
Rừng ngập mặn dọc theo bờ biển bảo vệ đất liền khỏi ảnh hưởng của bão, lũ hiện đang bị suy giảm nghiêm trọng. Mức độ gia tăng xâm nhập mặn dẫn đến tình trạng đất nhiễm mặn, gây khó khăn đáng kể cho sản xuất nông nghiệp.
Các thách thức này đe dọa đến tương lai của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và khả năng cung cấp các dịch vụ sinh thái quan trọng mà cộng đồng dân cư địa phương và hàng triệu người dân trên toàn cầu đang sống phụ thuộc vào đó.
Do đó, các chương trình như Đa dạng Sinh học Rừng hay ICMP sẽ góp phần khắc phục các thách thức nói trên thông qua việc củng cố vùng bờ ĐB SCL, giúp Việt Nam sẵn sàng cho sự thay đổi khu vực vùng ven biển. (Vietnamnet 29/7; Nhân Dân 29/7; Thanh Niên 30/7; Hà Nội Mới 29/7) đầu trang(
Bản Chà Nọi I, xã Quảng Lâm, huyện Mường Nhé có 52ha rừng phòng hộ. Những năm qua, dựa trên quy ước bảo vệ và phát triển rừng của UBND xã Quảng Lâm xây dựng, phổ biến đến các thôn, bản trên địa bàn, bản Chà Nọi I xây dựng hương ước cho các dòng họ, quy chế bảo vệ rừng phù hợp với điều kiện thực tế của bản.
Phối hợp với bảo lâm xã, kiểm lâm địa bàn, các tổ chức, đoàn thể của xã lồng ghép vào các buổi họp bản để tuyên truyền cho người dân về Luật Bảo vệ và phát triển rừng, các phương pháp phòng cháy chữa cháy rừng, tổ chức cho bà con ký cam kết bảo vệ rừng...
Bản cũng giao trách nhiệm cho các trưởng dòng họ, người có uy tín thường xuyên tuyên truyền và vận động con cháu trong gia đình, dòng họ tích cực tham gia cùng với lực lượng chức năng để xử lý các đối tượng xâm hại đến rừng.
Chia sẻ về kinh nghiệm giữ rừng, ông Giàng A Sà, Trưởng bản Chà Nọi I cho biết: “Rừng rất quan trọng đối với cuộc sống của bà con trong bản. Để rừng mãi xanh tươi, phục vụ cuộc sống thì mỗi người dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ rừng như một kiểm lâm viên”.
Bản thành lập 4 tổ bảo vệ, mỗi tổ 14 người thường xuyên đi tuần tra, kiểm soát rừng, phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm địa bàn giải quyết các đối tượng xâm hại rừng. Hàng năm, bản huy động người dân phát dây leo, cây bụi để tạo điều kiện thuận lợi cho cây rừng phát triển.
Năm 2013, trong lúc tuần tra, kiểm soát rừng, tổ bảo vệ đã phát hiện ông Thào A Su, bản Chà Nọi II (xã Quảng Lâm) đang khai thác gỗ trái phép trong khu vực bản Chà Nọi I quản lý. Diện tích rừng bị thiệt hại là hơn 6.000m2. Tổ bảo vệ đã báo cho chính quyền xã, kiểm lâm địa bàn tịch thu số gỗ và lập biên bản xử lý hành chính đối với ông Thào A Su.
Bản Chà Nọi I có 56 hộ dân, 100% người dân là đồng bào dân tộc Mông, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 62,5%. Tuy nhiên, người dân bản Chà Nọi I không phá rừng làm nương. Người dân đã bỏ dần tập quán sản xuất luân canh, thay vào đó là tập trung khai hoang sản xuất lúa nước.
Ông Giàng A Sà cho biết: Bản hiện có 8ha ruộng bậc thang. Mới đây, UBND huyện Mường Nhé phê duyệt đầu tư xây dựng một công trình thủy lợi, hiện nay các đơn vị đang tiến hành khảo sát, chuẩn bị xây dựng. Sau khi công trình thủy lợi hoàn thành diện tích lúa của bản sẽ được mở rộng thêm. Người dân trong bản sẽ tập trung chăn nuôi và sản xuất lúa nước.
Anh Lường Văn Thương, kiểm lâm địa bàn xã Quảng Lâm cho biết: Chà Nọi I là một trong những bản có ý thức quản lý, bảo vệ rừng tốt nhất xã Quảng Lâm. Những năm qua, người dân bản Chà Nọi I đã cung cấp nhiều thông tin chính xác giúp lực lượng chức năng phát hiện, ngăn chặn kịp thời nhiều vụ phá rừng.
Bên cạnh đó, từ năm 2014, bản Chà Nọi I được Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Điện Biên chi trả gần 60 triệu đồng/năm theo chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng; góp phần tăng thu nhập, ổn định đời sống người dân. (Báo Điện Biên Phủ 29/7) đầu trang(
Sau vụ cam, bưởi năm 2014, người dân TP Hòa Bình và Thủ đô Hà Nội đua nhau "ôm" tiền lên huyện Cao Phong, huyện Tân Lạc mua đất trồng cam, bưởi. Đồi keo, rừng vầu, nương sắn bị "cạo trọc”, sới tung. Giá đất "leo thang" từng ngày. Hàng trăm ông chủ đang có nguy cơ trở thành người làm thuê ngay trên chính mảnh đất của mình.
Không còn nữa những đồi keo ngút ngàn. Không còn nữa những rừng vầu, nương sắn tầng tầng lớp lớp nơi sườn đồi, lưng núi. Thay vào đó là cảnh những quả đồi bị "cạo trọc", máy ủi, máy xúc ngày đêm cày sới, múc đất, lật đá, biến đất trồng rừng thành đất trồng cam, bưởi.
Mỗi ngày có hàng chục xe tải lớn nhỏ, lặc lè chở phân chuồng từ các huyện Thạch Tất, Quốc Oai, Ba Vì của Hà Nội đến Cao Phong, Tân Lạc "đổ" cho các ông chủ vườn cam, bưởi... Đó là những gì mà chúng tôi đã ghi nhận được trên suốt chặng đường từ địa bàn các xã Thu Phong, Tây Phong, Nam Phong, Bắc Phong, Xuân Phong (Cao Phong) đến xã Quy Hậu, Thanh Hối, Đông Lai (Tân Lạc).
Ông Nguyễn Thượng Hiền, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Cao Phong cho biết: Tính đến cuối tháng 6/2015, toàn huyện Cao Phong có trên 600ha đất lâm nghiệp chuyển sang trồng cây ăn quả, trong đó phần lớn trồng cam, bưởi, chanh, tập trung nhiều ở các xã Thu Phong, Xuân Phong, Bắc Phong, Tây Phong.
Có xã, diện tích đất trồng rừng nay chuyển sang trồng cam, bưởi chiếm 30 - 35% tổng diện tích cam, bưởi. Ở xóm Nếp, xóm Bằng, xóm Đồi, xã Tây Phong, nhiều hộ chặt cả rừng keo 1 - 2ha để lấy đất trồng cam hoặc cho thuê, thậm chí bán trao tay cho người khác trồng cam, bưởi. Đây là vấn đề trăn trở đối với lực lượng kiểm lâm và chính quyền từ xã đến huyện.
Tại huyện Tân Lạc, qua số liệu kiểm tra trên địa bàn 17/24 xã cho thấy, diện tích đất trồng rừng (keo) sau khai thác đã chuyển sang trồng cây ăn quả (cam, bưởi, chanh) là 390ha. Xã Quy Hậu là địa phương giáp ranh với huyện Cao Phong nên việc chuyển đổi đất lâm nghiệp sang đất trồng cam, bưởi sôi động nhất.
Đặc biệt, các hộ không sử dụng đất mà phần lớn là bán, sang nhượng cho các chủ đầu tư ngoài địa bàn. Phương thức mua bán của các chủ đất rừng rất đơn giản và "kín", bỏ qua thủ tục, nguyên tắc pháp lý là xác nhận của chính quyền xã và cơ quan chức năng. Bên mua, bên bán chỉ cần viết giấy biên nhận giao đất, nhận tiền là xong.
Trao đổi với PV, ông Bùi Văn Hiển, Phó Chủ tịch UBND xã Quy Hậu cho biết: Chính quyền xã đã ra thông báo về các xóm, yêu cầu các hộ không tự chuyển đổi, sang nhượng đất lâm nghiệp khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền. Không chuyển đổi mục đích sử dụng đất ngoài quy hoạch của địa phương. Tuy nhiên, tình trạng sang nhượng đất vẫn chưa chấm dứt.
UBND xã đã có kế hoạch phối hợp với Hạt Kiểm lâm, Phòng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, kiểm tra tổng thể diện tích đất lâm nghiêp trên địa bàn xã đã chuyển đổi, sang nhượng, làm rõ nguyên nhân và xử lý nghiêm những hộ vi phạm.
Vào thời điểm sau Tết Ất Mùi 2015, giá đất đồi, có độ dốc cao ở xã Quy Hậu lên tới 150 - 200 triệu đồng/ha. Khu đất đồi gần quốc lộ 6, độ dốc thấp có giá 250 - 300 triệu đồng/ha. Nhiều người ôm tiền tìm mua đất, vẫn phải ôm tiền về, vì không có đất mà mua.
Hạt trưởng Nguyễn Thượng Hiền cho rằng, việc người dân san ủi, tạo những đường băng hẹp quanh đồi, núi để trồng cam, bưởi đã phá vỡ kết cấu địa hình, tăng độ xói mòn của đất, mưa lũ sẽ làm sạt lở đồi núi, hệ lụy rất khó lường, nhất là đất đồi, núi có độ dốc cao sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái của khu dân cư.
Ông Lê Xuân Hà, Phó trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Cao Phong khẳng định: Tình trạng người dân tự chuyển nhượng đất trồng rừng cho người khác trồng cam, bưởi trên địa bàn huyện là có. Các chủ đầu tư trồng cam, bưởi nghĩ rằng, họ sẽ biến từng tấc đất nơi vạt đồi, sườn núi cằn cỗi thành "tấc vàng".
Điều này không dễ, bởi cam, bưởi là loại cây cần lượng nước tưới rất lớn, trong khi đó, địa hình, loại đất đồi lại không giữ được nước. Trước mắt và lâu dài, nguồn sinh thủy sẽ bị cạn kiệt. Những vườn cam, bưởi đem lại bạc tỷ hiện nay, một phần nhờ có rừng keo, rừng vầu, rừng tái sinh ngăn lũ ống, lũ quét và cung cấp nước.
Ngày 20/6/2014, UBND huyện Cao Phong đã có Văn bản số 125 và Văn bản số 321 về việc tăng cường công tác quản lý, sử dụng đất rừng trên địa bàn, nêu rõ: Hiện nay việc san ủi cải tạo đất lâm nghiệp để trồng cây ăn quả có múi diễn ra nhiều nơi, ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý quy hoạch sử dụng đất, nguy cơ gây sạt lở và sự cố môi trường. Đề nghị UBND các xã thực hiện đúng chức trách theo quy định tại Điều 208 Luật Đất đai.
Chỉ đạo là thế, nhưng đồi vẫn bị cạo trọc, cày sới. Đã có trường hợp chủ đầu tư mua đất đồi, cho máy ủi lên "làm vườn" cam, lấn cả vào đất khu nghĩa địa, đụng chạm đến mồ mả của dân.
Hàng trăm người dân đã phản đối, bao vây chủ vườn cam và giữ máy móc, gây ách tắc giao thông nhiều giờ trên quốc lộ 6, thuộc địa bàn thị trấn Cao Phong. Cũng từ việc các chủ hộ tự chuyển nhượng đất lâm nghiệp đã gây tranh chấp đất đai, phát sinh khiếu kiện.
Vì phá rừng keo lấy đất cho thuê và bán, không ít gia đình lâm vào cảnh hết đất sản xuất, phải đi làm thuê cho chủ vườn cam, bưởi, làm thuê ngay trên mảnh đất của mình! (Thanh Tra 30/7) đầu trang(
Theo thống kê của ngành chức năng tỉnh Gia Lai, trong 6 tháng đầu năm 2015, toàn tỉnh phát hiện 420 vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, giảm 182 vụ (30,2%) so với năm ngoái.
Trong số đó, vi phạm về vận chuyển, mua bán, cất giữ lâm sản trái phép 345 vụ, vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản khác 33 vụ, vi phạm quy định về chế biến gỗ và lâm sản khác 5 vụ, phá rừng làm nương rẫy 21 vụ, làm thiệt hại 31,651 ha rừng (tăng diện tích thiệt hại 1,898 ha so với cùng kỳ 2014); vi phạm khác 14 vụ; quản lý động vậy hoang dã 1 vụ.
Trên địa bàn cũng đã xảy ra 1 vụ cháy rừng, với diện tích 8,9 ha rừng thông ba lá. Trong đó, thiệt hại 1,44 ha không khả năng phục hồi được, cháy lước dưới tán; có khả năng phục hồi là 7,46 ha
Cơ quan chức năng đã xử lý 384 vụ; tịch thu 365,33 m3 gỗ tròn; 703,504 m3 gỗ xẻ, 72 phương tiện các loại (máy cưa, ô tô, xe máy, máy kéo…); thu nộp ngân sách trên 8,7 tỷ đồng.
Song song với việc tăng cường quản lý và bảo vệ, các đơn vị đã tích cực triển khai công tác tuyên truyền quản lý bảo vệ để rừng để nâng cao ý thức của người dân góp phần vào công tác bảo vệ rừng trên địa bàn. (Tài Nguyên Và Môi Trường 29/7) đầu trang(
Như loạt bài trước chúng tôi đã phản ánh về tình trạng sạt lở bờ sông, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), thì hiện nay ở vùng này cũng đang đối mặt với một vấn đề đáng báo động khác đó là dọc theo chiều dài bờ biển sóng biển liên tục bào mòn nhiều đoạn đê biển, lấn sâu vào đất liền cả trăm mét mỗi năm.
