Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 06 tháng 07 năm 2015
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
NHÌN RA THẾ GIỚI

BẢO VỆ RỪNG
Với tốc độ suy giảm như hiện nay, tương lai không xa thế hệ con cháu chúng ta sẽ chỉ biết đến con voi qua hình ảnh và những giai thoại trong sử sách. Buồn và thương thay cho số phận những chú voi đang mai một dần từ chính sự đối xử của con người…
Đã là con dân đất Việt, ngay từ khi mới ê a tập nói, tập viết, con voi trong truyền thuyết từ truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, đã thấm vào tâm hồn qua câu chuyện truyền khẩu từ bà, từ mẹ. Voi chính là một trong những sính lễ mà vua Hùng bắt buộc Sơn Tinh, Thủy Tinh phải có trong ngày đến cầu hôn Công chúa Mị Nương (Voi chín ngà)…
Bao thế hệ người Việt lớn lên với  niềm tự hào dân tộc, khi được học những bài học lịch sử giữ nước và dựng nước của ông cha. Từ xa xưa con voi đã được thuần hóa để trở thành những “chiến binh”; voi xuất hiện từ thời Hai Bà Trưng chống quân Nam Hán; và ai cũng thuộc lòng câu ca nói về Triệu Thị Trinh đánh đánh đuổi quân Ngô “Muốn coi lên núi mà coi/ Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng”. Đến thời vua Quang Trung, đội Tượng binh 200 voi chiến, là một trong những lực lượng cừ khôi và tinh nhuệ nhất tham gia đánh tan quân Thanh, quân Xiêm xâm lược…
Đặc biệt trong thế kỷ XX, voi được coi là người bạn thủy chung, nghĩa tình nhất của người Việt Nam ta. Ở nhiều vùng quê trên dải đất hình chữ “S” này không thiếu gì hình ảnh những chú voi như là thành viên của cộng đồng, có mặt ở nhiều lĩnh vực trong đời sống thường nhật của người dân. Không chỉ vậy, trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, voi còn là lực lượng vận tải quân lương phục vụ cho các chiến trường.
Lịch sử còn ghi, trong Chiến dịch Nguyễn Huệ (1952), nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đã huy động hàng trăm con voi phục vụ tiếp tế lương thảo, đạn dược cho bộ đội Bok Hồ giải phóng An Khê. Thời chống Mỹ, trong lực lượng hậu cần quân giải phóng có cả một “đội quân” vận tải bằng voi. Người Tây Nguyên không chỉ tự hào có vua voi Khun Yu Nốb, ở Bản Đôn (Đắk Lắk); thời “hoàng kim”, “ra ngõ gặp voi”, ông là người đã săn bắt được đến 400 con voi. Rồi người cháu ngoại của ông cũng nổi tiếng không kém săn bắt được 298 con, cùng với thang thuốc nổi tiếng có tên là “Ama Kông”.
Người Tây Nguyên còn tự hào có bà Sao Thông Chăn, người con của Đắk Lắk; trong những năm chiến tranh bà vừa là cơ sở bí mật, là nơi cung cấp nhiều thông tin quan trọng, cùng cơ sở vật chất cần thiết cho cách mạng. Vừa là người chỉ huy tài ba cả đàn voi hơn 30 con vận chuyển lương thực, vũ khí cho bộ đội, góp công vào hàng loạt các chiến dịch trên chiến trường Tây Nguyên như: Plei Me, Chư Nghê (Gia Lai); Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ (Đắk Lắk); Đắk Tô - Tân Cảnh, Đắk Pét, Đắk Glei (Kon Tum)... Ngày 25-3-1990, bà vinh dự được Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì...
Voi còn là chứng nhân trong tình đoàn kết keo sơn giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào. Trong chiến tranh chống Mỹ, chiến trường Hạ Lào có quan hệ mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Trong lịch sử của các đơn vị hai nước hoạt động ở chiến trường này thời khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất. Voi là lực lượng vận tải hữu hiệu và quan trọng nhất xuyên từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn. Những thớt voi ngày đêm đưa những chuyến hàng vượt qua núi rừng hiểm trở trên dãy Trường Sơn đến từng trận địa… góp phần vào thắng lợi của từng trận đánh của quân đội hai nước cùng kề vai sát cánh đánh kẻ thù chung…
Phía sau đoàn quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, rồi đến Đại thắng mùa Xuân 1975, tại Chiến trường Buôn Ma Thuột, có những đội Tượng binh âm thầm vận tải đưa những viên đạn, khẩu pháo nặng cả tạ áp sát từng chiến hào, góp phần không nhỏ vào chiến công chung.
Trên bản đồ phân bố về địa hạt sinh sống của loài voi trước đây là khá rộng,  từ núi rừng Lai Châu ở phía bắc chạy dọc theo dãy Trường Sơn tới tận Sông Bé, Tây Ninh và một số tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy nhiên, theo tài liệu điều tra mới nhất, thì các tỉnh Lai Châu, Thanh Hóa, Quảng trị, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Gia Lai, Lâm Đồng cùng một số địa phương khác hầu như voi rừng đã biến mất. Hiện nay số voi ít ỏi còn lại chủ yếu là ở Đắk Lắk.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, đàn voi rừng ở nước ta ước còn từ 1.500 đến 2.000 con. Đàn voi nhà ở Đắk Lắk khoảng 500 con. Theo số liệu thống kê mới đây, hiện nay đàn voi hoang dã và voi nhà của tỉnh Đắk Lắk đang giảm nhanh cả về số lượng và chất lượng. Voi rừng chỉ còn từ 70 đến 80 con và đàn voi nhà chỉ còn vỏn vẹn 48 con! Theo dự báo của các nhà chuyên môn, với tốc độ suy giảm như hiện nay thì chỉ khoảng vài chục năm nữa, đàn voi rừng và cả voi nhà sẽ chỉ còn trong ký ức.
Mới đây, lên Tây Nguyên công tác, tôi được anh Kiều Bình Định, phóng viên Báo Quân đội nhân dân, thường trực ở Nam Tây Nguyên, đưa đến Trung tâm Bảo tồn voi ở Đắk Lắk để tìm hiểu thực trạng về voi ở Tây Nguyên. Được “mắt thấy, tai nghe” những người có trách nhiệm ở trung tâm này trao đổi mới thấy việc nhận định của các chuyên gia về sự suy giảm, dẫn đến tuyệt chủng của đàn voi ở Tây Nguyên còn khủng khiếp hơn những gì mà báo chí đã nêu.
Giở bản thống kê của Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk, những con số khô khan, ngắn gọn, như mũi khoan xoáy vào tim gan người đọc. Chỉ từ năm 2009 đến nay, đã có 17 con voi hoang dã bị chết, trong đó chủ yếu là bị săn bắn trái phép. Từ đầu năm 2015 đến nay, trên toàn tỉnh Đắk Lắk đã có 5 con voi nhà và một voi rừng bị chết…“man rợ”, “vô nhân tính”, “ác độc”… là những cụm từ mà bất cứ ai được xem những hình ảnh rùng rợn chụp lại những cái chết thảm thương của những chú voi ở đây.
Ngày 8-5 mới đây, con voi 43 tuổi có tên gọi là Na Liêng, thuộc sự quản lý của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Buôn Đôn (xã Krông Ana, huyện Buôn Đôn) đã gục chết sau hai lần bị “đột quỵ” vì suy kiệt, dù trước đó đã được Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk cứu chữa. Ông Phạm Văn Láng, Phó giám đốc Trung tâm cho biết, ngày 29-3 nhận được tin báo từ cơ sở voi Na Liêng bị ngã và không thể đứng dậy được. Trung tâm đã cử ngay cán bộ chuyên môn và bác sĩ thú y đến thăm khám, chữa trị. Con voi Na Liêng đã đi lại và ăn uống được, nhưng sức khỏe rất yếu. Hơn 1 tháng sau, ngày 5-5, Trung tâm lại nhận được tin báo Na Liêng ngã quỵ lần thứ hai. Voi được các bác sĩ cấp cứu truyền nước, nhưng ba ngày sau đó thì bị chết vì quá suy kiệt!
Theo thống kê của Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk, trong số những con voi bị chết. Có con “chết già” theo quy luật; có con chết bị vắt kiệt sức như voi Na Liêng; voi “chết trẻ” không hiếm. Xin được điểm ra đây những chú voi “chết trẻ”:
Sáng 24-3-2015, người dân phát hiện có con voi chết tại  Tiểu khu 71B, khu vực lâm phần của Công ty Lâm nghiệp Ea Wy (huyện Ea H’Leo) Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm xác voi, xác định con voi đực khoảng 1 năm tuổi, nặng 100kg chết trong tình trạng mất 1 mảng da lớn và 4 đế chân. Trước đó, từ tháng 1 đến tháng 3, cũng tại Đắk Lắk có 3 con voi nhà bị chết.
Trước đó nữa, vào cuối tháng 3-2012, cơ quan chức năng đã phát hiện xác của một con voi khoảng 4-5 tháng tuổi, nặng khoảng 100-120 kg tại khoảnh 4 Tiểu khu 289, xã Cư M’lanh, huyện Ea Súp. Tiếp đó, ngày 31-3, cũng tại tiểu khu này, cơ quan chức năng lại phát hiện xác một con voi khoảng 3-4 năm tuổi, có trọng lượng khoảng 400-500 kg. Cũng trong ngày 31-3, tại tiểu khu 238, xã Ea Bung, cơ quan chức năng phát hiện xác một con voi đực, nặng khoảng 1,5 - 2 tấn đang trong quá trình phân hủy, phần đầu của voi đã bị đục tung; ngà, vòi, đuôi, một khúc chân sau bên trái và nhiều phần trên cơ thể đã bị lấy mất…
Theo ông Huỳnh Trung Luân, số voi bị chết trên, phần thì do thiếu thức ăn do diện tích rừng bị thu hẹp, tài nguyên rừng bị cạn kiết. Còn lại, hầu hết bị vướng bẫy của người dân địa phương; bị những tay săn bắn truy lùng để lấy ngà, lấy lông đuôi voi. Có thể nói, với sự tận dụng quá mức đàn voi nhà vào làm dịch vụ du lịch; rồi rừng bị tàn phá; cùng với sự “tận diệt” của những kẻ săn bắn, đàn voi ở Tây Nguyên đang dần bị tuyệt chủng.