Hàng loạt nhà cửa, đất sản xuất, rừng phòng hộ và ngay cả một số công trình đê kè vừa xây xong lần lượt bị sóng biển cuốn phăng. Thời điểm hiện nay đang vào mùa mưa, bão, tình trạng sạt lở các tuyến đê biển ở ĐBSCL với tốc độ sạt lỡ ngày càng nhanh và nghiêm trọng.
Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau cho biết, từ năm 2009 trở lại đây, tình trạng sạt lở bờ biển và rừng phòng hộ có tốc độ sạt lở nhanh và nghiêm trọng hơn. Thực tế, qua quan sát, hiện nay các đai rừng phòng hộ ven biển Tây của tỉnh Cà Mau có hình răng cưa. Sạt lở làm đai rừng phòng hộ tại khu vực chỉ còn ở mức trung bình 100m, giảm gần 1 nửa so với trước đây. Rất nhiều đoạn bị sóng biển khoét sâu đến gần thân đê, nếu không đầu tư kịp thời, có thể cuối năm nay các đoạn đai rừng này sẽ bị mất hoàn toàn.
Ông Nguyễn Tấn Hồng, ở xã Khánh Tiến, huyện U Minh cho biết: “Ra ngoài ba bốn chục công cây mắm nhiều lắm, mình đi ra tới đó có thể là mình vào không được luôn. Nhưng từ khi cơn bão số 5/1997 tới giờ lở dần dần vào, tới 2 năm nay là lở nhiều. Lở có khi nước tràn qua đê xuồng ghe mình có thể qua lại được, bà con mình sống vất vả lắm. Nhờ nhà nước quan tâm đầu tư bờ kè, giờ người dân cũng yên tâm chút, chứ mỗi lần dông gió tới, tôi ở đây hồi năm 1983 tới giờ nhà bị sập 3 lần rồi, mới sập năm ngoái một lần nữa nè. Nói chung người dân ở đây sống vất vả lắm”.
Bờ biển Tây của tỉnh Cà Mau có chiều dài 154km. Theo khảo sát toàn tuyến của ngành chức năng, diễn biến sạt lở tuyến đê hiện đang ở mức nguy hiểm, có nguy cơ bị phá vỡ , ảnh hưởng đến khu dân cư tập trung với chiều dài hơn 40km.
Ông Nguyễn Thanh Tuấn, người dân sinh sống lâu năm cập đê biển Tây, thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời cho biết, những con sóng dữ cuốn bật gốc cây rừng phòng hộ diễn ra hàng ngày và ngày càng lớn, nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời thì nguy cơ sạt lở đê là rất cao.
Ông Tuấn cho hay: “Tôi ở đây từ năm 1993, tính bề dày rừng từ đây chạy ra biển là 14,5 công tầm lớn mà bây giờ tính ra còn có mấy thước, hiện tượng năm ngoái và năm nay sạt lở thấy ghê. Theo tôi nhận định mà dông tố một tháng liên tục như vậy là tới chân đê ngay khúc này”.
Còn tại khu vực ven biển tỉnh Trà Vinh, gần chục năm nay, hàng trăm ha đất rừng phòng hộ, đất sản xuất, đất ở bị nước biển xâm thực, gây sạt lở, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhiều hộ dân.
Gia đình Lê Tấn Tài, ở khu vực Cồn Nhàn, xã Dân Thành, huyện Duyên Hải là một trong nhiều hộ dân nơi đây có hoàn cảnh rất khó khăn do ảnh hưởng của tình trạng sạt lở, mất đất sản xuất. Anh Tài cho biết, trước đây, gia đình khá giả, có thu nhập cao từ việc trồng màu và nuôi cá.
Tuy nhiên, đợt triều cường năm 2010 đã cuốn toàn bộ tài sản, căn nhà và làm thiệt hại gần 1ha đất màu. May mắn, các thành viên trong gia đình không ai bị thiệt mạng, thế nhưng đời sống kinh tế của gia đình anh từ đó rất khó khăn. Hiện gia đình đã dọn nhà vào ở phía bên trong con đê, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ, vì đợt triều cường hồi đầu năm tiếp tục khoét sâu đoạn đê trước nhà anh.
Anh Lê Tấn Tài cho biết thêm: “Mình cũng thấy lo sợ sóng vô làm sập nhà nên tôi dời nhà vô phía trong. Bây giờ rất là lo mong nhà nước làm lại con đê, có thể ở trồng hoa màu. Nếu mà con đê bị lở không biết phải ở đâu”.
Tuyến đê biển Gò Công, tỉnh Tiền Giang có chiều dài hơn 21km, trong đó đoạn xung yếu 5km có nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, phòng chống bão, xâm nhập mặn, bảo vệ sản xuất và đời sống cho hàng chục ngàn hộ dân phía Đông của tỉnh.
Gần đây do sự thay đổi của dòng chảy, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã làm cho tuyến đê biển Gò Công bị sạt lở nghiêm trọng. Báo động nhất là khu vực các xã Tân Điền, Tân Phước và Tân Thành, huyện Gò Công Đông, sạt lở đất rừng phòng hộ, nước biển đã xâm thực vào đến tận chân đê.
Còn tại tỉnh Bến Tre, nơi có 65km bờ biển, gần đây do triều cường dâng cao nhiều đoạn bị sạt lở nghiêm trọng. Các đoạn đê biển ở cồn Lợi, cồn Bửng, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú không những bị sóng cuốn ra biển, mà những hàng dương chắn sóng, chống xói mòn cũng không chịu được sức gió...
Bờ biển xã Thạnh Hải có chiều dài khoảng 18km, nhưng trong 5 năm qua đã có đến một nửa bị sạt lở. Đoạn sạt lở nghiêm trọng nhất dài khoảng 2km từ bãi tắm Tây Đô tới hợp tác xã Thanh Bình. Theo người dân địa phương: ba năm trở lại đây, biển xâm thực hằng năm vào khoảng 15m. Ấp Thạnh Hải bị sạt lở mất khoảng 5km.
Trước nguy cơ sạt lở, những hộ dân ở dọc bờ biển đã tự tìm cách khắc phục bằng cách đưa xe vào múc đất hoặc dùng bao cát đắp bờ ngăn cản. Nhưng đó cũng chỉ là những biện pháp trước mắt, không đem lại hiệu quả lâu dài.
Hiện nay, nhiều địa phương các tỉnh vùng ĐBSCL đang tập trung nguồn lực để ngăn chặn làm giảm thiểu tình trạng sạt lở. Bên cạnh các giải pháp công trình để xây dựng, nâng cấp đê biển thì địa phương chú trọng việc tái tạo và trồng mới rừng phòng hộ để bảo vệ đê. Tuy nhiên, cái khó của các tỉnh cũng như ở riêng Bến Tre hiện nay là tỉ lệ diện tích rừng trồng mới, tỉ lệ sống không cao do thiếu đất phù sa ven biển.
Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre nói: “Sạt lở của các tỉnh vùng ĐBSCL cũng như Bến Tre rất nhiều. Ở tỉnh Bến Tre đang đối mặt với cái khó là trồng rừng được chỉ ở ven bờ thôi. Khi sạt lở ven biển do tác động sóng đánh vào là đất cát chứ không phải phù sa nên khi trồng rừng cây đước trồng vào đó thì không sống. Hầu hết cây dương trồng 2-3 mùa thì sóng đánh bật hết. Nên giữ được đai rừng là chuyện sống còn của địa phương. Trồng mới để bảo vệ đê là vấn đề đặt ra rất lớn”.
Trước diễn biến của biến đổi khí hậu làm cho thời tiết ngày càng phức tạp, tình trạng mưa bão, nước biển dâng ngày càng cao, dẫn đến nhiều tuyến đê biển và rừng phòng hộ ở ĐBSCL không còn đủ sức chống chịu trước sự tàn phá của thiên tai. Trong khi một thực trạng chung của nhiều địa phương trong vùng ĐBSCL hiện nay là việc thiếu vốn để thi công đồng bộ và khép kín các tuyến đê biển.
Tình trạng thi công chấp vá nên công trình vừa gia cố chỉ qua một thời gian ngắn các tuyến đê này đã bị sóng biển san bằng. Nguy cơ nước biển tấn công vào sâu trong nội địa, gây tác hại khôn lường đang hiện hữu ngay trong đời sống của hàng triệu cư dân ĐBSCL. ĐBSCL phải làm gì và làm như thế nào để có thể bảo vệ các đê biển, hạn chế tình trạng mất rừng phòng hộ hiện nay, trong bài tiếp theo chúng tôi sẽ có bài đề cập Những giải pháp căn cơ để bảo vệ đê biển ĐBSCL. (VOV Giao Thông 29/7) đầu trang(
Không phải mới diễn ra 1-2 tháng, rừng đầu nguồn Sông Vố (thị trấn An Lão, huyện An Lão) đã bị tàn phá trong thời gian dài. Nhận được tin báo cánh rừng nguyên sinh này đang bị “băm vằm”, chúng tôi đã tiếp cận hiện trường.
Theo chân ông T. - một người dân ở xã An Tân (huyện An Lão, Bình Định) - PV có dịp “thâm nhập” vào những khu rừng đang bị người dân và lâm tặc thẳng tay “xẻ thịt”.
Vừa đặt chân đến đập Hồ thủy lợi - thủy điện Sông Vố (ở thôn 2, thị trấn An Lão), chúng tôi đã nghe thấy tiếng máy cưa gầm rú liên hồi.
Người dẫn đường bảo với chúng tôi rằng: âm thanh phá rừng có hai loại. Âm nào rú rít trong quãng thời gian ngắn là kiểu hạ cây nhỏ để làm rẫy trồng keo. Âm nào gầm dài liên tục hơn cả phút là của lâm tặc cưa đại thụ để lấy gỗ. Nhưng, bất kể là kiểu âm thanh nào đi nữa thì đó đều là âm thanh của sự hủy diệt những cánh rừng đầu nguồn.
Chúng tôi tiếp tục đi ngược về khu vực đầu nguồn có tục danh Nước Xim, Nước Thét (dân địa phương gọi là Nước Trắng).
Dọc hai bên con đường mòn, nhiều chiếc xe máy cũ kỹ, không biển số được giấu trong các bụi cây. Người dẫn đường cho biết, đây là xe của lâm tặc. Đến chiều tối, họ sẽ tập kết gỗ về khu vực để xe để đưa xuống thị trấn.
Đi sâu thêm 1,5 km nữa, bắt gặp thêm nhiều khoảnh rừng bị đốt, đốn trụi. Đáng chú ý, tại khu vực Nước Trắng, PV quan sát thấy cả khu rừng rộng lớn gần chục hecta với nhiều loại cây nguyên sinh có đường kính 20 - 25 cm đã bị triệt hạ không thương tiếc, tạo ra vạt núi trọc.
Vài ngôi lều nhỏ đã được dựng lên trên chính nơi rừng bị tàn phá.
Để rõ hơn về tình hình phá rừng đầu nguồn Sông Vố, PV đã đến trụ sở làm việc của Hạt Kiểm lâm huyện An Lão.
Sau khi nghe PV trình bày thực trạng rừng đầu nguồn nơi đây đang bị tàn phá thì ông Phạm Phương Bắc - hạt phó Hạt kiểm lâm huyện tỏ vẻ cẩn trọng.
“Vấn nạn phá rừng trên địa bàn huyện đang diễn biến phức tạp. Phát ngôn với báo chí phải có sự đồng ý của Giám đốc Sở NN&PTNT, chứ tôi là Hạt phó cũng không có thẩm quyền…, mong anh thông cảm (!?)”- ông Bắc nói.
Trong khi đó, liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Thanh Long, Chủ tịch UBND thị trấn An Lão thừa nhận, chuyện rừng đầu nguồn Sông Vố bị người dân và lâm tặc chặt phá là có thật.
Ông Long cho biết, tình trạng này bắt đầu xảy ra vào đầu năm 2015. Sau khi nắm bắt tình hình này, chính quyền địa phương phối hợp với lực lượng kiểm lâm đứng chân địa bàn cùng ngành chức năng liên quan đã tổ chức kiểm tra, truy quét 3 đợt.
Qua đó, xác định đã có 2,8 ha rừng ở khoảnh 1, tiểu khu 22A đầu nguồn Sông Vố (khu vực Nước Trắng) bị người dân và lâm tặc chặt phá để trồng rừng kinh tế và lấy gỗ.
Hiện nay, địa phương đang tiến hành xác minh, làm rõ các đối tượng vi phạm để xử lý theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, so với thực tế những gì mà chúng tôi ghi nhận được thì diện tích rừng bị phá còn có thể lớn hơn 3 - 4 lần.
Tiếp tục làm việc với Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Định. Sau khi nghe PV phản ánh tình hình rừng đầu nguồn Sông Vố bị tàn phá, ông Huỳnh Ngọc Bảo - Phó Chi cục trưởng - bất ngờ: “Tôi chưa nghe anh em Hạt Kiểm lâm huyện An Lão báo cáo về chuyện này”.
Để giúp ông Bảo hình dung và hiểu rõ hơn về vấn đề kể trên, PV “cung cấp” thêm nhiều bức ảnh và các đoạn video clip ghi nhận được.
Xem qua một lượt, ông Bảo, quả quyết: “Các khoảnh rừng bị chặt phá là cây rừng nguyên sinh, quy hoạch với chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn bảo vệ công trình hồ, đập.
Tôi xin tiếp nhận ý kiến phản ánh. Chi cục sẽ khẩn trương chỉ đạo lực lượng kiểm lâm huyện An Lão phối hợp chính quyền địa phương và ngành chức năng tổ chức kiểm tra ngay tình trạng này. Sau đó, tùy vào kết quả kiểm tra, chúng tôi sẽ có hướng xử lý phù hợp. Quan điểm của Chi cục sẽ xử lý nghiêm các đối tượng hoặc cá nhân nào mắc sai phạm”.
Có thể thấy, tình hình phá rừng đầu nguồn Sông Vố diễn ra trong thời gian khá dài, song sự vào cuộc ngăn chặn từ phía chính quyền địa phương và Hạt Kiểm lâm huyện An Lão lại không hiệu quả và quá chậm.
Dư luận đang mong muốn Sở NN&PTNT Bình Định vào cuộc kiểm tra, chấn chỉnh.
Về vấn đề này, chiều 26/7, ông Nguyễn Hiếu Hòa, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT kiêm Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Định cho biết: “Sở đã chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm phối hợp chính quyền địa phương kiểm tra, làm rõ, tuần tới sẽ có kết quả xử lý”. (Vietnamnet 29/7) đầu trang(
Ngày 29-7, Công an huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai cho biết đã có kết luận điều tra vụ phá rừng rồi tung ảnh lên facebook.
Theo đó, khoảng cuối tháng 3 vừa qua, trên mạng xã hội xuất hiện hình ảnh, clip về việc phá rừng do facebook có tên Vũ Đình Lộc tải lên gây xôn xao dư luận.
Đặc biệt, nội dung trong clip ghi lại cảnh hàng chục người đi xe độ (xe chế) mang theo cưa máy, chở hàng chục khúc gỗ từ rừng ra. Trong lời nói của các nhân vật thể hiện mỗi cục gỗ trên xe phải chung cho kiểm lâm 10 ngàn đồng, một người nhẩm tính toàn bộ số gỗ đang được chở trên phải chung cho kiểm lâm 3 triệu đồng. “Phải quay cái clip này để mấy chú kiểm lâm về mà điều tra ngay cái nạn phá rừng này đi”, người quay clip nói.
Trên facebook Vũ Đình Lộc còn để lại số điện thoại cho người nào có nhu cầu mua liên hệ.
Sau đó một số trang báo đưa tin, xác định hình ảnh khai thác gỗ thuộc khu vực Dốc Mái Nhà, xã Chư Đrăng, huyện Krông Pa. Từ đây, UBND huyện Krông Pa chỉ đạo Công an huyện này điều tra làm rõ.
Qua điều tra xác định có mặt trong hình ảnh được tung lên facebook là Vũ Đình Lộc (24 tuổi, trú xã Uar) cùng 6 người khác đang vận chuyển thuê một cặp gỗ Lim Sẹc (nhóm 5) đường kính 50 cm dài 1,8m (tổng cộng 3,13 m3) cho Nguyễn Văn Khuê (22 tuổi), được khai thác vào tháng 8-2014 (địa điểm khai thác thuộc Dốc Mái Nhà, tiểu khu 1394, là rừng phòng hộ, do xã Chư Đrăng quản lý.
Ngoài ra Lộc còn khai nhận tự mình trực tiếp cắt hạ 2 cặp lục bình bằng gỗ mít nài khác cũng tại tiểu khu trên, tổng khối lượng là 5,6m3.
Về nội dung clip thể hiện việc vận chuyển gỗ và chung chi cho kiểm lâm phía công an xác định: Vào cuối năm 2013, Vũ Đình Lộc đi khai thác cành, nhánh gỗ hương (nhóm II) tại khu vực Dốc Mái Nhà. Trên đường vận chuyển về có rất đông những người đi khai thác cùng, chở mỗi xe khoảng 150 kg gỗ hương, đường kính 10 cm, dài từ 1m đến 1,2m. Khi nghỉ giải lao giữa đường thì tiến hành quay lại video để … chơi.
Làm việc với những cán bộ kiểm lâm công tác tại địa bàn xã Chư Đrăng trong thời gian từ năm 2012 đến thời điểm kiểm tra không phát hiện việc lâm tặc chung chi tiền cho cán bộ kiểm lâm như nội dung trong clip.
Về phía Hạt kiểm lâm Krông Pa, sau khi tiến hành kiểm tra xác định các dấu vết khai thác đã cũ, không có dấu vết khai thác mới. Trong khi đó, UBND xã Chư Đrăng thừa nhận có tình trạng người dân vào rừng khai thác gỗ nhưng đơn vị này rất khó quản lý.
Công an huyện Krông Pa đánh giá do chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự nên chuyển giao toàn bộ tang vật, hồ sơ cho Hạt kiểm lâm huyện Krông Pa xử lý theo thẩm quyền. (Người Lao Động 29/7) đầu trang(
Sau vụ voi Thoong Ngân bị kẻ xấu vào tận Vườn quốc gia Yok Đôn để cưa trộm ngà, vườn quốc gia đã phải làm mọi cách để bảo vệ voi.
Vụ cưa trộm ngà voi trong Vườn quốc gia Yok Đôn khiến hai chú voi Thoong Ngân và Thoong Khăm - được xem là biểu tượng của voi Bản Đôn - đang đứng trước sự đe dọa về tính mạng vì sở hữu “cặp ngà tuyệt đẹp”.
Hơn một tuần sau vụ cưa trộm ngà, voi Thoong Ngân (thuộc sự quản lý của Vườn quốc gia Yok Đôn, Buôn Đôn, Đắk Lắk) vẫn đang được các bác sĩ, chuyên gia điều trị vết thương trong khuôn viên vườn.
Chiếc ngà bên phải sau khi được các chuyên gia quyết định cắt, chỉ còn một đốt gần 10cm, lệch hẳn so với chiếc ngà trái...
Thấy Thoong Khăm mới chở khách về, con Thoong Ngân tiến tới quấn vòi lẫn ngà đùa giỡn với bạn. Hơn 14 năm trước, voi Thoong Ngân và Thoong Khăm được các gru (nghệ nhân săn voi) đưa về từ khu rừng ở xã Suối Kiết (huyện Tánh Linh, Bình Thuận) để thuần dưỡng.
“Đây là hai con voi có cặp ngà đẹp nhất Tây nguyên, thậm chí nhất Việt Nam. Nếu không tin, cứ đi dọc đất nước bạn tìm xem có voi nhà nào còn ngà không?” - ông Đỗ Quang Tùng, giám đốc Vườn quốc gia Yok Đôn, nói như thế mỗi khi có khách tới vườn tham quan.
Anh Y Mứt (buôn Jang Lành, xã Krông Na, Buôn Đôn) - một nài voi lão luyện, hiện đang nài voi Thoong Khăm - nhớ lại năm 2001 người dân khu vực rừng ở xã Suối Kiết bị một bầy voi rừng về phá hoại, đe dọa tính mạng.
Khoảng 30 người, trong đó các bác sĩ thú y, những quản tượng ở Vườn quốc gia Yok Đôn cùng ba con voi nhà được cử đi để bắt bầy voi này.
Trong cuộc vây bắt ấy, hai voi mẹ đã bị chết, một con chạy lên núi. Sáu con voi còn lại được đưa về Vườn quốc gia Yok Đôn sau khi vượt qua chặng đường hơn 400km bằng xe tải. “Do mất mẹ, hai chú voi con bị lạc đàn và nhiều lần đi phá rẫy của người dân” - anh Y Mứt kể.
Trước tình hình này, giữa năm 2002 sáu nài voi giàu kinh nghiệm nhất ở buôn Jang Lành (xã Krông Na) đã chuyển vào rừng để sống và thuần dưỡng hai con voi này. Hai chú voi con có cặp ngà mới nhú đã được các nài voi đặt tên là Thoong Ngân (con vàng) và Thoong Khăm (con bạc).
“Phải mất ba tháng mười ngày, bọn mình mới thuần dưỡng được Thoong Ngân và Thoong Khăm, dù cả hai vẫn còn tập tính hoang dã của voi rừng” - Y Mứt nhớ lại.
Theo anh Y Mứt, lúc còn nhỏ voi Thoong Ngân ngoan ngoãn, biết nghe lời bao nhiêu thì Thoong Khăm bướng bỉnh và ngang ngạnh bấy nhiêu.
“Mình nhớ có lần đang cưỡi, nó lao cả người xuống sông Sêrêpôk để dìm cho mình chết ngạt. Lúc nó ngoi lên bờ, mình tím tái hết mặt. Mọi người từ ấy bảo Thoong Khăm là rái cá vì nó không sợ nước” - Y Mứt kể.
“Điều đặc biệt, voi Thoong Ngân sở hữu cặp ngà bông trắng và nhẹ, còn con Thoong Khăm có bộ ngà đá dài và cong vút. Vì thế cả hai sớm trở thành mục tiêu tấn công của bọn trộm ngà voi” - anh 
Y Mứt nói.
Những ngày này, nài voi tên Y Vi Xiên hầu như không lúc nào rời mắt khỏi voi Thoong Ngân.
“Vết thương của con Thoong Ngân vẫn chưa lành. Nó chưa khỏe hẳn nên mình lo kẻ xấu sẽ tiếp tục cưa trộm chiếc ngà còn lại” - anh Xiên tâm sự.
Buổi sáng, anh Xiên dẫn voi vào rừng rồi ngồi trên chòi nhìn voi ăn cỏ. Đến 12g, anh Xiên nhờ bạn trông mới yên tâm tranh thủ đi ăn cơm.
Chiều về, anh chặt thêm cây chuối, cây mía để tẩm bổ cho voi rồi đưa voi ra sông tắm và uống nước. Tối đến, anh mắc võng ngủ dưới lán, gần chỗ voi nằm.
Anh Xiên cho biết trước đây khi voi Thoong Ngân chưa bị cắt ngà, mỗi khi đi đâu anh cũng đều tự hào vì được quản lý một con voi cao, to và có cặp ngà đẹp nhất vùng.
“Mình biết kinh nghiệm của các gru là con nào có nước mắt chảy và mồ hôi ở chân thì đó là con voi khỏe nhất” - Y Vi Xiên bật mí. Anh bảo kỷ niệm “nhớ đến tận già” với Thoong Ngân là lần dắt voi đi chở khách.
“Bữa đó, con Thoong Ngân bị mắc cạn quá nửa người trong đầm lầy. Mình tưởng nó chết rồi. Chẳng còn nghĩ đến chuyện chở khách nữa, mình cùng vợ ném một cái cây xuống đầm lầy, đâu ngờ con voi biết dùng chân ghì lên cây gỗ, rồi nó vùng người ra khỏi đầm lầy thoát chết” - chàng quản tượng người Ê Đê kể.
Cũng theo anh Xiên, trước đây việc chăm sóc voi trong Vườn quốc gia Yok Đôn khá nhàn nhã.
“Sáng ra mình đưa voi đi chở khách, tối đến thả voi vào rừng để nó tự tìm thức ăn. Còn bây giờ, cả ngày lẫn đêm, mình chẳng dám rời xa nó nửa bước” - anh Xiên vừa nói vừa vuốt nhẹ trán voi Thoong Ngân.
Cũng như Y Vi Xiên, những nài voi Y Mứt và Y Siêng Niê (buôn Jang Lành) những ngày này cùng thay phiên nhau mắc võng ăn ngủ cùng voi Thoong Ngân và Thoong Khăm để đề phòng sự cố.
“Voi bây giờ là tài sản quốc gia rồi nên bọn mình phải có trách nhiệm. Mỗi ngày có hàng trăm thứ phải lo. Ngày trước lo voi mắc bẫy trong rừng, còn bây giờ lo kẻ xấu rình mò cướp ngà voi” - các nài voi nói.
Ông Đỗ Quang Tùng - giám đốc Vườn quốc gia Yok Đôn - cho biết sau vụ cưa trộm ngà voi Thoong Ngân, vườn quốc gia đã “làm hết cách để bảo vệ voi”.
Theo đó, lực lượng bảo vệ được chia thành nhiều lớp, từ khâu bảo vệ kiểm tra kỹ giấy tờ, một đội phản ứng nhanh gồm bảy cán bộ kiểm lâm khỏe mạnh, có nhiệm vụ tuần tra 24/24 giờ quanh khuôn viên vườn quốc gia, đặc biệt mỗi đêm còn có hai nài voi mắc võng ngủ tại lán để canh voi.
Ngoài ra, nhiều “đường dây nóng” với các chuyên gia bảo vệ động vật hàng đầu VN và thế giới như Thảo cầm viên Sài Gòn 
(TP.HCM), Vườn thú Rotterdam (Hà Lan) và Tổ chức Động vật châu Á... cũng được ông Tùng thiết lập để phòng sự cố.
Ông Tùng tâm sự: “Lực lượng bảo vệ voi trong vườn vẫn luôn trực chiến 24/24 giờ nhưng chúng tôi biết tụi trộm ngà vẫn hằng ngày “canh” anh em, sơ hở là chúng ra tay.
Cũng có lúc tính đề xuất cắt ngà để đảm bảo tính mạng cho voi Thoong Khăm và Thoong Ngân, nhưng cắt ngà đồng nghĩa với cắt đi biểu tượng của voi Tây nguyên".
Sáng 14-7, nài voi Y Vi Xiên đã phát hiện chiếc ngà bên phải của voi Thoong Ngân bị kẻ gian cưa sâu tới 2/3.
Trước đó, con voi 20 tuổi này đã được xích một chân và thả vào Vườn quốc gia Yok Đôn để tự kiếm thức ăn.
Ngày 16-7, ban quản lý Vườn quốc gia Yok Đôn họp bàn với các chuyên gia của Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk, Thảo cầm viên Sài Gòn (TP.HCM), Vườn thú Rotterdam (Hà Lan) và Tổ chức Động vật châu Á đã quyết định cắt chiếc ngà bị thương để chữa trị cho voi Thoong Ngân.
Theo ông Đỗ Quang Tùng, từ năm 2009 đến nay tại Đắk Lắk đã có ít nhất sáu con voi bị sát hại để lấy ngà và các bộ phận khác nhưng chưa tìm ra thủ phạm. Đây cũng là lần đầu tiên xảy ra vụ việc cưa trộm ngà voi ngay trong vườn quốc gia.
Ông Nguyễn Công Chung, phó giám đốc Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk, cho biết hiện nay toàn tỉnh còn 43 cá thể voi nhà, trong đó huyện Buôn Đôn có 24 cá thể và huyện Lắk có 19 cá thể.
Cũng theo ông Chung, sau vụ voi Thoong Ngân bị cưa trộm ngà, Tổ chức Động vật châu Á đã lập tức cử ông Willem Schaftenaar, chuyên gia chăm sóc voi người Hà Lan, đến để hỗ trợ và cùng các bác sĩ thú y của trung tâm tiến hành gây mê, phẫu thuật và điều trị cho voi Thoong Ngân.