Đúng là như vậy, đã quá muộn rồi, đàn voi đang ngấp nghé bờ vực tuyệt chủng. Đứng trước nguy cơ trên, năm 2011 tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk. Tiếp đến năm 2013, tỉnh này tiếp tục phê duyệt “Dự án khẩn cấp Bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí 85 tỉ đồng (thay cho “Dự án Bảo tồn voi giai đoạn 2010 - 2015 với tổng kinh phí trên 60 tỉ đồng).
Dự án này nhằm mục tiêu quản lý bền vững quần thể voi hoang dã và voi nhà; khôi phục và bảo vệ nguồn gen động vật, thực vật nguy cấp quý hiếm và đa dạng sinh học trong vùng sinh cảnh của voi; ngăn chặn, phòng ngừa hiệu quả xung đột giữa voi với người; đồng thời tăng cường hợp tác thực thi pháp luật, kiểm soát các hoạt động buôn bán vận chuyển trái phép ngà và dẫn xuất từ voi...
Gọi là “khẩn cấp”, nhưng đến thời điểm này, những gì đang diễn ra ở dự án thì chỉ ở tốc độ “rùa bò”. Ông Huỳnh Trung Luân, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk cho biết: Đầu năm nay, tức 2015, Trung tâm mới được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp 10 tỉ đồng và được UBND tỉnh Đắk Lắk giao 200ha đất rừng khộp tái sinh ở Tiểu khu 462, thuộc xã Krông Na (huyện Buôn Đôn) để thực hiện công tác bảo tồn. Và với các hạng mục đã được phê duyệt, cùng với những thủ tục “cần và đủ”, nhanh nhất thì phải 3 năm nữa Trung tâm này mới hoàn thành việc xây dựng bệnh viện cho voi, cùng khu vực chăn thả…
Và như vậy, trong khoảng thời gian ấy, nếu đàn voi xảy ra sự cố gì, nếu không có sự trợ giúp từ các chuyên gia nước ngoài, Trung tâm chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp thủ công và chắc chắn chất lượng điều trị, chăm sóc voi vẫn “vũ như cẩn” như trong thời gian vừa qua.
Dù rằng Trung tâm bảo tồn voi đã ra đời, nhưng theo lý giải của các nhà khoa học, rất khó mang lại hiệu quả như mong đợi. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của  PGS-TS Bảo Huy, Phó khoa Nông lâm Đại học Tây Nguyên, ông cho rằng: “Còn nhiều bất cập ở dự án này”. Những bất cập ấy là diện tích chăn thả và không gian để voi “gặp gỡ”, “tâm tình” bảo tồn giống nòi là quá ít; bởi trong 200ha thuộc dự án, thì đã phải sử dụng 100ha xây dựng bệnh viện voi và các công trình làm việc khác. Khó nữa là đội ngũ chuyên môn chưa được đào tạo bài bản, kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng voi còn hạn chế.
Nhưng khó hơn là làm sao thuyết phục được các chủ voi đưa voi vào Trung tâm để bảo tồn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chỉ một con voi thôi, thu nhập “chính đáng” bằng làm các dịch du lịch cũng đủ nuôi sống gia đình (mức thu bình quân từ 1,5 đến 5 triệu đồng/tháng); đấy là chưa kể việc cho lâm tặc thuê voi để kéo gỗ, thu nhập còn cao hơn rất nhiều. Bởi thế, muốn người dân đưa voi vào Trung tâm thì chỉ có biện pháp duy nhất là Nhà nước phải bỏ tiền; vận động bằng “nước bọt”, thì hãy cứ… đợi đấy!
Nhìn nhận vấn đề này, ông Huỳnh Trung Luân:  Voi nhà thuộc quyền sở hữu của các gia đình, Trung tâm chỉ có thể giúp họ bằng cách hướng dẫn kỹ thuật và phát thuốc phòng bệnh và điều trị cho voi. Cùng ý kiến, ông Hoàng Ngọc Tài, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Lắk cho rằng: “Địa phương còn 16 con voi nhà thuộc sở hữu tư nhân. Và lâu nay thường được khai thác quá sức cho kinh doanh du lịch. Các cơ quan chức năng chỉ tuyên truyền, vận động và hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho voi là chính, chứ khó bắt chủ voi thực hiện các biện pháp bảo tồn được!”.
Nhiều hộ dân là chủ voi mà chúng tôi đã gặp, hỏi về vấn đề đưa voi vào Trung tâm bảo tồn, họ đều nói voi là nguồn thu nhập chính, khó có thể đưa vào Trung tâm được, nếu không có sự hỗ trợ về kinh phí. Với các công ty du lịch, voi cũng là tài sản, là “sản phẩm” du lịch, họ cũng chẳng mấy mặn mà với dự án này.
Voi nhà thì vậy, với voi hoang dã còn khó hơn rất nhiều, theo Bà Cao Thị Lý, Trưởng khoa Tài nguyên rừng và Quản lý môi trường thuộc Đại học Tây Nguyên, hiện nay voi hoang dã ở Việt Nam sống ở khu vực rừng nhỏ, hẹp lại không được quan tâm, bị đe dọa bởi nạn săn bắn. Bởi vậy, đàn voi hoang dã nước ta đang rơi vào cuộc sống bị cô lập hoàn toàn. Việc bảo vệ chúng còn quá khó, nói chi đến khả năng duy trì nòi giống.
Nhận xét về đàn voi rừng ở Việt Nam, ông Barney Long - một thành viên của Quỹ động vật hoang dã thế giới WWF nói: “Đàn voi ở Việt Nam đang rơi vào một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Việt Nam có thể sẽ là nước đầu tiên ở châu Á đánh mất hết đàn voi hoang dã của mình”. Chúng tôi đồng tình với ý kiến của PGS-TS Bảo Huy: “Muốn duy trì được sinh cảnh cho voi rừng, phải dừng việc khai thác gỗ ở những cánh rừng của các địa phương có đàn voi rừng sinh sống. Hạn chế và chấm dứt việc chuyển đổi rừng khộp để trồng cao su vì rừng khộp chính là sinh cảnh của voi rừng”.
Chợt nghĩ, thời đầu thế kỷ XX khi voi rừng được săn bắt thuần dưỡng rất nhiều, nhưng vẫn phát triển và nhân đàn khá tốt; đấy là do ý thức của người dân không lạm dụng voi quá mức. Rừng Tây Nguyên bạt ngàn, thảm thực vật phong phú vừa là nguồn thức ăn, vừa là nguồn thuốc chữa bệnh vô cùng quý giá. Voi lớn lên từ rừng, tự “chữa bệnh” cũng chính từ thảm thực vật trong rừng. Giờ dù có mở “bệnh viện voi”, cũng chỉ là giải pháp tạm thời mà thôi; cái căn cơ, cái lâu dài là phải “đóng cửa rừng” một số nơi, những gì của thiên nhiên phải trả lại cho thiên nhiên. Voi chỉ phát triển, duy trì nòi giống ở môi trường tự nhiên, mọi sự gượng ép đều không mang lại hiệu quả. Theo ông Huỳnh Trung Luân, đã hơn 30 năm nay đàn voi nhà ở Đắk Lắk tuyệt nhiên không sinh sản là minh chứng rõ ràng nhất.
Hàng loạt khó khăn đang đặt ra với công tác bảo tồn voi ở Đắk Lắk, phải có những biện pháp mạnh hơn, thiết thực hơn. Nếu vẫn cứ để tình trạng như hiện nay, thì nguy cơ đàn voi ở nước ta nói chung, ở Đắk Lắk nói riêng sẽ là loại động vật mà nước ta gia tham gia Công ước CITES (Công ước về Thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp) “tiếp bước” loài tê giác một sừng ở Cát Tiên, “tiến dần” đến bờ vực tuyệt chủng. (Năng Lượng Mới 5/7) đầu trang(
Sau khi nhận thông tin phản ánh trên Lao Động về tình trạng gỗ nghiến chất đầy nhà dân và việc buôn bán, vận chuyển gỗ lậu trong đêm trên địa bàn huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng, ông Đặng Văn Cận - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Bảo Lâm - cho rằng sự việc diễn ra công khai mà không xử lý là vì ... tế nhị. (Lao Động 6/7) đầu trang(
4.7, Hạt Kiểm lâm Q.Liên Chiểu (Đà Nẵng) đã xác minh, kiểm tra nguồn gốc của 9 m3 gỗ được chở trên xe tải mang BKS 70H-9519 do một tài xế trú ở Long An điểu khiển.
Trước đó, ngày 3.7, Hạt Kiểm lâm phát hiện xe tải trên chở rất nhiều gỗ và có dấu hiệu nghi vấn tại Khu công nghiệp Liên Chiểu. Lực lượng chức năng yêu cầu tài xế đưa xe về trụ sở để xác minh nguồn gốc.
Sau đó tài xế xe tải xuất trình hóa đơn, bản kê lâm sản do Hạt Kiểm lâm TP. Kon Tum (Kon Tum) cấp, nhưng qua kiểm tra thì số gỗ trên xe tải không trùng với giấy tờ được cung cấp.
Hạt Kiểm lâm Liên Chiểu đã lập biên bản tạm giữ xe cùng với 29 cây gỗ gồm mít nài, xoan đào... với tổng khối lượng 9 m3 để điều tra. (Thanh Niên 4/7) đầu trang(
Trong thời gian gần đây, những cánh rừng nguyên sinh trên địa bàn huyện vùng cao Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên liên tục bị tàn phá.
Hàng chục cây gỗ nghiến quý hiếm, có tuổi thọ hàng chục thậm chí hàng trăm năm tuổi, bị lâm tặc đốn hạ. Trong đó, có những cây đường kính trên dưới 1m bị cắt khúc và cưa xẻ ra thành phẩm. Nhiều gốc cây gỗ lớn còn nguyên vết cắt ngang cây bằng cưa máy, thân cây đã được vận chuyển ra khỏi rừng.