“Hiện nay chúng tôi đã và đang cử một số cán bộ đi đào tạo, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ ở các nước có kinh nghiệm bảo tồn voi như Thái Lan, Sri Lanka, Ấn Độ... Đồng thời sẽ đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng trụ sở và cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho việc bảo tồn voi để có điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe và sinh sản voi nhà.
Tới đây chúng tôi sẽ hoàn thiện quy hoạch hai khu chăn thả voi nhà tại huyện Buôn Đôn và huyện Lắk để giúp các chủ voi có nơi chăn thả voi, cải thiện và bổ sung nguồn thức ăn cho voi” - ông Chung nói.
Ông Chung cũng cho hay khi phát hiện hành vi xâm phạm đến loài voi, bạn đọc có thể thông tin đến đường dây nóng của trung tâm: 0903524882. (Tuổi Trẻ 29/7) đầu trang(
UBND tỉnh Đắc Lắc đã giao hàng chục ngàn hécta đất rừng cho TCty 16 để thực hiện dự án kinh tế - quốc phòng. Nhưng sau 12 năm gắn bó với vùng biên giới khắc nghiệt, hàng ngàn hộ dân vẫn không đủ đất để sản xuất, thậm chí thiếu… đất ở.
Chỉ vài phút đến vùng dự án đã thấy ngay nghịch lý: Đất giao cho dân thì xa tít trong rừng, cách xa nơi ở cả chục cây số và không có đường vào, còn sát nhà dân là vườn keo của… doanh nghiệp (DN).
Tiếp xúc với PV Lao Động, anh Hồ Văn Sông - Công an viên thôn Án, xã Ia Lốp - cho biết: “Theo quy định cũ, mỗi hộ trong dự án kinh tế - quốc phòng được cấp 1ha đất sản xuất. Vậy mà tôi lên đây từ năm 2003, đến giờ chưa được cấp miếng đất nào”.
Không có đất thì dân sống bằng gì? Vợ anh Sông là chị Kiều Thị Kim Hồng - Trưởng ban Công tác mặt trận thôn - nói: “Hằng ngày bà con băng rừng, vượt suối qua huyện Chư Prông thuộc tỉnh Gia Lai làm mướn cho các Cty caosu, nhờ vậy mà sống được qua ngày. Nếu không có Gia Lai cứu thì dân bỏ đi hết rồi, tôi là cán bộ tôi không nói sai đâu”.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại xã Ia R’vê. Vợ chồng anh Nguyễn Công Khanh, chị Võ Thị Thắm đến thôn 5, xã Ia R’vê theo dự án từ năm 2004, được cấp 1ha đất tuốt trong rừng sâu. Không sản xuất được nên anh Khanh thường xuyên về quê cũ ở Bến Tre làm thợ đóng tàu, còn chị Thắm đi Bình Phước bóc hạt điều thuê nuôi 4 đứa con, khi hết việc mới về vùng dự án… đoàn tụ gia đình, hết tiền lại tứ tán ra đi.
Nhiều hộ may mắn hơn, được Binh đoàn 16 cấp đất ngay từ những ngày đầu khởi động dự án, định mức cũ là 1ha/hộ. Nhưng phần lớn nhận rồi phải bỏ hoang do đất cấp toàn sỏi đá, manh mún ven sông suối, mưa xuống là nước ngập mênh mông. Anh Lê Văn Thuận - thôn Đoàn, xã Ia Lốp - được cấp 1ha từ năm 2004, nhưng đó là một bãi sỏi, lại nằm giữa rừng sâu cách nhà 7km, không có đường vào nên suốt 11 năm qua anh chưa canh tác lần nào.
Đến năm 2012 - theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, vẫn còn 684 hộ được giao đất nông nghiệp nhưng chưa đủ định mức 1ha/hộ, trong đó 399 hộ không thể sản xuất được do đất cấp quá xấu. Về đất ở, có tới 760 hộ chưa được giao đủ định mức 1.000m2 đất ở nông thôn theo quy định của dự án.
Sau khi thanh tra, Thanh tra Chính phủ thống nhất với UBND tỉnh Đắc Lắc và huyện Ea Súp phương án thu hồi một phần đất của TCty 16 để cấp bổ sung cho dân. Đối với đất sản xuất, những diện tích quá xấu, dân không sản xuất được thì cấp đổi đất tốt.
Mặt khác, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, dân chỉ sản xuất được một vụ không đảm bảo đời sống, do vậy Thanh tra Chính phủ cũng yêu cầu cấp thêm đất, đảm bảo 2ha/hộ. “Chỉ đạo là vậy, nhưng 3 năm nay tôi vẫn chưa được đổi đất, chuyện cấp thêm càng không thấy đâu” - anh Lê Văn Thuận nói.
May mắn hơn anh Thuận, từ đầu năm 2015, một số hộ đã được cấp đổi, cấp mới với diện tích 2ha/hộ. Nhưng các hộ này lại khổ sở theo cách khác. Anh Trương Văn Phúc - thôn Đoàn, xã Ia Lốp - vừa được cấp 2ha nhưng là rừng le chưa khai hoang. “Muốn canh tác được phải đầu tư 30 triệu đồng thuê máy trục gốc cây, cày đất mà vợ chồng tui đang chạy ăn từng bữa” - anh Phúc trình bày.
Còn ông Trần Đăng Khoa - thôn trưởng thôn 11, xã Ia R’vê - dẫn chúng tôi ra vườn keo gần nhà, buồn rầu nói: “Đây là đất sản xuất cấp cho gia đình tôi đầu năm 2015, nhưng vẫn còn vườn keo của Cty Tân Mai, do vậy phải chờ họ khai thác keo tôi mới canh tác được. Không riêng gì tôi, cả thôn có hơn 50 hộ được cấp đất, nhưng toàn cấp vào rừng keo của Cty Tân Mai nên chỉ biết đứng nhìn”.
Ông Lê Văn Giang - Trưởng phòng TNMT huyện Ea Súp - cho biết, năm 2012, thực hiện kết luận của Thanh tra Chính phủ, UBND tỉnh đã thu hồi gần 3.900ha đất của TCty 16 giao cho UBND huyện để cấp cho 2.605 hộ tại các xã Ia R’vê, Ia Lốp. Nhưng diện tích này chưa đủ cấp cho dân, phần lớn lại là đất xấu, manh mún, chủ yếu là bờ lô và sông suối nên dân không nhận.
“Có khoảng 1.800ha được bà con đồng ý, nhưng lại trùng vào vườn keo chưa thu hoạch của TCty 16 và Cty Tân Mai nên chưa giải quyết được” - ông Giang nói. Như vậy, 3 năm sau khi có kết luận của Thanh tra Chính phủ, tồn tại chính của dự án vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, người dân ở giữa rừng mà vẫn không đủ đất sản xuất. (Lao Động 29/7) đầu trang(
Hiện nay công tác quản lý và bảo vệ rừng ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn nhiều bất cập. Tài nguyên rừng trên địa bàn ngày càng bị suy giảm, thu hẹp, đất rừng bị lấn chiếm trái phép ngày càng tăng, gây nhiều bức xúc trong dư luận.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh: Xây dựng chính sách phải đủ mạnh
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về giảm nghèo cũng như bảo vệ, phát triển rừng. Những năm qua, tốc độ giảm nghèo ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đạt trên 5%/năm, cao hơn chỉ tiêu 4%/năm.
Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc vẫn còn rất nhiều khó khăn, có nơi tỷ lệ hộ nghèo còn lên tới 50%. Việc bảo vệ, phát triển rừng là một trong những giải pháp để giảm nghèo bền vững và đặt ra yêu cầu chung khi xây dựng chính sách phải đủ mạnh, không mâu thuẫn với các chính sách khác. Các bộ, ngành tiếp tục rà soát các chính sách hiện hành về bảo vệ và phát triển rừng để thấy những vấn đề bất cập, từ đó phân tích, sửa đổi mang lại hiệu quả thực thi cao. Nên quy định đối tượng thụ hưởng chính sách là tất cả người dân sống trên địa bàn miền núi có tham gia bảo vệ rừng mà không cứ đồng bào dân tộc thiểu số. Mức hỗ trợ cần khuyến khích bà con tận dụng đất rừng để phát triển sản xuất và chăn nuôi với mức hỗ trợ lãi suất là 100%...
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát: Gắn chính sách xóa đói, giảm nghèo với bảo vệ và phát triển rừng
Hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được Chính phủ giao chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào dân tộc giai đoạn từ nay tới năm 2020.
Theo đó, chính sách quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng, lâm sản ngoài gỗ và phát triển sản xuất gắn với xóa đói giảm nghèo với đồng bào dân tộc.
Đối tượng là hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại các xã khó khăn vùng dân tộc miền núi và cộng đồng dân cư thôn có từ 70% hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên có tham gia bảo vệ phát triển rừng.
Các hộ gia đình đó sẽ được Nhà nước hỗ trợ khoán bảo vệ rừng với mức 400.000 đồng/ha/năm (quy định hiện hành là 200.000 đồng) khi nhận khoán bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng chưa giao, chưa cho thuê do UBND cấp xã đang quản lý.
Nhà nước hỗ trợ khoanh nuôi tái sinh rừng theo 2 mức tác động (1 triệu đồng/ha/năm cho thời gian 6 năm đối với khoanh nuôi đơn giản và mức 2 triệu đồng/ha/năm cho 3 năm đầu và 1 triệu đồng/ha cho 3 năm tiếp theo).
Phó ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên Trần Việt Hùng: Đánh giá rõ việc thực hiện Chỉ thị 1685 của Thủ tướng
Sau khi rà soát việc chuyển đổi đất rừng sang trồng cây khác, các tỉnh Tây Nguyên đã thu hồi, đình chỉ 124 dự án, với tổng diện tích trên 9.193 ha do chuyển đổi đất rừng không hiệu quả, trong đó đình chỉ 48 dự án, với diện tích 1.261 ha và thu hồi 76 dự án với diện tích rừng, đất lâm nghiệp 7.932 ha. Đắk Lắk là địa phương có số dự án bị thu hồi, đình chỉ nhiều nhất, với 65 dự án, kế đến là tỉnh Lâm Đồng có 54 dự án chuyển đổi đất rừng không hiệu quả phải thu hồi.
Về việc chuyển rừng, đất lâm nghiệp sang trồng cao su: Trong thời gian qua, các tỉnh Tây Nguyên chưa chú ý khai thác loại quỹ đất không có rừng, đất nông nghiệp và loại đất kém hiệu quả, mà chủ yếu chuyển từ đất lâm nghiệp có rừng (chiếm 79%). Mặt khác, một số chủ dự án chưa thực hiện tốt công tác đền bù gây nên tình trạng tranh chấp, khiếu kiện.
Việc vi phạm quy định về quản lý đất đai, quy hoạch, đánh giá tác động môi trường, trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lâm nghiệp cũng đã xảy ra. Một số chủ đầu tư lợi dụng việc trồng cao su ở các địa bàn vùng Tây Nguyên để xâm lấn đất rừng, khai thác gỗ, xây dựng lò đốt than trái phép ngay trong vùng dự án gây tình trạng lộn xộn, phức tạp.
Các tỉnh Tây Nguyên kiểm tra, rà soát, thống kê diện tích rừng bị phá, lấn chiếm trái phép, sử dụng sai mục đích, để kiên quyết cưỡng chế, giải tỏa, thu hồi, có kế hoạch phục hồi và trồng lại rừng. Kiến nghị Chính phủ sớm đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị số 1685 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, trên cơ sở đó cho phép các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục triển khai các dự án phát triển nông, lâm nghiệp đang tạm dừng trước ngày 30/4/2013 đến nay, góp phần khai thác tốt tài nguyên đất rừng có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông Nguyễn Đức Luyện: Diện tích rừng suy giảm có lỗi của cán bộ
Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Nhà nước về kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011- 2020 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức mới đây tại thành phố Buôn Ma Thuột, ông Nguyễn Đức Luyện cho rằng: Mất rừng, diện tích rừng suy giảm là có cả lỗi của cán bộ. Cán bộ có nhận đất, nhận rừng, có buôn bán đất đai, có chỉ đạo bật đèn xanh cho phá rừng… Do vậy, hiện nay, Đắk Nông chỉ còn 334.000 ha rừng, giảm so với diện tích rừng công bố hàng năm khoảng 29.500 ha và trữ lượng gỗ chỉ còn 29 triệu mét khối, độ che phủ rừng chỉ còn 36%. Như vậy, Đắk Nông đang đối mặt hai cái khó là nguồn nước và sa mạc hóa.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Y Dhăm Ênuôl: Di dân ngoài kế hoạch ảnh hưởng đến diện tích rừng
Trong 8 năm qua, rừng ở Đắk Lắk giảm khoảng 52.000 ha, tương ứng với 4% độ che phủ. Một trong những nguyên nhân làm mất rừng là do áp lực từ di dân đến ngoài kế hoạch. Đồng bào tự ý lén lút vào sâu trong rừng phá rừng trái phép tự lập khu dân cư, khu sản xuất.
Thậm chí còn tranh giành đất của đồng bào tại chỗ, gây nên nhiều hệ lụy không những trong công tác quản lý bảo vệ rừng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác quản lý nhân hộ khẩu, an ninh trật tự ở nông thôn, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa…
Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra, huyện Mang Yang (Gia Lai) Nguyễn Văn Chín:Phòng chống cháy rừng với phương châm 4 tại chỗ
Khu rừng phòng hộ Hà Ra có tổng diện tích hơn 13.000 ha; trong đó, có khoảng 10.000 ha là rừng tự nhiên và diện tích còn lại là rừng trồng chủ yếu loại giống thông 3 lá. Lâm phần nằm trên địa bàn 2 xã là Hà Ra và Đăk Taley với trên 10.000 dân sinh sống; trong đó có gần 60% số dân là người dân tộc Bahnar sống xen kẽ với những cánh rừng.
Do trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, sản xuất nông nghiệp còn mang tính độc canh và hiệu quả thấp nên đời sống của bà con còn nhiều khó khăn. Về địa hình cũng khá phức tạp, toàn bộ diện tích rừng ở Hà Ra đều nằm ở độ cao trung bình từ 1.000 - 1.200 m so với mặt biển, có những cánh rừng trồng nằm trên đỉnh núi Kôn Bôria cao đến 1.500 m.
Trong khi đó, thời tiết khắc nghiệt, toàn bộ diện tích rừng đều nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cao nguyên; trong năm chia thành 2 mùa rõ rệt có 6 tháng nắng và 6 tháng mưa.  Do đặc thù của vùng rừng và những khó khăn về dân sinh trên địa bàn, Ban Quản lý đã xây dựng phương án quản lý, bảo vệ rừng phù hợp với điều kiện thực tế và đã phát huy hiệu quả. Đặc biệt, công tác phòng chống cháy rừng trong mùa khô do làm tốt đã kịp thời phát hiện và huy động lực lượng dập lửa rừng có kết quả, không để cháy lây lan ra diện rộng ảnh hưởng đến tài nguyên rừng.
Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra đã phân vùng và xác định khoanh các tiểu khu rừng dễ cháy với tổng diện tích gần 3.000 ha, chủ yếu là rừng trồng, tập trung đầu tư các hạng mục phòng cháy theo mức vốn đầu tư của nhà nước hàng năm. Đồng thời, bố trí các tổ tuần tra, canh gác với lực lượng khoảng 10 người thường trực 24/24 giờ tại các khu rừng trọng điểm dễ cháy để ngăn chặn lửa rừng tại chỗ.
Nếu có phát hiện lửa rừng thì kịp thời thực hiện phương án báo cháy để Ban Quản lý rừng huy động lực lượng đến ứng cứu theo phương châm "4 tại chỗ". Lực lượng tham gia chữa cháy rừng khá đông và sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có lệnh. Bên cạnh lực lượng của đơn vị có 23 người, Ban quản lý còn huy động thêm khoảng 350 người gồm lực lượng hộ nhận khoán và nhân dân ở 2 xã Hà Ra và Đăk Taley.
Phương tiện và công cụ chữa cháy tuy còn thủ công, song Ban quản lý cũng chuẩn bị khá tốt và sẵn sàng "tác chiến" phù hợp với địa hình, bao gồm hơn 200 chiếc xe máy cá nhân, 230 cái rựa phát, hàng chục bàn dập lửa... (Tin Tức 30/7) đầu trang(
Vì nhiều nguyên nhân, tài nguyên rừng ở Tây Nguyên đang ngày càng suy giảm nghiêm trọng.
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh vùng Tây Nguyên như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng luôn xác định công tác bảo vệ và phát triển rừng có ý nghĩa quan trọng. Nó vừa đảm bảo lợi ích tổng hợp, kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh, vừa góp phần vào phát triển bền vững khu vực Tây Nguyên.
Hiện nay, ở khu vực Tây Nguyên có 7 mô hình quản lý rừng bền vững, trong đó các dự án quốc tế hỗ trợ 3 mô hình, còn lại là các địa phương chủ động triển khai.
Công tác phòng cháy chữa cháy rừng được quan tâm chỉ đạo, hoàn thiện các phương án quản lý ở những vùng rừng trọng điểm. Duy trì hoạt động thông tin cảnh báo cháy rừng trên các phương tiện thông tin đại chúng để các chủ rừng biết và có biện pháp chủ động phòng ngừa.
Lực lượng kiểm lâm cơ bản đã tổ chức sắp xếp lại hợp lý, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ mới trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cho biết, chủ trương của Thủ tướng Chính phủ cho phát triển thêm 100.000 ha cao su trên địa bàn Tây Nguyên là phù hợp, được các địa phương, doanh nghiệp đồng tình và quyết tâm triển khai.
Sau 5 năm thực hiện, các tỉnh Tây Nguyên đã trồng mới được trên 72.000 ha, tuy chưa đạt kế hoạch nhưng là kết quả đáng ghi nhận. Gắn liền với việc phát triển cây cao su, các dự án đã chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như đường giao thông, đường điện, trạm y tế, trường học, giếng nước sinh hoạt, khu dân cư mới…, với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng đã tạo việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc, góp phần ổn định xã hội, đảm bảo an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.
Tuy nhiên, hiện nay, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn nhiều bất cập làm cho tài nguyên rừng ngày càng suy giảm, diện tích rừng ngày càng thu hẹp. Theo Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, hiện nay các tỉnh Tây Nguyên sau khi kiểm kê rừng chỉ còn 2.567.116 ha; trong đó, rừng tự nhiên là 2.253.809 ha, rừng trồng là 313.307 ha, với tổng trữ lượng gỗ chỉ còn trên 302 triệu m3, giảm 358.797 ha rừng so với kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng của năm 2008 (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất).
Do diện tích rừng giảm mạnh nên tỷ lệ che phủ rừng của các tỉnh Tây Nguyên giảm xuống chỉ còn 45,8% (đây là các loại cây công nghiệp) còn thực tế rừng có trữ lượng đạt độ che phủ chỉ còn 32,4%.
Một trong những nguyên nhân làm diện tích rừng tự nhiên giảm nghiêm trọng là các tỉnh Tây Nguyên nôn nóng phát triển kinh tế, xã hội. Các dự án chuyển đổi rừng, nhất là các dự án chuyển đổi rừng sang trồng cao su triển khai một cách ồ ạt không tuân thủ theo đúng các quy định của nhà nước nên đã làm giảm 128.523 ha rừng tự nhiên, chiếm tới 35,8% tổng diện tích rừng bị giảm.
Các địa phương vùng Tây Nguyên triển khai các dự án chưa bảo đảm theo đúng quy định của Nhà nước, thể hiện ở các vấn đề về quy hoạch, đánh giá tác động môi trường, trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lâm nghiệp.
Thậm chí, ở một số nơi còn “lách luật” giao dự án (các dự án thường được chia nhỏ dưới 1.000 ha cho dù trong cùng vùng chuyển đổi có quy mô hàng ngàn ha), hoặc tự giao cho một số doanh nghiệp khảo sát, lập dự án chuyển đổi dẫn đến tạo kẽ hở trong quản lý.
Một số địa phương còn buông lỏng quản lý, chưa tích cực chỉ đạo, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện đã để xảy ra một số vi phạm trong quá trình chuyển đổi rừng nghèo sang trồng cao su. Qua rà soát, kiểm tra, các địa phương vùng Tây Nguyên đã thu hồi 76 dự án, với diện tích rừng, đất lâm nghiệp 7.932 ha, đình chỉ 48 dự án với diện tích 1.261 ha…
Theo quy định của pháp luật, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác phải trồng rừng thay thế, nhưng thực tế, hầu hết khi phê duyệt cũng như thực hiện các dự án, các địa phương cũng như các nhà đầu tư cố tình “quên” hoặc chậm triển khai quy định này.
Thực tế, qua rà soát các tỉnh Tây Nguyên có trên 15.792 ha rừng chuyển sang làm thủy điện và các dự án khác, trong đó có 5.755 ha rừng chuyển sang làm thủy điện, thế nhưng, hiện nay các chủ đầu tư, các địa phương mới trồng bù lại 892 ha rừng, còn 14.896 ha vẫn chưa được trồng lại rừng.
Đồng bào các dân tộc ở các địa phương vùng Tây Nguyên cũng như đồng bào di cư đến ngoài kế hoạch đã phá, lấn chiếm trên 88.603 ha rừng trái phép để lấy đất canh tác, sản xuất nông nghiệp.
Mặt khác, ở các địa phương vùng Tây Nguyên vẫn còn diễn ra tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái pháp luật chưa có biện pháp ngăn chặn, xử lý triệt để, việc giải tỏa, thu hồi diện tích rừng, đất lâm nghiệp bị phá, bị lấn chiếm trái phép để phục hồi lại rừng gặp nhiều khó khăn, phức tạp, chưa xử lý có hiệu quả các đầu nậu thuê người phá rừng cũng như các đối tượng mua bán, tích tụ đất đai trái pháp luật.
Sáu tháng đầu năm 2015, toàn vùng Tây Nguyên đã xảy ra 3.641 vụ vi phạm lâm luật, trong đó có 93 vụ lấn chiếm đất lâm nghiệp, phá rừng trái phép lấy đất sản xuất. Trọng điểm khai thác gỗ trái pháp luật ở Tây Nguyên tập trung chủ yếu tại các khu vực còn nhiều rừng tự nhiên, khu vực biên giới, khu vực giáp ranh, các khu bảo tồn thiên nhiên, rừng đặc dụng, Vườn quốc gia Yok Đôn, Chư Yang Sin (Đắk Lắk), Khu Bảo tồn thiên nhiên Đắk Uy (Gia Lai)…
Suy giảm tài nguyên rừng đã góp phần làm tình trạng biến đổi khí hậu vùng Tây Nguyên ngày càng nghiêm trọng hơn như mùa khô đến sớm, kéo dài, nắng nóng khốc liệt hơn, mực nước mặt, ngầm suy giảm mạnh… tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn.
Ngay mùa khô năm 2015 đã làm cho các tỉnh Tây Nguyên thiếu nước tưới hàng trăm ngàn ha cây trồng, chủ yếu là cây cà phê, lúa đông và nước sinh hoạt cho người dân, thiệt hại lên đến cả hàng ngàn tỷ đồng.
Riêng tại tỉnh Đắk Lắk, mùa khô vừa qua đã làm cho trên 61.446 ha cây trồng bị khô hạn, chủ yếu là cà phê và lúa nước vụ đông xuân bị khô cháy, thiếu nước tưới, gây thiệt hại cho bà con các dân tộc gần 2.009 tỷ đồng và hàng vạn hộ dân thiếu nước sinh hoạt… (Tin Tức 30/7) đầu trang(
Nhằm giới thiệu những địa điểm có đa dạng sinh học đặc trưng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa phục vụ cộng đồng và du khách, Sở Tài nguyên và Môi trường Khánh Hòa vừa ra mắt bản đồ đu lịch thiên nhiên Khánh Hòa.
Sở Tài nguyên và Môi trường Khánh Hòa cho biết, những thông tin trong bản đồ được sử dụng cho các mục đích tham quan, du lịch, giáo dục cộng đồng, nghiên cứu khoa học, làm cơ sở để các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các sản phẩm du lịch, thu hút du khách.
Không chỉ khẳng định tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái trên địa bàn tỉnh, bản đồ du lịch thiên nhiên còn có ý nghĩa trong việc bảo tồn, bảo vệ các loài động, thực vật quý hiếm.
Theo đó, hàng loạt địa điểm đa dạng sinh học của tỉnh xuất hiện trên bản đồ như: vùng núi Sơn Thái - Hòn Giao (Khánh Vĩnh); bán đảo Hòn Hèo (Ninh Hòa); thung lũng Ô Kha (Khánh Sơn); khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà; vịnh Nha Trang; vịnh Vân Phong; vịnh Bình Cang - Nha Phu...
Với sự hỗ trợ của các chuyên gia từ Viện Sinh thái học miền Nam, Viện Hải dương học... toàn bộ ảnh chụp trên bản đồ đều do các nhà khoa học, quản lý sưu tầm, nghiên cứu trong quá trình khảo sát thực địa.
Ngoài ra, bản đồ còn cung cấp các thông tin về chức năng, nhiệm vụ nổi bật của các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đa dạng sinh học trên địa bàn tỉnh như: Viện Hải dương học Nha Trang; Viện Công nghệ sinh học và môi trường, Trường Đại học Nha Trang; khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà; khu bảo tồn biển Rạn Trào; khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang...
Hiện bản đồ du lịch thiên nhiên này có cả 2 phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt và được Sở Tài nguyên và Môi trường Khánh Hòa - đơn vị chủ trì quảng bá rộng rãi trên trang thông tin điện tử của sở. (Tuổi Trẻ 30/7) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 17/2015/QĐ-TTG về ban hành Quy chế quản lý rừng phòng hộ. Theo đó, việc phân cấp quản lý nhà nước đối với rừng phòng hộ được quy định như sau:
Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng phòng hộ trong phạm vi cả nước trên các lĩnh vực sau: Chỉ đạo lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng, phát triển rừng và sử dụng rừng phòng hộ; Xây dựng chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện hệ thống pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng phòng hộ; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết các tranh chấp và xử lý các vi phạm trong việc chấp hành pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, phát triển và sử dụng rừng phòng hộ theo quy định của pháp luật; Chỉ đạo và hướng dẫn việc thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và lập hồ sơ quản lý rừng phòng hộ; Chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Quản lý nhà nước về rừng phòng hộ trên địa bàn cấp tỉnh về các lĩnh vực sau: Tổ chức việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ cấp tỉnh, chỉ đạo, hướng dẫn UBND cấp huyện tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng phòng hộ của địa phương; Ban hành các văn bản theo thẩm quyền để chỉ đạo UBND cấp huyện, xã, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn tỉnh thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ về quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng phòng hộ; Thành lập, sát nhập, chia tách và giải thể các Ban quản lý khu rừng phòng hộ theo quy định của pháp luật; Tổ chức việc phân loại rừng, xác định ranh giới, xác lập các khu rừng phòng hộ của địa phương theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ, công nhận quyền sử dụng rừng phòng hộ theo quy định của pháp luật; việc lập và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất rừng phòng hộ trên địa bàn; Tổ chức phòng cháy, chữa cháy rừng, phòng trừ sâu bệnh hại đối với diện tích rừng phòng hộ ở địa phương; tổ chức mạng lưới bảo vệ rừng phòng hộ, huy động các lực lượng phối hợp với lực lượng kiểm lâm ngăn chặn các hành vi hủy hoại rừng phòng hộ trên phạm vi toàn tỉnh; Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giải quyết các tranh chấp và xử lý các vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, phát triển và sử dụng rừng phòng hộ theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:
Quản lý nhà nước về rừng phòng hộ trên địa bàn về các lĩnh vực sau: Lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ của cấp huyện trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ đã được phê duyệt; Ban hành văn bản theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng và phát triển rừng phòng hộ ở địa phương; Chỉ đạo UBND xã, phường, thị trấn lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; phương án giao rừng, cho thuê rừng phòng hộ, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định, hợp đồng về giao rừng, cho thuê rừng, khoán rừng phòng hộ cho tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn; Tổ chức thực hiện xác định ranh giới các khu rừng phòng hộ trong phạm vi địa phương; Tổ chức thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng phòng hộ trong phạm vi của địa phương; Tổ chức việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng phòng hộ đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn; Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn; xử phạt vi phạm pháp luật theo thẩm quyền.