Tại xã Tủa Thàng, huyện Tủa Chùa, lực lượng kiểm lâm cũng phát hiện hơn 70 cây, lóng, khúc gỗ nghiến với khối lượng gần 230m3, nằm rải rác trong rừng từ năm 2013, đã bị một số đối tượng xẻ thành gỗ hộp, thớt nghiến, vận chuyển ra ngoài tiêu thụ. Hiện lực lượng chức năng vẫn chưa xác minh được những đối tượng này và tình trạng phá rừng nơi đây vẫn còn gặp nhiều khó khăn. (VTV 5/7) đầu trang(
Do tác động cực đoan của biến đổi khí hậu, nhiệt độ không khí bình quân trong các ngày vừa qua đột ngột tăng cao, tác động và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Chiều và tối ngày 01/7/2015, một số diện tích rừng phòng hộ (chủ yếu là giang, nứa, lau lách,…) trên địa bàn các huyện: Yên Lập, Cẩm Khê, Tân Sơn bị cháy, ước tính diện tích thiệt hại khoảng 15ha (huyện Yên Lập 12,4ha; huyện Tân Sơn 2ha; huyện Cẩm Khê 0,6ha). Đến rạng sáng ngày 02/7/2015 các đám cháy đã được dập tắt hoàn toàn. Dự báo trong vài ngày tới, nắng nóng vẫn duy trì với nền nhiệt độ cao.
Để chủ động triển khai các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng và hạn chế đến mức thấp nhất tác động bất lợi của nắng nóng gây ra, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu:
1.    Chủ tịch UBND các huyện Yên Lập, Tân Sơn, Cẩm Khê:
Chỉ đạo khẩn trương khắc phục hậu quả cháy rừng, báo cáo rõ diễn biến, công tác chỉ đạo huy động lực lượng tham gia chữa cháy, trách nhiệm của các đơn vị liên quan, tổng hợp thiệt hại, báo cáo Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cơ quan chức năng; đồng thời chỉ đạo khẩn trương điều tra, xác định nguyên nhân cháy, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm (nếu có). Tổ chức họp đánh giá, rút kinh nghiệm đối với phương án xử lý sự cố, làm rõ trách nhiệm của các đơn vị có liên quan từ việc phát hiện, chấp hành chế độ thông tin báo cáo, huy động lực lượng triển khai phương án chữa cháy.
2.    Chủ tịch UBND các huyện, thành, thị:
-    Khẩn trương chỉ đạo rà soát, xác định rõ các địa bàn trọng điểm có nguy cơ cháy rừng cao để bổ sung, điều chỉnh phương án phòng cháy, chữa cháy cho sát với thực tế, nhất là việc hợp đồng lực lượng, thành lập lực lượng cơ động phòng chống cháy rừng tại cơ sở… Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc trực ban 24/24 giờ để tiếp nhận thông tin, kịp thời có biện pháp xử lý ngay từ khi phát hiện đám cháy để giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra. Chỉ đạo tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát các hoạt động tại các khu vực trọng điểm có nguy cơ cháy rừng cao.
-    Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy rừng nhằm nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác của người dân và cộng đồng trên địa bàn các xã có rừng. Thường xuyên cập nhật, chuyển tải kịp thời các thông tin về diễn biến thời tiết, các bản tin dự báo, cảnh báo nguy cơ cháy rừng để chủ rừng, người dân biết và chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa. -    Khi có cháy rừng xảy ra, các địa phương, đơn vị và các chủ rừng phải phát hiện kịp thời, huy động lực lượng, phương tiện tại chỗ để xử lý, đồng thời báo ngay về các cơ quan có thẩm quyền để chỉ đạo lực lượng hỗ trợ khi cần thiết. Địa phương nào chậm phát hiện, không báo cáo kịp thời tình hình, huy động lượng lượng, phương tiện không đảm bảo, để xảy ra cháy rừng nghiêm trọng phải bị kiểm điểm, xử lý trách nhiệm.
-    Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn các biện pháp phòng chống tác động bất lợi của nắng nóng đối với cây trồng, vật nuôi.
3.    Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT:
-    Khẩn trương tổ chức họp rút kinh nghiệp trong việc chỉ đạo ứng phó đối với những vụ cháy rừng xảy ra vừa qua, từ đó tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo hiệp đồng, phối hợp giữa các lực lượng đảm bảo thực hiện  hiệu quả các biện pháp ứng phó khi có cháy rừng xảy ra.
-    Chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm thường xuyên theo dõi tình hình diễn biến thời tiết, dự báo sớm cháy rừng để kịp thời thông tin, cảnh báo nguy cơ cháy rừng trên phạm vi toàn tỉnh; chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ lực lượng, phương tiện, trang thiết bị PCCCR để hỗ trợ, ứng cứu kịp thời khi có yêu cầu.
-     Chỉ đạo các Ban quản lý rừng, lực lượng kiểm lâm thường xuyên tổ chức tuần tra PCCCR trong suốt thời gian cao điểm; duy trì chế độ trực 24/24 giờ hàng ngày để theo dõi, cập nhật, xử lý kịp thời các tình huống cháy rừng xảy ra trong lâm phận quản lý. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo khi có cháy rừng xảy ra.
-    Chỉ đạo hướng dẫn kịp thời các biện pháp kỹ thuật phòng, chống tác hại của nắng nóng, chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi để đảm bảo sản xuất phát triển ổn định.
4.    Giám đốc Công an tỉnh, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh:
Chỉ đạo các lực lượng chức năng trực thuộc thực hiện quy chế phối hợp trong công tác bảo vệ rừng và PCCCR, nhất là việc sẵn sàng huy động lực lượng, phương tiện tham gia chữa cháy rừng khi cần thiết. Chỉ đạo các đơn vị chức năng điều tra, xác định rõ nguyên nhân cháy rừng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm.
Yêu cầu Giám đốc các sở, Thủ trưởng các ngành, đơn vị, Chủ tịch UBND các huyện, thành, thị chỉ đạo khẩn trương, nghiêm túc nhiệm vụ được giao. (Báo Phú Thọ 3/7) đầu trang(
Trưa 3/7, khu vực núi Bợm, xã Tân Dân (Tĩnh Gia, Thanh Hóa) xảy ra vụ cháy rừng thông. Ngọn lửa sau đó nhanh chóng lan rộng, thiêu rụi nhiều ha rừng phòng hộ.
Đám cháy sau vài giờ bùng phát đã lan sang khu rừng thông xen keo thuộc xã Hùng Sơn (giáp với xã Tân Dân). Hàng trăm người thuộc Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và dân quân tự vệ địa phương vẫn đang nỗ lực khống chế đám cháy rừng.
Ông Lê Thế Long, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kiêm Chi cục trưởng Kiểm lâm Thanh Hóa cho biết, đến 16h30 cùng ngày, lực lượng chữa cháy đã cơ bản khống chế được đám cháy ở xã Tân Dân. Còn đám cháy ở khu vực rừng thông của xã Hùng Sơn vẫn đang lan rộng.
“Chúng tôi đang dốc toàn bộ lực lượng để chữa cháy, tuy nhiên thời tiết quá khắc nghiệt và địa hình hiểm trở, nguồn nước khan hiếm khiến công tác chữa cháy gặp rất nhiều khó khăn. Hiện lực lượng cứu hộ phát quang, lập các đường băng cản lửa để cô lập đám cháy, cố gắng khống chế ngọn lửa vào tối nay”, ông Long nói.
Từ đầu mùa hè đến nay, Thanh Hóa đã xảy ra rất nhiều vụ cháy rừng khiến hàng chục ha rừng phòng hộ bị thiêu rụi. (VnExpress + Thanh Niên 3/7) đầu trang(
Theo báo cáo của UBND huyện Phù Cát, từ đầu mùa khô đến nay, trên địa bàn huyện đã xảy ra 4 vụ cháy rừng với diện tích hơn 10 ha; trong đó, có 9,85 ha rừng trồng và 0,23 ha thảm thực vật tự nhiên. Hiện thời tiết tiếp tục nắng nóng, nguy cơ cháy rừng ở mức cực kỳ nguy hiểm, nhất là ở các khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng trồng nên huyện đã tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR).
Huyện Phù Cát có trên 68.000 ha đất lâm nghiệp, chiếm gần 75% diện tích tự nhiên toàn huyện. Trong đó diện tích có rừng gần 24.000 ha, gồm 12.000 ha rừng tự nhiên, còn lại là rừng trồng. Với phương châm “phòng cháy hơn chữa cháy”, ngay từ đầu mùa khô, UBND huyện đã xây dựng kế hoạch và triển khai phương án quản lý, bảo vệ rừng (QL-BVR), PCCCR phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện cụ thể của địa phương.
Hiện thời tiết nắng nóng gay gắt, cũng là lúc cao điểm dễ xảy ra cháy rừng, huyện  Phù Cát xác định công tác PCCCR rất cấp bách. Trên cơ sở kiện toàn Ban quản lý bảo vệ, phát triển rừng và Ban chỉ huy PCCCR từ huyện đến các xã, thị trấn có rừng, huyện chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao ý thức và trách nhiệm QL-BVR và PCCCR, trong đó phòng ngừa là chính.
Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương, chủ rừng cũng đã thực hiện nghiêm phương châm “4 tại chỗ” trong công tác PCCCR nhằm hạn chế thấp nhất số vụ cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng gây ra. Lực lượng Kiểm lâm (KL) đã tiến hành rà soát, khoanh vùng trọng điểm dễ cháy rừng trên bản đồ PCCCR, như: rừng phòng hộ đầu nguồn Cát Sơn, rừng phòng hộ ven biển ở các xã: Cát Chánh, Cát Hải, Cát Thành… để có kế hoạch kịp thời ứng phó khi xảy ra cháy rừng.