Ủy ban nhân dân cấp xã:
Quản lý rừng phòng hộ trên địa bàn về các lĩnh vực sau: Chỉ đạo, đôn đốc và hướng dẫn hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ trên địa bàn; Lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ của địa phương, phương án giao rừng, cho thuê rừng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện; Thực hiện việc bàn giao rừng phòng hộ tại thực địa cho người được giao, thuê hoặc khoán rừng phòng hộ trên địa bàn và xác nhận ranh giới rừng phòng hộ của các chủ rừng phòng hộ trên thực địa; Hướng dẫn cộng đồng dân cư thôn xây dựng và thực hiện quy ước quản lý, bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ; tổ chức và huy động lực lượng quần chúng trên địa bàn phối hợp với các lực lượng kiểm lâm, công an, quân đội trên địa bàn phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi xâm hại đến rừng phòng hộ; Kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo thẩm quyền; Trực tiếp tổ chức quản lý những diện tích rừng phòng hộ chưa được giao, cho thuê trên địa bàn xã; trình UBND cấp huyện đưa vào sử dụng đối với những diện tích rừng phòng hộ chưa được Nhà nước giao, cho thuê.
Chủ tịch UBND các cấp trong phạm vi trách nhiệm của mình, nếu để xảy ra tình trạng vi phạm Quy chế về quản lý, quy hoạch, đầu tư sai mục đích sử dụng rừng phòng hộ, để xảy ra tình trạng phá rừng trái pháp luật, cháy rừng gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn mà không có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. (Báo Bình Phước 29/7) đầu trang(
Theo Chi cục Lâm nghiệp thuộc Sở NN&PTNT, trong vụ trồng rừng Thu Đông năm nay, toàn tỉnh sẽ trồng mới 1.034ha rừng phòng hộ. Trong đó, trồng 265 ha từ nguồn kinh phí của Dự án Bảo vệ và phát triển rừng; 750 ha từ Dự án Phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ trồng 750 ha; trồng rừng ngập mặn ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu 19 ha.
Đến nay, các đơn vị, địa phương đã tiến hành khảo sát thực địa, thiết kế kỹ thuật đạt 100% diện tích đề ra và tiến hành gieo ươm 2 triệu cây giống các loại, gồm sao đen, phi lao, thông caribe, bần trắng… (Báo Bình Định 29/7) đầu trang(
Cây xanh được thay thế, trồng mới tại tuyến đường phố Nguyễn Chí Thanh sẽ là cây lát hoa thân thẳng, tán rộng hình cầu, lá non có màu đỏ.
Sáng 30/7, Sở Xây dựng Hà Nội họp báo về việc thay thế, trồng bổ sung cây xanh bóng mát trên vỉa hè đường Nguyễn Chí Thanh.
Phó giám đốc Sở Võ Nguyên Phong cho biết, ngày 25/6 Sở đã phối hợp với các Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật HN, công ty TNHH MTV Công viên cây xanh tổ chức tọa đàm xin ý kiến về việc trồng cây xanh đường phố, trong đó có đề xuất loại cây sẽ trồng lại trên đường Nguyễn Chí Thanh.
Sau khi đi kiểm tra thực tế một số loại cây được trồng trên địa bàn Hà Nội, phân tích đặc điểm thổ nhưỡng và thời tiết, các nhà khoa học và chuyên gia đã nêu các tiêu chí như bóng mát, cảnh quan, bảo vệ môi trường... 5 loại cây được đề xuất gồm: cây sấu, dầu rái, sao đen, hương vườn và lát hoa.
Ngày 24/7, Sở Xây dựng đã báo cáo UBND TP và được chấp thuận phương án thay thế, trồng mới cây xanh phố Nguyễn Chí Thanh chủ đạo là cây lát hoa, với tiêu chuẩn đường kính thân 15-18 cm, chiều cao 6-8m.
Cây lát hoa mọc nhanh, tán rộng, dày, gỗ tốt, ít bị mối mọt và chịu được mưa bão.
Ông Phong cũng cho hay, phương án trồng cây sẽ theo hồ sơ thiết kế do Viện Kiến trúc và cảnh quan nội thất - Trường Đại học Lâm nghiệp lập, được Ban duy tu các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị nghiệm thu theo quy định.
Việc tổ chức thi công dự kiến sẽ bắt đầu vào ngày 1/8. Theo đó sẽ thay thế, trồng mới 247 cây và phải đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, theo nguyên tắc làm đâu gọn đấy, không ảnh hưởng đến an toàn giao thông và đời sống của người dân trong khu vực.
Chi phí trồng cây trên đường Nguyễn Chí Thanh sẽ do Công đoàn Công an TP đóng góp.
Công ty CP Tư vấn đầu tư xây dựng Hà Thành có trách nhiệm trồng cây theo đúng giấy phép được Sở Xây dựng cấp, phối hợp cùng công ty Công viên cây xanh HN dịch chuyển các cây sống về vườn ươm, đánh chuyển thu hồi các cây chết. Trồng, chăm sóc, duy trì cho đến khi cây sống và phát triển ổn định.
Ban duy tu các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị chịu trách nhiệm giám sát việc trồng cây. Chủ trì cùng Viện Kiến trúc và cảnh quan nội thất - Trường Đại học Lâm nghiệp, công ty công viên cây xanh HN kiểm tra nguồn cây, đảm bảo cây trồng phải theo đúng tiêu chuẩn, sinh trưởng tốt. (Vietnamnet 30/7) đầu trang(
Bắc Hà là địa phương đầu tiên của tỉnh Lào Cai triển khai Dự án trồng rừng thay thế nương rẫy, bước đầu đã mang lại nhiều kết quả khả quan.
Hồ hởi dẫn chúng tôi leo bộ lên giữa vạt rừng của gia đình, anh Vàng Seo Măng, dân tộc Mông ở thôn Dì Thàng 2, xã Thải Giàng Phố, huyện Bắc Hà chỉ vào những thân cây sa mộc thẳng tắp đã 5 năm tuổi khoe nhà anh trồng được cả nghìn cây như thế.
Theo anh Măng, những cây này tầm mươi mười lăm năm nữa là có thể bắt đầu cho thu hoạch, dân vùng cao chuộng cây sa mộc lắm, nếu dùng làm cột, làm xà thì không chê vào đâu được. Dù biết rằng đợi đến ngày ấy vẫn còn xa, nhưng anh vẫn luôn tin tưởng mình sẽ thành công, vì anh cho rằng trồng rừng sẽ mang lại nhiều lợi ích, lại được Nhà nước hỗ trợ nên rất yên tâm.
Chỉ 5 năm về trước, chính tại các cánh rừng này của huyện vùng cao Bắc Hà là những nương đồi khô cằn, trơ trụi. Trồng lúa không thành, trồng ngô cũng chẳng ăn thua, vì đất đồi vừa dốc vừa cằn. Từ khi áp dụng triển khai dự án trồng rừng thay thế nương rẫy thì kết quả hoàn toàn khác.
Điển hình như cây sa mộc được nhiều hộ dân lựa chọn trồng. Trên đất đồi càng dốc, càng cằn cỗi thì cây lại càng lên xanh, lên khỏe. Thêm vào đó, những hộ tham gia dự án hàng tháng đều được Nhà nước hỗ trợ gạo ăn nên đều yên tâm chuyển hẳn từ làm nương rẫy sang trồng rừng.
Chị Phùng Thị Nga, ở thôn Chỉu Cái, xã Na Hối, huyện Bắc Hà nói đất ở đây rất xấu, năng suất lúa cũng không được bao nhiêu. Vì vậy, chị Nga tập trung trồng cây để thu hoạch về sau, lấy màu xanh cho thiên nhiên, đồng thời tăng thu nhập cho gia đình.
Là địa phương đầu tiên của tỉnh Lào Cai triển khai dự án trồng rừng thay thế nương rẫy, từ năm 2010 đến nay, Bắc Hà đã vận động được hơn 200 hộ dân tham gia trồng gần 125 héc-ta rừng sa mộc và rừng mỡ. . Qua đánh giá, tỉ lệ cây sống của các cánh rừng này đều rất cao, đạt trên 85%. Hiện nay, số diện tích rừng trên đều đã qua giai đoạn chăm sóc, bước sang giai đoạn bảo vệ, chỉ 2 năm nữa là giao toàn bộ cho các hộ dân quản lý.
Ông Lò Văn Ngoan, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Bắc Hà cho biết: “Bước đầu cũng gặp rất nhiều khó khăn do phong tục tập quán của người dân vùng trên này còn hạn chế, việc tuyên truyền vận động bà con tham gia tập quán rất khó khăn. Việc xác định loài cây trồng trên vùng cao Bắc Hà cũng khó. Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện thì bà con nhân dân rất đồng tình vì hiệu quả đem lại rất rõ ràng, kết quả ban đầu có thể nói là khả quan.”
Ông Ngoan cho biết thêm, hơn 200 hộ dân của huyện Bắc Hà tham gia dự án cũng đã nhận đầy đủ gần 300 tấn gạo hỗ trợ của Nhà nước trong 5 năm qua. Tuy nhiên, điều đáng lo nhất là 2 năm nữa, sau khi giao trả rừng cho người dân tự quản thì Nhà nước cũng sẽ ngừng việc hỗ trợ gạo.
Trong khi cây rừng không phải loại nào cũng có thể cho thu hoạch ngay được, nhất là đối với những cây lâu năm như cây sa mộc. Vì vậy, rất cần Nhà nước có những hỗ trợ thích hợp cho đồng bào vùng cao, ông Ngoan nói. (Đài Tiếng Nói Việt Nam 30/7) đầu trang(
Cây keo lai rất dễ trồng, nhưng hiệu quả mang lại rất cao. Một chu kỳ trồng keo lai chỉ mất 5 năm, nhưng trữ lượng đạt khoảng 300m3/ha. Gỗ của keo lai thẳng, màu vàng có vân, có giác lõi phân biệt, gỗ có tác dụng nhiều mặt.
Theo Sở NNPTNT Cà Mau: Trước năm 2009, đất rừng ở U Minh Hạ chỉ trồng loại cây tràm truyền thống, năng suất thấp, trong khi chu kỳ thu hoạch quá dài (từ 15 - 20 năm, sản lượng thu được chỉ khoảng 80 - 100m3/ha). Thu nhập người dân trồng rừng thấp, cuộc sống bấp bênh.
Từ năm 2009, Cà Mau đề xuất với Bộ NNPTNT cho phép đưa cây keo lai vào danh sách cây trồng chính của ngành lâm nghiệp ở khu vực ĐBSCL nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng, và được Bộ NNPTNT chấp nhận, từ đó đến nay địa phương này đã mạnh dạng đầu tư phát triển diện tích trồng keo lai.
Ông Trần Trung Hiếu - Giám đốc Công ty TNHH một thành viên U Minh Hạ cho biết: “Keo lai là tên gọi của giống lai tự nhiên giữa keo lai tượng (Acacia mangium) và keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Đây là giống cây ưu sáng, mọc nhanh, cành lá dài, tán lá rậm thường xanh, hệ rễ phát triển mạnh… rất thích hợp khi sinh trưởng trên vùng đất rừng ở Cà Mau”.
Người trồng keo lai ở U Minh Hạ cho biết: Cây keo lai rất dễ trồng, nhưng hiệu quả mang lại rất cao. “Một chu kỳ trồng keo lai chỉ mất 5 năm, nhưng trữ lượng đạt khoảng 300m3/ha. Gỗ của keo lai thẳng, màu vàng có vân, có giác lõi phân biệt, gỗ có tác dụng nhiều mặt. Kích thước nhỏ làm nguyên liện sản xuất giấy, còn kích thước lớn sử dụng trong xây dựng… đang được thị trường ưa chuộng” - ông Nguyễn Văn Lâm - hộ dân trồng keo lai ở U Minh cho biết.
Để trồng keo lai trước tiên người trồng phải làm tốt khâu mặt bằng như: Phóng tuyến, chia liếp (16m phóng một tuyến đường, đào kênh 4,5m đổ lên mặt bằng 11,5m). Riêng về giải pháp đào đất kê liếp phải theo quy trình, với quy cách: Mặt kênh 4,5m, đáy kênh 4,0m, đào sâu 1,8m, mặt liếp 11,5m (tính cả lưu không), chiều cao liếp 0,73m…
Ông Trần Văn Thức cho biết: Để cây keo lai đạt, người trồng phải lưu ý đến mật độ trồng trên liếp (2.500 cây/ha) tương ứng cây cách cây 2m, hàng cách hàng 2m. Trong đó khâu chuẩn bị cây giống cũng là yếu tố quan trọng: Cây keo lai giống phải được ươm trong vỏ bầu làm bằng chất dẻo Polyetylen có kích thước 7x12cm. Cây giống được chọn phải có thân thẳng có 1 ngọn chính (tuổi đời từ 3 -  4 tháng), khỏe mạnh và không bị sâu bệnh hoặc tổn thương cơ giới. Quy cách cây (chiều cao từ 25 - 30cm, đường kính cổ rễ là 0,3 - 0,5cm).
Theo các chuyên gia ngành lâm nghiệp: Cây keo lai giống trước khi xuất vườn 1 tuần phải được cắt bớt lá, đảo bầu xén rễ kết hợp loại bỏ cây yếu kém để đảm bảo tỷ lệ sống và chất lượng rừng trồng.
Hố trồng rộng 20x20x20cm, khi đưa cây keo giống xuống hố trồng thì rạch vỏ bầu, đặt bầu cây giống keo lai vào đúng vị trí tâm hố ngay ngắn và cây con thẳng đứng. Sau đó dùng đất tơi nhỏ lấp cao hơn bầu hom 2 - 3cm và chèn vừa đủ chặt...
Các khâu còn lại là trồng dằm và chăm sóc cây cho đến ngày thu hoạch.  (Dân Việt 30/7) đầu trang(
Khai thác điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp ở vùng đất núi, nhiều bà con đang trồng thử nghiệm nhiều loại cây có giá trị dược liệu...
Nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, tiến tới SX cây dược liệu theo hướng bền vững, UBND các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên (An Giang) đã ký kết hợp tác xây dựng vùng nguyên liệu và tiêu thụ cây dược liệu với Cty TNHH Dược phẩm An Thiên (TP.HCM).
Dự án thực hiện qua 3 giai đoạn: Cuối năm 2014 ươm giống; Đầu năm 2015 triển khai thí điểm và trồng thực nghiệm (dự kiến khoảng 250 ha) các loài cây bản địa phù hợp với thổ nhưỡng địa phương như kim tiền thảo, gừng, hoài sơn, sen, tràm, rau đắng biển, xuyên tâm liên… Đầu năm 2016 sẽ nhân rộng với quy mô lớn theo dự án.
Cty sẽ xây dựng nhà máy sơ chế tại địa phương đạt chuẩn GMP nhằm cung cấp nguồn dược liệu tốt cho thị trường, góp phần giải quyết lao động và nâng cao đời sống người dân trong vùng dự án.
Ông Huỳnh Văn Xem ở chân núi Cấm, ấp Tà Lọt, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên trồng 6.000 m2 nghệ xà cừ, cuối vụ thu được 10,5 tấn củ, lãi trên 60 triệu đồng.
Hiện nhiều hộ ở đây trồng nghệ Thái, năng suất mỗi công được 3 tấn, thu nhập khoảng 20 triệu đồng. Một số hộ chuyên trồng ngải xanh cung cấp cho các cơ sở hốt thuốc Nam và các Cty dược, lợi nhuận cũng đáng kể. Điển hình như ông Nguyễn Văn Đạt, ở khu vực núi Dài trồng 4 công, mỗi vụ thu nhập trên 15 triệu đồng…
Khai thác điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp ở vùng đất núi, nhiều bà con đang trồng thử nghiệm nhiều loại cây có giá trị dược liệu như gấc, xuyên tâm liên, đinh lăng, ngãi xanh, nghệ trắng, dây mối, củ huyền…
Ông Lê Công Tảo, thành viên tổ hợp tác bảo vệ rừng tại núi Dài cho biết, đã nhận 1.600 cây sa nhân giống trồng trên diện tích 8.000 m2, hiện cây phát triển tốt. Theo ông, sa nhân rất thích hợp với thổ nhưỡng vùng đồi núi; nhất là trồng dưới tán xoài, trầm, bơ, sao… Dưới gốc sao còn trồng được dây tiêu, tạo cho vườn rừng trở thành ba tầng sinh thái.
Bà Mai Thị Ánh Tuyết, GĐ Sở Công thương An Giang cho biết, việc hợp tác xây dựng vùng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cây dược liệu tại Tri Tôn và Tịnh Biên có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm cây dược liệu của tỉnh, đồng thời gắn kết DN với vùng  nguyên liệu cây dược liệu, giúp tiêu thụ sản phẩm ổn định, nâng cao đời sống của người dân vùng Bảy Núi.
Ông Trần Anh Thư, GĐ Sở NN-PTNT An Giang cho biết, vùng Bảy Núi được thiên nhiên ưu đãi về hệ thực vật, động vật phong phú và đa dạng với nhiều loài cây dược liệu quý.
An Giang có 6 loài nằm trong danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam gồm: Kim Giao (Nageia wallichiana (Presl) O. Kuntze); Ba gạc Châu Đốc (Raucolfia chaudocensis Pierr.ex Pitard); Trầm hương (Aquilaria crassna Pierr.ex Lecomte); Ba gạc lá nhỏ (Raucolfia.Hook.f); Ngũ gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus(L.) Voss); Bình vôi lá nhỏ (Stepphania pierrei Gagnep).
Danh mục thực vật và cây dược liệu ghi nhận, vùng đồi núi An Giang có 815 loài thực vật rừng bậc cao thuộc 84 bộ. Dược liệu vùng Bảy Núi có khoảng 680 loài, trong đó nhiều cây dược liệu bản địa quý như trầm hương, Đinh lăng, hương nhu trắng, nghệ vàng, nghệ xà cừ, ba kích, gừng, trinh nữ hoàng cung, hà thủ ô đỏ, kim tiền thảo, huyết rồng, thần xạ hương, ích mẫu, sâm hồng… (Nông Nghiệp Việt Nam 30/7) đầu trang(
Với kim ngạch xuất khẩu của ngành chế biến gỗ trong nước đạt 3,3 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, nhiều chuyên gia đánh giá, năm 2015 sẽ là năm “được mùa” của ngành này. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, ngành chế biến gỗ Việt Nam cần phải xây dựng cho mình những bước đi phù hợp.
Báo Diễn đàn Doanh nghiệp đã có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Tiến Quang – Phó Giám đốc VCCI Đà Nẵng, Thành viên đoàn khảo sát nhu cầu thông tin FLEGT-VPA các doanh nghiệp gỗ xung quanh vấn đề này.
So với các ngành khác, ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực trong những năm qua cả về giá trị, sản lượng và chất lượng sản phẩm. Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ngành chế biến gỗ đã đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho người dân.
Ngành chế biến gỗ cũng là một trong số các ngành của nước ta nhập nguyên liệu thô từ nước ngoài, chế biến tạo ra giá trị gia tăng và xuất khẩu nên ngành này cũng có nhiều đóng góp cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của nước ta.
Với gần 4.000 doanh nghiệp chế biến gỗ và đã hình thành các Trung tâm chế biến gỗ tại Bình Dương và Bình Định, các doanh nghiệp chế biến gỗ nước ta đã chiếm lĩnh khá tốt thị trường, thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam cũng đã mở rộng ra hơn 100 nước trên thế giới. Năm 2014, ngành gỗ đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 6,23 tỷ USD. Năm 2015, các doanh nghiệp ngành gỗ phấn đấu đạt mục tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức 7 tỷ USD.
Mục tiêu này là hoàn toàn khả thi bởi đến thời điểm này rất nhiều doanh nghiệp gỗ đã có đơn hàng sản xuất đến hết năm 2015. Hơn nữa,  6 tháng đầu năm, ngành gỗ Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu được khoảng 3,3 tỷ USD.
Cùng với nhu cầu về các sản phẩm gỗ của nhiều nước trên thế giới tăng cao, nhiều hiệp định tự do thương mại đã và đang chuẩn bị được ký kết sẽ tạo thêm cơ hội, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
Vì lẽ đó, ngành gỗ sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Không những vậy, thị trường nội địa cũng có sự tăng trưởng tốt khi nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm đồ gỗ trong nước không ngừng gia tăng.
Mặc dù ngành gỗ Việt đã có nhiều khởi sắc, song trong thời gian tới, ngành hàng này sẽ phải đối mặt với không ít thách thức để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra.
Thị trường EU chiếm 15,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành chế biến gỗ Việt Nam và khó khăn lớn nhất hiện nay đó là việc doanh nghiệp phải chứng minh nguồn gốc gỗ hợp pháp.
Khi đó, doanh nghiệp trong ngành cần phải quy trình hóa chuỗi cung ứng, yêu cầu trình độ quản trị, tuân thủ pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ cao hơn để chứng minh nguồn gốc gỗ  xuất sang các nước thành viên EU là hợp pháp, đáp ứng yêu cầu của VPA/FLEGT.
Trên thực tế, phần lớn gỗ nguyên liệu của nước ta lại được nhập từ nhiều quốc gia trên thế giới với mức độ rủi ro về khai thác gỗ bất hợp pháp khác nhau. Nếu khi hiệp định VPA/FLEGT được ký kết và có hiệu lực thì doanh nghiệp phải khắt khe trong chọn lựa nguồn gỗ, quốc gia để nhập khẩu nguyên liệu nhằm đáp ứng các yêu cầu của Hiệp định này.
Đây có thể là yếu tố sẽ làm giá gỗ nguyên liệu tăng, đẩy giá thành lên cao hơn và các doanh nghiệp chế biến gỗ nước ta sẽ gặp bất lợi trong cạnh tranh về giá so các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Đài Loan…
Ngoài ra, đối với nguyên liệu gỗ rừng trồng ở trong nước về mặt lý thuyết là gỗ hợp pháp nhưng việc thực hiện các thủ tục pháp lý, hành chính…để chứng minh là gỗ hợp pháp không hề đơn giản trong bối cảnh việc thực hiện thủ tục hành chính, thực thi các chính sách của nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện.
Mặc khác, khi thực hiện hiệp định VPA/PLEGT, cấp phép FLEGT có thể gia làm tăng thủ tục, thời gian xuất khẩu cho doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm gỗ sang EU. Việc thuận lợi hóa trong cấp phép FLEGT về cơ quan cấp, quy trình, thủ tục… là những vấn đề mà doanh nghiệp rất quan tâm, quan ngại mà chúng tôi ghi nhận được trong các cuộc khảo sát, hội thảo, tiếp xúc với doanh nghiệp…
Một khó khăn nữa đó là, tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam trong giai đoạn vừa qua chủ yếu dựa vào xuất khẩu, mà phần lớn là gia công theo đơn đặt hàng với thiết kế mẫu mã từ khách hàng nước ngoài.
Chỉ một số ít doanh nghiệp lớn trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư công nghệ, thiết bị và có khả năng tự sản xuất theo thiết kế, xây dựng thương hiệu và có thể tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả xuất khẩu. Đa phần các doanh nghiệp còn lại chưa có được sự đầu tư về công nghệ, thiết bị chế biến để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Thêm nữa, phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay đều có quy mô nhỏ và vừa (50%), được phát triển từ mô hình sản xuất nhỏ kiểu hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp tác… có nhiều hạn chế về năng lực quản trị, thiết bị, công nghệ, tính liên kết của các doanh nghiệp lại hạn chế.
Với quy mô này, các doanh nghiệp rất khó thực hiện được các hợp đồng lớn của nước ngoài nên chủ yếu vẫn là gia công và chưa thể xây dựng được thương hiệu cho mình.
Rõ ràng là cơ hội hội luôn đi kèm với thách thức, ngoài những thách thức như tôi đã đề cập ở trên thì có thể nói rằng, khi VPA/FLEGT được ký kết thì việc kiểm soát gỗ của Việt Nam được tăng cường. Cùng với đó, khi các doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu của VPA/FLEGT thì xuất khẩu gỗ từ Việt Nam vào các nước nước EU sẽ có nhiều lợi thế hơn trong mở rộng thị phần, gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Một khi sản phẩm gỗ Việt đã định vị được tại thị trường EU với các yêu cầu, thủ tục khắt khe hơn thì các thị trường khác trên thế giới cũng sẽ tin tưởng hơn vào chất lượng, tính hợp pháp của sản phẩm gỗ Việt Nam, nhờ đó giúp nâng cao uy tín cũng như cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm gỗ Việt vào các thị trường này trong thời gian đến cũng rõ ràng hơn.
EU là thị trường lớn thứ tư chiếm 15,4 % (sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản) do vậy  tiềm năng xuất khẩu đồ gỗ vào EU còn rất lớn khi VPA/FLEGT được ký kết. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt có lợi thế khi xuất khẩu sang EU do không phải giải trình theo quy chế EUTR 995 của EU so với những doanh nghiệp ở những quốc gia chưa ký hiệp định này.
Điều quan trọng nhất đó là, khi đã có giấy phép FLEGT, sản phẩm gỗ của doanh nghiệp Việt xuất khẩu vào EU sẽ tránh được các rủi ro pháp lý so với hiện nay; đồng thời gia tăng cơ hội mở rộng thị trường hơn nữa tại các thị trường khó tính.
Theo chiến lược phát triển tổng thể ngành chế biến gỗ Việt Nam đến năm 2015 ngành gỗ phải đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD và năm 2020 đạt 10 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu phát triển nói trên, theo tôi ngành chế biến gỗ Việt Nam cần phải xây dựng cho mình những bước đi phù hợp.
Trước hết, các doanh nghiệp ngành gỗ cần phải tăng cường nhận thức, cập nhật về Hiệp định VPA/FLEGT, đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến gỗ với doanh nghiệp cung ứng gỗ, trồng rừng để xây dựng chuỗi cung ứng nhằm chủ động nguyên liệu, đáp ứng yêu cầu của VPA/FLEGT.
Song song với đó, các doanh nghiệp Việt cũng cần hoàn thiện chuỗi cung ứng với các doanh nghiệp các nước xuất khẩu nguyên liệu có mức độ rủi ro thấp về khai thác gỗ bất hợp pháp để chủ động hơn về nguồn nguyên liệu nhập khẩu cho ngành gỗ trong thời gian tới.
Để có một chiến lược phát triển ngành gỗ lâu dài, nhà nước cũng cần có chiến lược phát triển vùng nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ; tiếp tục ban hành, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ xây dựng chương trình liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến gỗ và người trồng rừng, để trồng và khai thác rừng hợp pháp cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vốn cho hộ gia đình nhỏ lẻ trồng rừng; hỗ trợ người trồng rừng, doanh nghiệp trồng rừng thực hiện các thủ tục pháp lý nhằm chứng minh tính hợp pháp của gỗ rừng trồng…
Ngoài ra, nhà nước cần có những chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành chế biến gỗ gỗ trong tiếp cận vốn, thị trường, phát triển sản phẩm, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh. Xây dựng chương trình quảng bá thương hiệu cho ngành gỗ Việt Nam.
Hỗ trợ, nâng cao năng lực hoạt động và tạo điều kiện cho các hiệp hội ngành chế biến gỗ ở cấp quốc gia, địa phương để triển khai các chương trình hỗ trợ, đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp ngành chế biến gỗ.