Huyện cũng đã chỉ đạo Hạt KL, các ban, ngành và các xã chủ động chuẩn bị các phương án, giải pháp PCCCR, tập trung thực hiện nghiêm túc công tác vệ sinh rừng, xử lý thực bì; chuẩn bị đầy đủ lực lượng, phương tiện, dụng cụ sẵn sàng tham gia khi xảy ra cháy rừng.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Hạt trưởng Hạt KL huyện Phù Cát, cho biết: Hạt KL huyện đã phân công cán bộ phụ trách từng địa bàn phối hợp với địa phương và ngành chức năng thường xuyên tuyên truyền các biện pháp QL-BVR và PCCCR; phối hợp với Ban quản lý Rừng phòng hộ, Ban thực hiện Dự án WB3, và các hộ trồng rừng, hộ nhận QL-BVR tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp gây nguy hại đến rừng. Phối hợp với các địa phương có rừng tổ chức 16 tổ, đội PCCCR, mỗi tổ, đội có từ 15 đến 20 người, được trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ công tác PCCCR. (Báo Bình Định 5/7) đầu trang(
Ngày 3-7, Ban CHQS huyện Tuyên Hóa (tỉnh Quảng Bình) cho biết, vào lúc 22 giờ ngày 2-7, tại khu vực rừng thông Xuân Lập (thôn Xuân Lập, xã Sơn Hóa, huyện Tuyên Hóa) đã xảy ra cháy rừng. Sau khi tiếp nhận tin báo, Ban CHQS huyện Tuyên Hóa đã phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện, dân quân xã Sơn Hóa và điều động hơn 60 người tiến hành chữa cháy.
Do thời tiết nóng kết hợp với gió Tây Nam thổi mạnh, vụ cháy lại diễn ra vào ban đêm nên công tác chữa cháy hết sức khó khăn. Sau hơn 6 tiếng đồng hồ nỗ lực dập lửa, đến 4 giờ sáng ngày 3-7, vụ cháy trên mới được dập tắt. Tuy nhiên, có khoảng hơn 5ha rừng thông đã bị thiêu rụi. (Quân Đội Nhân Dân 4/7) đầu trang(
Vụ giải cứu hơn 123 m3 gỗ gây thất thu cho nhà nước 250 triệu đồng, thất thoát ngân sách hơn 70 triệu đồng nhưng lại được cho rằng “sai sót chưa đến mức phải xử lý kỷ luật”
Trả lời phóng viên về vụ Chi cục Kiểm lâm (CCKL) Tiền Giang giải cứu 123 m3 gỗ lậu (Báo Người Lao Động đã nhiều lần thông tin), ông Trần Công Minh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tiền Giang, cho biết: “Đây chỉ là sai sót chưa đến mức phải xử lý kỷ luật nên sở chỉ điều chuyển ông Nguyễn Thanh Trúc, Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động, về Chi cục Thủy sản”.
Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Cẩn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thừa nhận tố cáo CCKL giải cứu gỗ lậu 3 lần là đúng sự thật. Số gỗ lậu mà CCKL giải cứu hơn 123 m3 gây thất thu cho nhà nước 250 triệu đồng, thất thoát ngân sách hơn 70 triệu đồng và cả CCKL chưa ai bị xử lý kỷ luật.
Với câu hỏi có hay không “áp lực từ bên ngoài, áp lực từ cấp trên…” như ông Trúc và ông Cao Văn Thật (Chi cục trưởng) nói trong khi bị phát hiện giải cứu gỗ lậu nhiều lần, ông Minh trả lời: “Không có ai phát ngôn như thế vì không có áp lực nào cả”. Khi phóng viên đưa ra kết luận thanh tra do chính giám đốc sở ký khẳng định 2 ông Trúc, Thật nói “bị áp lực”, ông Minh chống chế: “Ông Trúc, ông Thật nói như thế thì không ai chấp nhận, không phải là tình tiết giảm nhẹ”. Phóng viên hỏi tiếp: “Nếu đã không chấp nhận cách nói của 2 ông Trúc, Thật, vì sao không có ai bị xử lý kỷ luật? Thậm chí ông Trúc còn lập cả biên bản giám định giả để giải cứu gỗ lậu”. Ông Minh trả lời: “Để xem lại”.
Liên quan đến việc ông Trần Văn Phúc, người đứng ra tố cáo CCKL giải cứu hàng trăm mét khối gỗ lậu, sau đó bị CCKL “trả đũa” bằng cách bắt lô gỗ hợp pháp và đề xuất UBND tỉnh ra quyết định tịch thu, xử phạt ông Phúc 150 triệu đồng; ông Phúc khởi kiện, sau đó TAND Tối cao tuyên hủy quyết định của UBND tỉnh, trả lại lô gỗ cho ông Phúc, ông Minh cho biết đang xin giám đốc thẩm.
Trong khi đó, ông Trần Thanh Đức, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang, khẳng định: “Chúng tôi phải tự thi hành bản án này chứ không xin giám đốc thẩm. Tôi sẽ trao đổi với chị Trần Kim Mai (Phó Chủ tịch UBND tỉnh - PV) tự nguyện thi hành bản án”. (Người Lao Động 4/7) đầu trang(
Toàn tỉnh hiện có 1.726 tổ chức, hộ gia đình nuôi động vật hoang dã (ĐVHD) quý hiếm với 189.775 con, trong đó có 174.000 con cá sấu, còn lại là kỳ đà, rắn, trăn, chồn hương, rùa...
Thời gian qua,Chi cục Kiểm lâm Bạc Liêu đã đưa ra nhiều giải pháp quản lý trên cơ sở các quy định của Nhà nước nhằm quản lý, bảo vệ, bảo tồn, phát triển ĐVHD trên địa bàn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở gây nuôi thực hiện tốt quy định pháp luật.
Đối với nhóm ĐVHD nguy cấp quý hiếm, việc gây nuôi phải có đăng ký tại cơ quan Chi cục kiểm lâm để quản lý theo đúng quy định pháp luật. Tức là, người nào mua về gây nuôi phải có nguồn gốc hợp pháp, có giấy phép vận chuyển, giấy phép được mở cơ sở gây nuôi.
Một trong những giải pháp quan trọng là chủ động tổ chức tuyên truyền việc tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến việc gây nuôi ĐVHD quý hiếm. Thông qua các lớp tập huấn triển khai các văn bản liên quan đến việc quản lý, phát triển gây nuôi các loài ĐVHD như các nghị định của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm; Quyết định số 11/2013/QĐ-TTg ngày 24/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán mẫu vật một số loài ĐVHD nguy cấp thuộc các Phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; Công văn số 318/BNN-TCLN ngày 25/1/2013 của Bộ NN&PTNT về việc quản lý nuôi các loài ĐVHD; và một số văn bản chỉ đạo của địa phương.
Song song đó, Chi cục Kiểm lâm Bạc Liêu cũng tổ chức các đợt kiểm tra độc lập, các đợt phối hợp với Phòng Cảnh sát Môi trường, Công an tỉnh và các huyện, thành phố, phường, thị trấn tiến hành kiểm tra các trang trại, hộ gia đình gây nuôi ĐVHD. Hầu hết các trang trại, cơ sở và hộ gia đình gây nuôi ĐVHD đều chấp hành tốt các quy định về nguồn gốc vật nuôi, đăng ký gây nuôi, sổ theo dõi vật nuôi, đảm bảo vệ sinh môi trường, chuồng trại đảm bảo an toàn, được xây dựng kiên cố, không để động vật xổng chuồng gây thiệt hại cho người và tài sản xung quanh khu vực nuôi.
Ông Nguyễn Văn Phúc - Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Bạc Liêu cho biết, hiện hoạt động chăn nuôi ĐVHD quý hiếm tại tỉnh nằm trong khuôn khổ pháp luật quy định. Bạc Liêu không phải là tỉnh có nhiều rừng nhưng lại là khu vực gián tiếp trong việc giúp bảo tồn các loài này trong tự nhiên. Chi cục Kiểm lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc vận động, giáo dục các hộ chăn nuôi đáp ứng các điều kiện đúng quy định pháp luật. Có kiểm tra, giám sát bằng lực lượng chuyên ngành, các đội kiểm lâm cơ động, gắn dân trở thành các “chân rết” của kiểm lâm tại địa bàn.
Để việc gây nuôi ĐVHD quý hiếm phát triển bền vững và hiệu quả, qua đó góp phần bảo tồn các ĐVHD trong tự nhiên, tránh tình trạng ĐVHD tự nhiên thành vật gây nuôi, giết thịt tràn lan, thiết nghĩ tỉnh cần quan tâm hơn nữa đến các hoạt động này. Đặc biệt là các quy định pháp luật về quản lý và phổ biến, giáo dục pháp luật để đảm bảo điều kiện chăn nuôi an toàn nhằm nâng cao nhận thức cho các cơ sở, hộ gia đình và các trại nuôi. Ngoài ra, cũng cần hỗ trợ để người nuôi có đầu ra bền vững, tránh bị thương lái ép giá như hiện nay, bởi về tính chất, người chăn nuôi ĐVHD quý hiếm không thể mang đi bán tự do như các loài động vật thông thường. (Báo Bạc Liêu 3/7) đầu trang(
Cuối tháng 6/2015, Sở Nông nghiệp và PTNT, Chi cục Kiểm lâm đã phối hợp Phòng PC 64 - Công an tỉnh tổ chức 3 lớp tập huấn quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách trên địa bàn tỉnh.
Tham dự có trên 150 học viên thuộc lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách trên địa bàn tỉnh. Tại lớp tập huấn,  các học viên được truyền đạt lý thuyết và thực hành về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Kết quả học tập được thể hiện qua bài kiểm tra viết của từng học viên tham dự, đồng thời làm căn cứ để cấp giấy chứng nhận.
Tính đến nay, đã có trên 300 cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ bảo vệ rừng chuyên trách đã hoàn tất chương trình tập huấn về quản lý và sử dụng công cụ hỗ trợ. (Báo Bình Thuận 3/7) đầu trang(
3.7, Chi cục Kiểm lâm Quảng Ngãi đã bàn giao cá thể voọc chà vá chân xám (khoảng 1 năm tuổi, nặng gần 1 kg) cho Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp Cúc Phương.
Con voọc này được anh Đinh Văn Quảng, ở xã Ba Vì, huyện miền núi Ba Tơ, trong lúc đi làm rẫy ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum phát hiện, bắt giữ khi voọc đu bám trên cành cây trong tình trạng kiệt sức.
Sau khi đem về nhà chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Quảng mới biết đây là động vật quý hiếm nên giao lại cho Hạt kiểm lâm Ba Tơ.
Theo Hạt kiểm lâm Ba Tơ, từ năm 2005 đến nay, người dân huyện Ba Tơ đã tự nguyện giao nộp 4 cá thể voọc chà vá chân xám cho cơ quan chức năng cứu hộ, chăm sóc.