Và, điều chính yếu nhất là các doanh nghiệp chế biến gỗ phải nâng cao năng lực quản trị, đổi mới công nghệ, đầu tư phát triển sản phẩm, nâng cao năng suất lao động…nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể vượt qua những thách thức và tận dụng tốt những cơ hội do các hiệp định thương tư do thế hệ mới mang lại. (Diễn Đàn Doanh Nghiệp 29/7) đầu trang(
Ngày 27/7, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các sở: Kế hoạch và đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, các địa phương vùng triển khai dự án trồng cây cao su tổ chức họp bàn, tham gia ý kiến về việc đưa diện tích rừng cây cao su được hưởng chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng theo Nghị định 99, năm 2010 của Chính phủ.
Cơ bản các sở, ngành, địa phương nhất trí cao với đề nghị đưa diện tích trồng cây cao su được hưởng chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Một số ý kiến cho rằng: cần quy định rõ điều kiện để thực hiện chi trả, như diện tích cây cao su phải từ 4 năm tuổi trở lên mới đảm bảo độ tán che tiêu chí về mật độ trồng; đường kính, chiều cao cây...
Bên cạnh đó, cần xem xét đến cơ chế sử dụng khoản thu từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (nếu được thực hiện) đối với các doanh nghiệp trồng cao su.
Đại diện 2 doanh nghiệp: Công ty Cổ phần Cao su Điện Biên, Công ty Cổ phần Cao su Mường Nhé – Điện Biên đề nghị các sở, ngành tham mưu để UBND tỉnh hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, như: hệ thống cấp điện, cấp nước, thoát nước... thuộc dự án phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 theo Quyết định 16 của UBND tỉnh.
Hiện nay toàn tỉnh có gần 5.467ha cây cao su (trên 4.900ha cao su đại điền). (Báo Điện Biên Phủ 29/7) đầu trang(
UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định 2611/QĐ-UBND phê duyệt Đề án chi trả dịch vụ môi trường rừng tại lưu vực thuỷ điện Duy Sơn II (huyện Duy Xuyên).
Theo đó, có 8477,42 ha diện tích lưu vực và  650,07 diện tích rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Trong diện tích rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng 650,07 ha, có: 571,39 ha đang giao khoán đến hộ theo Dự án Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2013, diện tích còn lại 78,68 ha do UBND xã Duy Sơn quản lý.
Theo Đề án, Đơn giá trong lưu vực năm 2015: Đơn giá chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đến nhóm hộ (sau khi trừ 9,5% quản lý của Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh và 10% quản lý của Hạt Kiểm lâm Duy Xuyên): 59.628 đồng/ha.
Phương án xác định đơn giá tại lưu vực vẫn duy trì cho các năm tiếp theo, trừ khi có thêm nguồn lực tài chính thì có thể xây dựng lại phương án xác định đơn giá mới cho phù hợp. Mức chi trả sẽ được điều chỉnh theo nguồn chi trả thực tế hằng năm do cấp thẩm quyền quyết định.
UBND tỉnh giao cho Hạt Kiểm lâm Duy Xuyên là tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý rừng, tổ chức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng; được sử dụng kinh phí 10% trích lại để chi cho hoạt động nghiệp vụ, chi phí quản lý theo quy định.
Hạt Kiểm lâm Duy Xuyên tổ chức giao khoán diện tích 78,68 ha cho nhóm hộ là Tổ bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng của xã theo Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Giao Hợp tác xã Duy Sơn II là đơn vị chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Trước đó, UBND tỉnh cũng đã phê duyệt Đề án chi trả dịch vụ môi trường rừng tại lưu vực thuỷ điện Đắk Drinh, huyện Nam Trà My. Theo đó, có 1.898,22 ha diện tích lưu vực và 745,47 diện tích rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Đơn giá kế hoạch chi trả năm 2015: Đơn giá chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đến nhóm hộ (sau khi trừ 9,5% quản lý của Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh và 10% quản lý của Hạt Kiểm lâm Nam Trà My): 493.630 đồng/ha.
UBND tỉnh giao cho Hạt Kiểm lâm Nam Trà My là tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý rừng, tổ chức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng; được sử dụng kinh phí 10% trích lại để chi cho hoạt động nghiệp vụ, chi phí quản lý theo quy định. Hạt Kiểm lâm Nam Trà My tổ chức giao khoán quản lý bảo vệ rừng diện tích 745,47 ha (05 nhóm/120 hộ) theo Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Đơn vị chi trả dịch vụ môi trường rừng là Công ty Cổ phần thủy điện Đắk Drinh. (Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Quảng Nam 29/7) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Với khả năng đánh hơi và lần dấu nhạy bén, chú chó mang biệt danh "Sát thủ" là nỗi khiếp sợ của những tay săn trộm tê giác tại Nam Phi.
"Sát thủ", chú chó giống Malinois của Bỉ, là trợ thủ đắc lực của lực lượng kiểm lâm trong hoạt động trấn áp nạn săn bắn trái phép tại Vườn quốc gia Kruger, Nam Phi. Nửa đầu năm nay, chú chó 6 tuổi đã giúp lực lượng kiểm lâm Nam Phi bắt hơn 15 kẻ săn trộm
"Sát thủ" cùng một nhân viên bảo vệ rừng ở Nam Phi. Henry Holthyzen, một người làm việc tại Học viện Đào tạo chó nghiệp vụ K9, đã nuôi "Sát thủ". Ông kể: "Nó là một con chó hoạt bát với khả năng lần dấu bẩm sinh và rất dũng cảm". Holthyzen là người nhận ra khả năng thích ứng của giống Malinois và giúp tham gia hoạt động chống săn bắn trái phép ở Nam Phi.
Người ta huấn luyện "Sát thủ" trong 16 tháng trước khi chuyến nó đến lực lượng kiểm lâm ở Vườn quốc gia Kruger để học cách nhận biết mùi, bám theo đường mòn và chiến đấu. Johan de Beer, người quản lý đàn chó nghiệp vụ của Vườn quốc gia Kruger, cho biết: "Khả năng đánh hơi tốt giúp Sát thủ lùng dấu vết của các tay săn trộm dễ dàng".
Dù mang biệt danh "Sát thủ", chú chó giống Malinois không phải động vật khát máu. Theo Beer, "Sát thủ" chỉ chiến đấu với những kẻ săn trộm, còn khi ở trại nó lại là một chú chó lành, thích ngồi trên trực thăng.
"Sát thủ" gần gũi với Amos Mzimba, người huấn luyện chó. Mzimba nói: "Tôi và "Sát thủ" rất hiểu nhau nên cả hai luôn làm tốt nhiệm vụ". Khi phát hiện những kẻ săn trộm hay xác tê giác, "Sát thủ" và Mzimba nhanh chóng lên trực thăng để tới khu vực tuần tra. Nhiều lần, Mzimba và "Sát thủ" phải lần dấu những tay thợ săn trái phép trên quãng đường 8 km.
Giới chức tại Vườn quốc gia Kruger muốn tăng số lượng chó nghiệp vụ từ 29 lên 40 con tới cuối năm nay. Beer nói: "Những chú chó đang góp công lớn vào việc bắt bọn săn trộm. Những kẻ phạm tội rắc bột ớt trên đường nhưng lũ chó vẫn có thể phát hiện chúng".
Một thợ săn trộm, do "Sát thủ" phát hiện, đứng trong một phiên tòa. Giống chó Malinois của Bỉ có thể trở thành những con vật hữu ích trong các hoạt động của quân đội hoặc cảnh sát trên thế giới. Năm 2011, Cairo, chú chó giống Malinois của Bỉ, tham gia hoạt động tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden.
Từ năm 2007, số lượng tê giác chết vì nạn săn trộm tăng với tốc độ chóng mặt sau từng năm tại vườn quốc gia Kruger. Những kẻ săn trộm giết tê giác vì lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động bán sừng tê giác. Năm 2014, khoảng 1.215 con tê giác bị giết và con số này sẽ tăng tới mức cao hơn trong năm nay. (Người Tiêu Dùng 30/7) đầu trang(
Biểu tượng thời trang huyền thoại yêu cầu hãng Hermes ngừng sử dụng tên mình cho dòng túi xách xa xỉ.
Jane Birkin, nữ người mẫu kiêm ca sĩ Anh được đặt tên cho mẫu túi Hermes Birkin đẳng cấp. Mới đây, biểu tượng thời trang 68 tuổi yêu cầu thương hiệu Hermes ngừng sử dụng tên bà cho dòng sản phẩm đắt giá này.
Nguyên do là phiên bản túi xa xỉ làm từ da cá sấu đã khiến các nhà bảo vệ động vật rất giận dữ. Nhóm bảo vệ quyền động vật PETA công bố đoạn video quay bằng camera giấu kín ghi lại cảnh giết hại cá sấu trong các trang trại từ Texas tới Zimbabwe.
Tại đây, cá sấu bị nhốt trong các hố bê tông và bị giết một cách thô bạo. Nhóm này cho biết, phải cướp đi mạng sống của 2-3 con cá sấu để làm được một chiếc túi xách Birkin hay Kelly.
Sáng lập viên Ingrid Newkirk của PETA nói: "PETA thay mặt cho tất cả những người có tâm với động vật trên thế giới, cảm ơn bà Birkin vì kết thúc sự hợp tác với Hermes, thương hiệu đã làm những chiếc túi xách lố bịch từ da của cá sấu nuôi công nghiệp và giết tàn nhẫn trong các trang trại, đã được tiết lộ trong phóng sự của PETA. Chúng tôi kêu gọi Hermes ngừng đối xử tàn ác với động vật hoang dã, nuôi công nghiệp và giết mổ chúng lấy da".
Tổ chức này cho hay: "Chỉ mới một năm tuổi, cá sấu đã bị bắn với một khẩu súng hơi (gọi là captive-bolt) hoặc cắt cổ thô bạo trong khi chúng vẫn còn nhận thức được và cảm thấy đau đớn. Các điều tra viên đã nhìn thấy cá sấu tiếp tục quẫy chân và đuôi trong rãnh máu, những thùng nước lạnh đỏ máu vài phút sau cuộc tàn sát".
Trong một tuyên bố đưa ra hôm qua, nàng thơ của túi xách Hermes nói: "Tôi được cảnh báo rằng, để sản xuất túi Hermes mang tên tôi, những con cá sấu đã bị giết hại một cách tàn nhẫn. Tôi đã yêu cầu tập đoàn Hermes đổi tên Birkin cho đến khi nào hãng làm tốt hơn việc đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất loại túi này". Bà bị sốc và đau lòng sau khi xem những hành động "độc ác" để làm món phụ kiện nổi tiếng.
Các mẫu túi Birkin được tạo ra sau câu chuyện của giám đốc điều hành Jean-Louis Dumas của Hermes khi ngồi cạnh Jane Birkin trên chuyến bay từ Paris tới London vào năm 1981. Người đẹp phàn nàn với Dumas về chiếc túi mây của mình và ước ao có một chiếc túi da hoàn hảo để đi chơi cuối tuần. Ba năm sau, hãng Hermes đã làm ra chiếc túi màu đen đáp ứng đúng mong muốn của nàng.
Mẫu túi thanh lịch, bền đẹp lấy tên Birkin nhanh chóng gây sốt trên toàn thế giới, khiến các ngôi sao nổi tiếng mê mẩn và là niềm ao ước của hàng triệu tín đồ thời trang. Những chiếc túi Birkin được coi như một biểu tượng của sự thời thượng, "tuyệt phẩm" của làng mốt. Đó không chỉ là vật đựng đồ mà còn là một thứ "trang sức" tôn sự đẳng cấp của các quý bà, quý cô.
Dòng túi xách xa xỉ của hãng thời trang Pháp được bán với mức giá 6.700 - 145.000 bảng Anh (hơn 230 triệu - 5 tỷ đồng) và phải "xếp hàng" rất lâu, có khi đến 6 năm mới có túi. Không ít người sẵn sàn chờ đợi và trả mức giá "cắt cổ" để sở hữu túi nhãn hiệu này.
Ca sĩ, diễn viên Ashley Tisdale từng chờ đợi 2 năm để mang về nhà chiếc túi xách màu xanh cobalt. Jessica Simpson gây xôn xao khi nhận được một chiếc túi màu cam trong dịp sinh nhật lần thứ 31 do vị hôn phu (nay là chồng) Eric Johnson tặng. Kim Kardashian, Victoria Beckham và Jennifer Lopez đều đã được trông thấy mang theo túi xách phiên bản da cá sấu.
Đại diện của PETA nói: "Túi Birkin từng được người nổi tiếng và giới siêu giàu chọn lựa. Nhưng rồi sẽ chẳng còn ai muốn mang theo bên mình một cái chết của động vật. Đến khi đó, những người bảo vệ động vật mới thở phào nhẹ nhõm được".
Sau khi đoạn phóng sự được công bố, không ít người cảm thấy thất vọng với Hermes và cho rằng đây là sự thật đẫm máu đằng sau những chiếc túi da cá sấu thượng hạng. Trước những phản ứng gay gắt này, hãng Hermes ra thông cáo cho People: "Jane Birkin đã bày tỏ sự lo ngại của mình đối với hành động giết hại cá sấu. Ý kiến của bà không có bất kỳ ảnh hưởng gì đến tình hữu nghị và sự tin cậy mà chúng tôi đã chia sẻ trong nhiều năm nay. Hermes tôn trọng và chia sẻ cảm xúc với bà ấy, đồng thời cũng bị sốc trước những hình ảnh lên sóng gần đây".
Tờ báo cho hay: "Một cuộc điều tra đang được tiến hành tại các trang trại ở Texas dính líu trong video. Bất kỳ hành vi nào vi phạm quy định sẽ được khắc phục và xử phạt. Hermes xác định rằng, trang trại này không thuộc quản lý của họ và da cá sấu ở đây không được sử dụng để chế tạo những chiếc túi Birkin". (Ngôi Sao 29/7) đầu trang(./.
Biên tập: Hương Giang