Voọc chà vá chân xám là loài voọc quý hiếm thuộc nhóm 1B, có tên trong sách Đỏ Việt Nam. (Tin Tức + Người Lao Động + Nhân Dân + Nông Thôn Ngày Nay 4/7; VnExpress + Vietnam+ 3/7) đầu trang(
Khoảng 20 giờ ngày 4-7, tại núi Thiên Nhân, xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) đã xảy ra cháy rừng thông.
Sau khi nhận được thông tin, Ban CHQS huyện Hương Sơn, đã huy động gần 100 cán bộ, chiến sĩ gồm dân quân các xã: Sơn Hòa, Sơn An và Sơn Tiến cùng nhân dân địa phương tổ chức chữa cháy.
Sau hơn một ngày nỗ lực dập lửa, các lực lượng và nhân dân trên địa bàn đã dập tắt đám cháy rộng gần 4ha, bảo vệ an toàn cho hàng trăm héc-ta rừng thông trên núi và tài sản của người dân. (Quân Đội Nhân Dân 5/7) đầu trang(
Hàng trăm héc ta rừng cây tự nhiên lâu năm tại huyện Lệ Thủy, nơi được đánh giá có độ che phủ tốt, đã được UBND Quảng Bình giao cho Tổng công ty 15 trồng cây cao su; nhiều diện tích rừng đã bị chặt hạ khiến người dân địa phương lo lắng.
Theo quyết định thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và cho Tổng công ty 15 thuê trồng cao su của UBND tỉnh, tổng diện tích chuyển đổi hơn 300 ha thuộc địa bàn 3 xã: Kim Thủy, Ngân Thủy và Lâm Thủy, thời hạn sử dụng đến năm 2065. Xã Lâm Thủy có diện tích chuyển đổi lớn nhất với hơn 231 ha. Đây cũng là địa bàn rừng có độ che phủ tốt với hệ thống cây cổ thụ, cây nhiều tầng. Theo hồ sơ thiết kế khai thác tận dụng gỗ tại đây, tổng số cây phải chặt là 10.729 cây có đường kính từ 25 cm trở lên, sản lượng gỗ thương phẩm hơn 4.402 m3.
Dư luận địa phương đồng tình với chủ trương chuyển đổi đất rừng nghèo kiệt sang sản xuất kinh tế tạo giá trị. Tuy nhiên, điều khiến nhiều người băn khoăn là có nên đổi khu vực rừng có độ che phủ tốt lấy cao su khi hiệu quả kinh tế của cao su rất thấp, ảnh hưởng đến môi trường, vấn đề giữ nước, mưa lũ... ra sao?
Thanh Niên đã đi thực tế vào khu vực thực hiện dự án. Đường rất khó đi, lởm chởm đá, phải lội qua mười mấy con suối đầy nước, hướng nước chảy đều từ vị trí thực hiện dự án, chứng tỏ rừng ở đấy giữ nước cực kỳ tốt, điều này rất quan trọng khi Quảng Bình đang đối mặt với khô hạn.
Đi gần 1 tiếng đồng hồ, băng qua bản Bạch Đàn, chúng tôi đến được vị trí khai thác. Khu vực này cây cối xanh tốt, nhiều cây gỗ cổ thụ có đường kính hơn 50 cm nằm chất từng đống. Lần theo tiếng máy cưa và con đường mới mở, chúng tôi ra được đường dẫn lên bản Eo Bù Chút Mút (đường 16).
Vừa ra đến đường, đập vào mắt chúng tôi là những bãi gỗ khổng lồ với những cây gỗ tròn rất lớn và dài nằm la liệt; hầu hết gỗ có đường kính 40 cm trở lên, có những cây đường kính lớn hơn sải tay. Càng đi vào trong càng có nhiều gỗ lớn chất hai bên đường, gỗ để dọc đoạn đường dài mấy cây số. Những người dân địa phương dẫn đường cho chúng tôi cũng hết sức ngạc nhiên trước lượng gỗ khủng đến như thế. Một thanh niên nói: “Lâu nay người dân bị cấm vào rừng khai thác, giờ thì công ty được phép. Khu vực này gần Lào rồi. Mùa mưa, vùng này mưa cực lớn, lũ cuốn và gây sạt lở đường nghiêm trọng; từ giờ các bản dân cư phía trong sẽ đối mặt với nhiều nguy hiểm. Chúng tôi lo lắm”.
Trên thực tế, giá mủ cao su rớt liên tục từ 3 năm nay và đang ở mức thê thảm khiến nhiều người trồng cao su trên khắp các tỉnh thành lao đao, phải chặt bỏ. Vì vậy, nhiều người cho rằng vấn đề được mất giữa bảo tồn phát triển rừng vì môi trường với hiệu quả kinh tế rất thấp của cao su rất cần được cân nhắc. (Thanh Niên 4/7) đầu trang(
Khoảng 12h trưa ngày 4/7, tại xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương (Nghệ An) đã xảy ra vụ cháy lớn tại rừng thông trên 30 năm tuổi của địa phương. Đây là lần thứ 2 cánh rừng này bị cháy do nắng nóng.
Chiều tối 4/7, tin nhanh từ UBND xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương (Nghệ An) cho biết, đến thời điểm hiện tại, lực lượng chức đã cơ bản khống chế đám cháy.
Theo tin tức, vào trưa ngày 4/7, tại xóm 8B, xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương bất ngờ xảy ra vụ cháy rừng thông trên 30 năm tuổi. Đám cháy bắt đầu từ sườn núi phía Bắc, sau đó lan rộng đe doạ các nhà dân nằm dưới chân núi. Do thời tiết nắng nóng, gió mạnh, nên chỉ trong vòng hơn 1 giờ đồng hồ, ngọn lửa lan đi rất nhanh.
Nhận tin báo, chính quyền xã Thanh Chi đã huy động dân quân tự vệ, công an kịp thời có mặt giúp người dân chữa cháy.
Giữa trưa nắng nóng cùng với lớp lá mục dưới gốc thông vài chục năm tuổi đã khiến cho công tác chữa cháy không hiệu quả. Hơn nữa, do địa hình phức tạp, việc vận chuyển nước phục vụ cho việc chữa cháy gặp nhiều khó khăn, lực lượng chức năng phải dùng vỉ sắt hoặc các cành cây để dập lửa.
Đến 14h cùng ngày, đám cháy mới hoàn toàn bị dập tắt. Khoảng 2,5ha rừng thông đã bị thiêu rụi.
Đây là lần thứ 2 tại khu rừng này xuất hiện đám cháy. Trước đó, vào lúc 11h30 ngày 12/6, đã xảy ra vụ cháy lớn, làm cháy trụi nhiều ha diện tích rừng thông của địa phương. Sau khoảng 3 giờ đồng hồ nỗ lực cứu rừng, đám cháy cơ bản được khống chế. (Người Đưa Tin 5/7) đầu trang(
Trung tâm giáo dục thiên nhiên Việt Nam (gọi tắt là ENV) vừa phối hợp với UBND TP.Biên Hòa tổ chức buổi sinh hoạt chuyên đề về thực trạng tiêu thụ động vật hoang dã tại Việt Nam và cùng hành động.
Tại buổi sinh hoạt có gần 100 cán bộ các phòng, ban và đại diện 30 phường, xã trên địa bàn TP đã được phổ biến về tình hình săn bắt trộm các loại động vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam.
Theo ENV, hiện còn một bộ phận không nhỏ người dân vẫn tin vào những công dụng của các sản phẩm từ động vật hoang dã. Điều này đã gây khó khăn trong việc gìn giữ và bảo tồn các loại động vật quý hiếm của Việt Nam.
Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng phải cùng hành động để thay đổi nhận thức và hành vi của người dân về động vật hoang dã nhằm ngăn chặn và giảm thiểu thực trạng săn bắn động vật hoang dã trái phép tại Việt Nam.
Theo thống kê của ENV, từ khi thành lập đến nay đã có gần 8.000 tin báo đến Trung tâm về việc săn bắt trái phép động vật hoang dã. Từ thông tin này, Trung tâm phối hợp cùng các địa phương đã kịp thời can thiệp, ngăn chặn các vụ việc xâm hại đến động vật hoang dã. (Đài PTTH Đồng Nai 5/7) đầu trang(
Lúc 16h chiều ngày 4/7, trên sườn núi Xuân Vân thuộc tổ 15, khu vực 3, phường Ghềnh Ráng, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã xảy ra vụ cháy làm thiêu rụi một diện tích khá lớn rừng Bạch đàn.
Nhận được tin báo, cơ quan chức năng đã kịp thời huy động gần 100 cán bộ, chiến sĩ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh Bình Định, Công nhân Lâm trường Quy Nhơn, Kiểm lâm Quy Nhơn, Công an Quy Nhơn, Quân đội, Dân quân tự vệ phường đội Ghềnh Ráng, Công ty Cổ phần Sài Gòn Quy Nhơn tham gia chữa cháy. Sau hơn một giờ đồng hồ tích cực cứu chữa ngọn lửa đã được khống chế hoàn toàn.
Nguyên nhân vụ cháy được xác định là do người dân thiếu cẩn thận trong khi đốt vàng mã tại khu vực rừng Bạch Đàn. Hiện toàn tỉnh Bình Định đang trải qua thời kỳ khô hạn, nắng nóng gay gắt nhất trong năm. (Tầm Nhìn 4/7) đầu trang(
Ông Phạm S - PCT UBND tỉnh Lâm Đồng đã có buổi làm việc với các sở ngành và các địa phương liên quan đến tình hình, kết quả giải quyết đối với việc phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp tại tiểu khu 26, 27 thuộc địa bàn huyện Lạc Dương.
Tại tiểu khu 26, 27  có một số hộ dân thuộc địa bàn xã Đạ Long huyện Đam Rông  đến dựng chòi và trồng hoa màu  trên diện tích gần 16 ha với lý do đòi quay về làng cũ vì thiếu đất sản xuất nông nghiệp mặc dù UBND tỉnh Lâm Đồng đã bố trí 20 ha đất sản xuất cho các hộ này ngay tại xã Đạ Long, đồng thời hỗ trợ bò, cho vay vốn sản xuất nhưng các hộ dân này không hợp tác. Trong thời gian qua các cấp, các ngành, chính quyền hai huyện Đam Rông và Lạc Dương đã vào hiện trường tuyên truyền vận động với nhiều hình thức.
Bên cạnh đó, Vườn quốc gia  Biduop Núi Bà đã phối hợp với chi cục kiểm lâm hoàn thiện chứng cứ, củng cố hồ sơ vi phạm của các đối tượng, phối hợp với công an tỉnh tổ chức họp thống nhất hướng xử lý. Mặt khác đơn vị chủ rừng này đã chuẩn bị các điều kiện để trồng lại rừng trên diện tích bị lấn chiếm, chuẩn bị các hợp đồng về trồng rừng, giao khoán bảo vệ rừng, đến nay đã có 7 hộ nhận giao khoán để quản lýbảo vệ 350 ha tại tiểu khu 26,27, tuy nhiên vẫn còn 34 hộ ở lại tiểu khu 26,27 để sản xuất nông nghiệp và không nhận rừng để bảo vệ.
Tại cuộc họp, các cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng đã đưa ra các giải pháp  tuyên truyền vận động cùng với các chính sách bố trí đất sản xuất, đất ở mới tại xã Đạ Long – huyện Đam Rông, đồng thời hỗ trợ  cây trồng, hướng dẫn kỹ thuật để nhân dân phát triển sản xuất ở diện tích đất được bố trí.  Riêng đối với một số hộ vẫn không chịu nhận đất cố tình bám trụ lại tiểu khu 26, 27 các cơ quan chức năng sẽ có các biện pháp giải quyết dứt điểm không để tình trạng này tiếp diễn trong thời gian tới.  Phát biểu tại buổi làm việc, ông Phạm S -  PCT UBND tỉnh Lâm Đồng đã ghi nhận những nỗ lực của các ngành, các địa phương trong quá trình tuyên truyền vận động, tìm hướng giải quyết tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất Lâm nghiệp tại huyện Lạc Dương.
Việc giải quyết dứt điểm tình trạng một số hộ dân xã Đạ Long huyện Đam Rông lấn chiếm đất lâm nghiệp tại tiểu khu 26, 27 là một công tác quan trọng mà các cấp các ngành cần quan tâm thực hiện nhằm bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, tránh tình trạng xâm hại tài nguyê rừng và đất lâm nghiệp ở địa phương. (Đài PTTH Lâm Đồng 3/7) đầu trang(
Trong 6 tháng đầu năm, Hạt Kiểm lâm huyện Minh Hóa đã phát hiện và xử lý 67 vụ vi phạm pháp luật bảo vệ, phát triển rừng; thu nộp ngân sách nhà nước hơn 360 triệu đồng.
Tổng số tang vật, phương tiện tạm giữ và tịch thu gồm: Gỗ các loại là 43,800m3; 50,5 kg động vật hoang dã, 45kg vai cây gió; 3 máy cưa xăng xách tay, 1 xe gắn máy. Lực lượng kiểm lâm cũng tiến hành đóng búa 47,384 m3 gỗ xử lý tịch thu.
Bên cạnh đó, Hạt Kiểm lâm huyện đã tiến hành kiểm tra thường xuyên việc khai thác gỗ của các hộ gia đình, cá nhân và các cơ sở chế biến lâm sản được UBND xã, huyện xác nhận cho phép khai thác. Kịp thời phát hiện, điều tra xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về rừng và bảo tồn thiên nhiên; tích cực phối hợp với các ban ngành của địa phương lồng ghép tổ chức tuyên truyền về công tác phát triển rừng, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở những địa bàn trọng điểm; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân làm tốt công tác trồng rừng, góp phần hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch trồng rừng năm 2015. (Báo Quảng Bình 3/7) đầu trang(
Tối 3/7, lãnh đạo Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) cho hay, trưa cùng ngày tại kỳ họp lần thứ 39 tại Bonn (Đức), với sự nhất trí hoàn toàn của các quốc gia thành viên Ủy ban di sản thế giới, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO lần thứ hai ghi danh vào danh sách di sản thiên nhiên thế giới.
Phong Nha - Kẻ Bàng được vinh danh ở hai tiêu chí, gồm: "là ví dụ nổi bật đại diện cho các tiến trình sinh thái trong sự tiến hóa và phát triển của các hệ sinh thái trên cạn", và "sở hữu môi trường sống tự nhiên có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học".
Dịp này, Ủy ban di sản thế giới cũng chấp thuận mở rộng Vườn quốc gia từ diện tích gần 86 nghìn ha lên hơn 123 nghìn ha. Đây là một trong 2 hồ sơ di sản thiên nhiên được duyệt trong tổng số 5 hồ sơ đệ trình lần này.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng có rừng nhiệt đới ẩm, còn tương đối nguyên vẹn trên núi đá vôi với độ che phủ chiếm 94%, trong đó 84% là rừng nguyên sinh.
Vườn có trên 2.934 loài thực vật bậc cao có mạch và hơn 800 loài động vật có xương sống, trong đó có nhiều loài nằm trong Sách đỏ của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và chỉ tồn tại một số nơi ở trên thế giới.
Mức độ đặc hữu ở khu vực này được xác định là cao với trên 400 loài thực vật của Việt Nam và 38 loài động vật của dãy Trường Sơn. Có nhiều loài mới được ghi nhận như bò cạp hang động, cá, thằn lằn, rắn, rùa. Đặc biệt quan trọng, ở đây có 4 phân loài linh trưởng đặc hữu đang bị đe dọa gồm: voọc Hà Tĩnh, phân loài voọc Hà Tĩnh, chà vá chân nâu, vượn đen má trắng.
IUCN đánh giá động thực vật ở Phong Nha - Kẻ Bàng có sự đa dạng cao nhất ở Việt Nam và rất cao so với các di sản thế giới các nước trong và ngoài khu vực.
Với những giá trị trên, Phong Nha - Kẻ Bàng là vườn quốc gia thứ ba châu Á và đầu tiên trong khu vực đạt 3 trên 4 tiêu chí dành cho một di sản thiên nhiên.
Việc vinh danh lần này khẳng định mức độ đa dạng, đặc hữu và toàn vẹn của thế giới tự nhiên tồn tại Phong Nha - Kẻ Bàng, đồng thời ghi nhận nỗ lực của nhà chức trách Việt Nam và tỉnh Quảng Bình trong nỗ lực quản lý, bảo tồn, nghiên cứu, thực thi pháp luật và nâng cao nhận thức cộng đồng tại đây.
12 năm về trước, Phong Nha - Kẻ Bàng lần thứ nhất được vinh danh di sản theo tiêu chí giá trị ngoại hạng về địa chất và địa mạo. (VnExpress + Người Lao Động + Thanh Niên + Tuổi Trẻ 4/7; Quân Đội Nhân Dân 3/7) đầu trang(
Huyện Tư Nghĩa có hơn 6.250ha rừng tự nhiên và rừng trồng sản xuất, trong đó có nhiều khu vực rừng trồng thuộc loại dễ cháy, nhất là vào những tháng mùa khô, nắng nóng kéo dài, có ngày nhiệt độ ngoài trời lên đến 38-400C nên nguy cơ xảy ra cháy rừng rất cao.
Trước tình hình nắng nóng kéo dài như hiện nay, lãnh đạo huyện Tư Nghĩa và Hạt Kiểm lâm huyện đã chỉ đạo chính quyền địa phương và các ban, ngành của huyện tăng cường thực hiện Quy chế phối hợp quản lý, bảo vệ rừng (BVR) giữa các lực lượng công an, quân đội, kiểm lâm trên địa bàn để chủ động trong công tác BVR và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR). Huyện đã kiện toàn Ban chỉ đạo, thành lập Đội xung kích, Tổ BVR, đồng thời huy động hộ trồng rừng liền kề tham gia BVR, PCCCR trong suốt thời gian mùa khô.
Mới đây, Tư Nghĩa đã tổ chức một lớp tuyên truyền Nghị định 157/2013/NĐ-CP “Quy định xử phạt hành chính về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản” cho 51 cơ sở kinh doanh chế biến gỗ và làm nghề mộc dân dụng, qua đó 100% cơ sở đã ký cam kết thực hiện. Huyện cũng đã tổ chức 2 lớp tập huấn BVR và PCCCR tại 2 xã Nghĩa Thuận và Nghĩa Thọ với sự tham gia của 129 chủ rừng. Qua tuyên truyền đã có 99 hộ tự nguyện ký cam kết không để xảy ra phá rừng, cháy rừng.
Bên cạnh đó, Hạt Kiểm lâm huyện còn tổ chức 20 lần tuyên truyền công tác BVR, PCCCR bằng phương tiện lưu động. Đây là hình thức tuyên truyền đem lại hiệu quả cao trong công tác BVR và PCCCR. Ngoài ra, Hạt đã tu sửa hoàn thành 6 biển báo hiệu cấp dự báo cháy rừng, đưa vào sử dụng phục vụ cho việc cảnh báo cháy rừng. Xây dựng mới 1 bảng tuyên truyền trực quan và 1 biển báo hiệu cấp dự báo cháy rừng, in ấn nhiều băng rôn tuyên truyền về công tác PCCCR để cấp phát cho Ban chỉ đạo các xã. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí và tổ chức chỉ đạo xã Nghĩa Thắng thực hiện thành công cuộc diễn tập chữa cháy rừng cấp xã năm 2015 vào cuối tháng 5 vừa qua.
Qua kiểm tra công tác BVR và PCCCR tại 2 xã Nghĩa Thuận, Nghĩa Sơn (Hạt Kiểm lâm đã phối hợp với Đoàn Kiểm tra liên ngành của huyện) cho thấy các chủ rừng và chính quyền địa phương đã thành lập các tổ, đội, chủ rừng liền kề, xây dựng kế hoạch thực hiện phương án PCCCR, cũng như huy động kinh phí do các chủ rừng đóng góp để mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác chữa cháy rừng của địa phương.
Các địa phương này cũng đã thực hiện tốt công tác chỉ đạo điều hành, chuẩn bị lực lượng, dụng cụ, phân công trực báo 24/24 giờ trong những ngày cao điểm mùa khô để kịp thời báo cáo thông tin hàng ngày cho Ban chỉ đạo huyện (qua Hạt Kiểm lâm) để xử lý kịp thời. Nhờ những giải pháp đồng bộ, nên công tác BVR và PCCCR trên địa bàn huyện Tư Nghĩa được thực hiện tốt, từ đầu năm đến nay chưa có vụ cháy rừng nào xảy ra. (Báo Quảng Ngãi 3/7) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc áp dụng Điều 190 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời gian qua các tổ chức xã hội, cơ quan thực thi pháp luật và báo chí phản ánh việc xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến các loài động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định số 160/2013 còn gặp nhiều lúng túng và chủ yếu áp dụng hình thức xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm.
Tuy nhiên các hành vi vi phạm nêu trên sẽ áp dụng quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 quy định về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Chính vì vậy, để tăng cường thực hiện Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Nghị định số 160/2013 cũng như thực thi hiệu quả Điều 190 Bộ luật Hình sự sửa đổi và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND các địa phương chỉ đạo cơ quan thực thi pháp luật có liên quan triển khai, áp dụng đúng quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 đối với các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định 160/2013 của Chính phủ.
Theo đó, các hành vi săn bắt, giết, vận chuyển, nuôi, nhốt, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật đó phải truy cứu trách nhiệm hình sự bất kể số lượng, khối lượng hay giá trị tang vật.
Đồng thời khuyến cáo các cơ quan chức năng tại địa phương không tiến hành bán đấu giá, phát mại đối với tang vật là các loài động vật hoặc sản phẩm của loài động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ bị thu giữ trong các vụ vi phạm pháp luật có liên quan.
Hướng dẫn các cơ quan thực thi pháp luật vận dụng và xử lý tang vật theo quy định tại Nghị định 160/2013: Các cá thể còn sống chỉ được phép tái thả lại nơi sinh sống tự nhiên phù hợp hoặc chuyển giao cho các trung tâm cứu hộ nếu ốm yếu hoặc bị thương; các cá thể chết trong quá trình cứu hộ sẽ được chuyển giao cho cơ quan khoa học, cơ sở đào tạo, giáo dục môi trường, bảo tàng chuyên ngành để nghiên cứu, lưu giữ, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng hoặc tiêu hủy đối với các cá thể bị chết do bệnh dịch hoặc không thể xử lý được bằng biện pháp nói trên. (Dân Trí 4/7) đầu trang(
Nạn buôn bán trái phép động vật hoang dã (ĐVHD) hiện đang là một vấn đề “nóng” được cả thế giới quan tâm.
Tại Hội nghị London về nạn buôn bán trái phép ĐVHD tổ chức cuối năm 2014, trước đại diện cấp cao từ 46 quốc gia và 11 tổ chức quốc tế, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vương quốc Anh đã nhấn mạnh tính cấp thiết của việc bảo vệ ĐVHD và sự cần thiết phải ngăn chặn nạn săn bắt buôn bán ĐVHD trên phạm vi quốc tế.
Vị lãnh đạo của Vương quốc Anh cho rằng, nạn buôn bán động vật hoang dã là một ngành công nghiệp tội phạm xuyên quốc gia, sánh ngang với tội phạm về ma túy, vũ khí và buôn bán người.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tình trạng săn bắt và buôn bán ĐVHD vô cùng phức tạp.
Các mạng lưới buôn bán ĐVHD lớn không chỉ hoạt động trong nước và khu vực mà còn vươn xa sang nhiều quốc gia và châu lục khác trên thế giới, điển hình là châu Phi.
Theo ENV, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự “lộng hành” của các đường dây buôn bán ĐVHD lớn tại Việt Nam là do tội phạm liên quan đến ĐVHD vẫn chưa được coi là loại hình tội phạm nghiêm trọng.
Bộ luật Hình sự của Việt Nam hiện nay có những chế tài xử lý rất nghiêm khắc đối với nhóm tội phạm về ma túy, vũ khí và buôn bán người nhưng ngược lại, chế tài xử lý tội phạm về ĐVHD vẫn chưa thực sự phản ánh được tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (BLHS), hình phạt cao nhất cho loại tội phạm về ĐVHD là 7 năm tù.
Tuy nhiên trên thực tế, trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013, chỉ có khoảng 6% tổng số vi phạm được đưa ra xét xử  với mức phạt phổ biến là cải tạo không giam giữ và tù treo.
Mặc dù tình trạng săn bắt ĐVHD ở Việt Nam diễn ra vô cùng phức tạp và nhiều vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng nhưng tổ chức này chỉ ghi nhận duy nhất 1 trường hợp bị cáo phải nhận mức án cao nhất 7 năm tù theo quy định của BLHS.
Dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi đối với điều 241 quy định mức tối đa của khung hình phạt cho loại tội phạm này là 15 năm tù.
Đây là một sự thay đổi rất tích cực và nếu được thông qua sẽ có ý nghĩa lớn trong việc răn đe các đối tượng vi phạm.
Tuy nhiên theo đánh giá của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), một số nội dung của Điều 241 Dự thảo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm nghiêm trọng này. Một số thay đổi còn được xem là “yếu” hơn quy định tại Điều 190 BLHS hiện nay.
Tổ chức ENV đưa ra dẫn chứng, theo Điều 190 BLHS (sửa đổi năm 2009) thì các vi phạm được liệt kê trong điều luật này đều bị xem xét xử lý hình sự bất kể số lượng, khối lượng hay giá trị tang vật.
Tuy nhiên, Điều 241 Dự thảo lại chỉ quy định những vụ việc “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc đối tượng tái phạm mới bị xem xét xử lý hình sự.
Việc đưa thêm khái niệm “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “trường hợp tái phạm” trong cấu thành Điều 241 của Dự thảo BLHS là không cần thiết và dễ dẫn đến nguy cơ bỏ lọt nhiều tội phạm.
Một số vi phạm thường xuyên xảy ra, gây hậu quả nghiêm trọng cho đa dạng sinh học nhưng vẫn không bị xem xét xử lý hình sự như hành vi “lưu giữ” và “chế biến”: Điều 190 BLHS hiện nay cũng như Điều 241 Dự thảo không có quy định về hành vi “lưu giữ” và “chế biến” ĐVHD. Trong chuỗi hành vi từ săn bắt các loài ĐVHD từ tự nhiên đến khi đưa các sản phẩm bất hợp pháp này đến tay người tiêu dùng tất yếu sẽ có giai đoạn “lưu giữ” và/hoặc “chế biến”.
Xét đến cùng, mức độ nghiêm trọng của những hành vi này là tương tự như nhau vì cùng “lấy đi” các cá thể ĐVHD nguy cấp ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng, ảnh hưởng đến sự tồn tại của toàn bộ quần thể loài này trong tự nhiên.
Tuy nhiên, trong khi BLHS có quy định các hành vi “săn, bắt, giết, vận chuyển, nuôi nhốt, buôn bán”, các hành vi “lưu giữ” và “chế biến” lại không được ghi nhận là các hành vi nguy hiểm cho xã hội và do đó không được xử lý bằng chế tài nghiêm khắc này.
Chỉ hành vi vi phạm đối với các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ mới bị xử lý hình sự. ENV cho rằng, đây là một lỗ hổng lớn vì vi phạm liên quan đến các loài không phải là loài “nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ” thì dù số lượng vi phạm lớn đến đâu và gây hậu quả nghiêm trọng như thế nào cũng chỉ bị xử lý hành chính.
Bà Bùi Thị Hà – Phó Giám đốc ENV đã chia sẻ: “Lợi nhuận từ buôn bán ĐVHD ngang hàng với ma túy và vũ khí. Vì thế, chỉ có chế tài hình sự nghiêm khắc mới có thể làm giảm thiểu tình trạng săn bắt, buôn bán ĐVHD và bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam”.
Tổ chức này mong các nhà xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách xem xét thận trọng các quy định tội phạm về ĐVHD, kế thừa những điểm tích cực trong quy định hiện hành tại Điều 190 Bộ luật Hình sự (2009) và hoàn thiện quy định này phù hợp với thực tế thực thi để chế tài hình sự trở thành một công cụ nghiêm khắc răn đe, phòng ngừa loại tội phạm nghiêm trọng này. (VOV 5/7) đầu trang(
Sau 2 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu, cuối tuần qua, Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị sơ kết và nhân rộng những mô hình điển hình nhằm tìm ra những lợi thế đưa ngành lâm nghiệp thực sự bứt phá.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Bá Ngãi, qua hai năm triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, giá trị SX ngành tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt bình quân 6,57%/năm, tăng so với 5,03% giai đoạn 2010-2012, vượt mục tiêu đề án đề ra. Đây là mức tăng trưởng cao nhất của ngành từ trước đến nay, ước cả năm đạt 9-10%. Giá trị XK đồ gỗ và lâm sản tăng trưởng mạnh, gấp hơn 2 lần trong vòng 5 năm từ 3,035 tỷ/năm giai đoạn 2010-2012 lên 6,267 tỷ USD/năm giai đoạn 2013 đến nay.
Trong 6 tháng đầu năm, trong bối cảnh thị trường quốc tế diễn biến phức tạp nhưng XK gỗ và lâm sản vẫn tiếp tục tăng, đạt 2,691 tỷ USD (tính đến ngày 15/6), tăng 8,0% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, tỷ trọng hàng chế biến tinh chiếm khoảng 85%. Dự báo, kim ngạch XK năm 2015 đạt khoảng 7-7,2 tỷ USD. Công tác trồng rừng tiếp tục được các địa phương tích cực triển khai, bình quân hàng năm cả nước trồng được trên 200.000 ha rừng tập trung, trong đó 90% là rừng SX. Dịch vụ môi trường thực sự trở thành nguồn tài chính quan trọng bền vững của ngành lâm nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng, tăng thu nhập cho người dân làm nghề rừng, tạo nguồn tài chính bền vững, giảm áp lực chi ngân sách nhà nước. 22/60 tỉnh có rừng đã có 57 mô hình cho thu nhập cao trên 100 triệu đồng/ha/năm.
Tại Hội nghị sơ kết hai năm thực hiện đề án tái cơ cấu lâm nghiệp cũng chỉ ra khá nhiều hạn chế, điển hình là việc triển khai thực hiện Đề án chưa đồng bộ. Nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm, triển khai chậm, thậm chí còn lúng túng. Đến nay, còn 25 tỉnh/thành phố chưa phê duyệt Đề án/kế hoạch hành động tái cơ cấu ngành lâm nghiệp tại địa phương mình. Kết quả tái cơ cấu trong thực tiễn mới chỉ là bước đầu và chưa tạo được chuyển biến rõ rệt, tăng trưởng của ngành chưa vững chắc. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức SX còn chậm, kinh tế hộ nhỏ lẻ ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Đặc biệt các lâm trường quốc doanh/công ty lâm nghiệp Nhà nước đổi mới rất chậm… Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những yếu kém chủ quan như nhận thức về tái cơ cấu ngành, cách tiếp cận trong nhiều lĩnh vực chậm thay đổi, tư duy cũ vẫn ảnh hưởng ở nhiều lĩnh vực của ngành.
Hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật của các tổ chức Nhà nước hiệu quả chưa cao trong khi sự tham gia của doanh nghiệp, sự liên kết giữa các tổ chức Nhà nước và doanh nghiệp còn hạn chế…
Cũng theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Bá Ngãi, thực hiện kế hoạch nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến, đẩy mạnh phát triển rừng gỗ lớn của Bộ NN-PTNT, bước đầu đã đạt được một số kết quả tại một số địa phương. Cụ thể, trong 5 tháng đầu năm, mặc dù sản lượng gỗ khai thác tăng khoảng 13% so với cùng kỳ năm 2014, nhưng lượng dăm gỗ XK giảm khoảng 15%, trong đó chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Một số tỉnh trọng điểm XK dăm gỗ đã ban han hành kế hoạch ngừng SX dăm gỗ XK từ năm 2015 (Bình Định) nhằm tạo nguyên liệu gỗ lớn cho SX, chế biến sản phẩm gỗ XK. Một số doanh nghiệp đã đầu tư SX sản phẩm XK từ phế liệu, mùn cưa, dăm gỗ như viên nén năng lượng (Cty CP Thương mại Quảng Trị, Cty Lâm nghiệp Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh).
Ngoài ra, Bộ NN-PTNT đã đồng ý xây dựng dây chuyền hai của Nhà máy ván MDF của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam tại tỉnh Bình Phước nhằm sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng, gỗ cao su tại khu vực Đông Nam bộ. Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Phúc Cường - Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Yên Bái cho rằng, trong Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong thời gian tới ngoài việc tập trung phát triển rừng gỗ lớn, phát triển các cây lâm sản ngoài gỗ cần chú trọng nâng cao hơn nữa giá trị của rừng, đặc biệt là mức hỗ trợ cho các hộ dân chăm sóc, bảo vệ rừng.
Bởi ngay như tại Yên Bái hiện nay, 1 ha một năm người dân được trả 300.000 đồng tiền bảo vệ, mỗi hộ bình quân quản lí khoảng 10 ha thì một năm chỉ được có 3 triệu đồng, giá trị chỉ bằng một con lợn cắp nách. Do đó, ngành nông nghiệp Yên Bái phải xây dựng ngay 2 đề án phát triển cây sơn tra để nâng thu nhập của người dân lên 5-7 triệu đồng/ha mới mong đảm bảo thu nhập cho người dân sống dựa vào rừng.
Còn ông Nguyễn Công Nông - Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Tuyên Quang cho biết, sau hai năm thực hiện tái cơ cấu tỉnh Tuyên Quang đã quy hoạch tổng thể và xác định được vùng kinh doanh gỗ lớn trên 11.000 ha. Hiện đã thí điểm tại 5 công ty lâm nghiệp của tỉnh, riêng năm 2014, trồng 40 ha rừng gỗ lớn, đang tiếp tục nghiên cứu chuyển đổi 20 ha rừng gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn.
Bên cạnh đó, tỉnh kiên quyết loại bỏ nguồn giống kém chất lượng đồng thời tiến hành xúc tiến hoạt động chuyển giao công nghệ SX giống keo lai bằng phương pháp nuôi cấy mô để đưa vào trồng rừng SX đại trà sẽ là cuộc cách mạng lớn cho tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, các tỉnh miền núi như Tuyên Quang rất mong được Chính phủ, Bộ NN-PTNT hỗ trợ chuyển giao, SX thành công phương pháp nuôi cấy mô ra diện rộng.
Xác định tái cơ cấu ngành nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế, xã hội tỉnh trong giai đoạn đoạn 2014-2020, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Tĩnh Nguyễn Bá Thịnh chia sẻ, ngay từ năm 2013 tỉnh Hà Tĩnh đã quyết liệt, tập trung chỉ đạo bằng việc ban hành một loạt chính sách hỗ trợ. Điển hình là việc định hướng bà con nông dân chuyển đổi từ trồng rừng thâm canh gỗ nhỏ sang trồng gỗ lớn, đến nay đã trồng được 200 ha và trong năm 2015 này tiếp tục trồng thêm 250 ha. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh đã xây dựng được 33 mô hình SX lâm nghiệp hiệu quả, doanh thu từ 100 triệu đồng trở lên, gồm 11 mô hình rừng SX, 19 mô hình nông lâm kết hợp và 3 mô hình lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác, tỉnh Hà Tĩnh đang gặp khó khăn trong việc bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ và thu hút doanh nghiệp đầu tư.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đánh giá cao nỗ lực của ngành lâm nghiệp trong hai năm qua. Bộ trưởng lưu ý ngành lâm nghiệp phải lấy thị trường hội nhập quốc tế làm định hướng phát triển. Giờ thực hiện gì cũng phải xác định, tính toán từ thị trường trở đi chứ không phải làm được đến đâu hay đến đó như những năm trước.
Thời gian tới, Bộ NN-PTNT sẽ chủ trì, phố hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan rà soát, đề xuất chính sách thuế trong lâm nghiệp, chú trọng đối với những mặt hàng lợi thế của Việt Nam như dăm gỗ XK và phát triển rừng gỗ lớn nhằm khuyến khích và thúc đẩy SX, kinh doanh lâm sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm sau chế biến. Xây dựng kế hoạch tiếp cận thị trường cho XK sản phẩm gỗ, trước mắt tập trung vào thị trường Nga và Hàn Quốc. Đặc biệt sẽ tiến hành xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa lâm sản của Việt Nam làm cơ sở để thực hiện các biện pháp điều hành của Nhà nước. (Nông Nghiệp VN + Dân Việt 6/7) đầu trang(
Theo Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Cao Chí Công, thời gian qua, nhiều cơ chế, chính sách đầu tư phát triển và bảo vệ rừng theo hướng xã hội hóa đã được hoàn thiện.
Nhờ đó, trong 5 năm trở lại đây, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đã tăng hơn 2 lần, từ 6 triệu m3 năm 2009 tăng lên khoảng 17 triệu m3 trong năm 2014. Ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có những bước phát triển đột phá, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 219 triệu USD năm 2000 đã tăng lên 5,5 tỷ USD năm 2013 và 6,3 tỷ USD năm 2014.
Năm 2000 cả nước có 196.000ha rừng trồng thì đến năm 2014 đã có khoảng 3,5 triệu héc ta rừng trồng, trong đó rừng trồng sản xuất đạt khoảng 2,7 triệu héc ta, cùng với sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp chế biến gỗ, cụ thể:
Năm 2014, tổng khối lượng gỗ sử dụng tại Việt Nam khoảng 21 triệu m3 để làm nguyên liệu cho chế biến tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong đó lượng gỗ khai thác từ rừng trồng, cây phân tán và gỗ cao su trong nước đạt khoảng 17 triệu mét khối, gỗ nhập khẩu khoảng 4 triệu mét khối gỗ quy tròn. Về cơ cấu sử dụng gỗ nguyên liệu: dùng chế biến đồ gỗ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước khoảng 7 triệu mét khối; sản xuất ván nhân tạo, bột giấy khoảng 2 triệu mét khối; sản xuất dăm gỗ xuất khẩu khoảng 12 triệu mét khối, tương ứng khoảng 6 triệu tấn sản phẩm.
Về nhu cầu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ khá lớn, đặc biệt là gỗ rừng trồng có kích thước lớn và có chứng chỉ để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 4 triệu mét khối gỗ quy tròn, trong đó có tỷ lệ khá lớn gỗ có chứng chỉ từ các nước như Mỹ, Malaysia, Newzealand, Chi lê, Đức, Phần Lan. Do vậy, hiện tại và trong tương lai ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam vẫn tiếp tục có nhu cầu lớn về gỗ rừng trồng có kích thước lớn, đường kính từ 15cm trở lên và chứng chỉ để phục vụ cho sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Trước năm 2000, lượng gỗ nguyên liệu trong nước chiếm tỷ trọng rất lớn và chủ yếu là gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên trong nước rất cao: có năm đã đạt tới 1,8 triệu mét khối gỗ tròn. Thì những năm 2000 - 2004, lượng gỗ nguyên liệu khai thác trong nước cho công nghiệp chế biến bắt đầu giảm. Cụ thể, năm 2004 lượng gỗ nguyên liệu khai thác trong nước là 300.000m3 và năm 2005 giảm xuống 150.000m3.
Theo kế hoạch, lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước năm 2008 là 180.000m3. Nếu tính cả lượng gỗ khai thác do xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi và hạ tầng cơ sở khác thì tổng lượng khai thác từ rừng tự nhiên của Việt Nam một năm vào khoảng 100.000m3 - 300.000m3/năm. Số lượng này chỉ đáp ứng 10% nhu cầu, 90% còn lại phải nhập khẩu và gỗ rừng trồng trong nước.
Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động trồng rừng, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng của Việt Nam trong những năm qua đã có những sự tăng trưởng khá, mức tăng trưởng về sản lượng khai thác tính bình quân là trên 10%/năm. Nguồn gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước ngày càng đóng góp vai trò quan trọng trong ngành chế biến gỗ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Trong 3 năm 2006 đến 2008, các doanh nghiệp đã phải chi ra tới hơn 2,7 tỷ USD, tương đương 41,5% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ, để nhập nguyên liệu.    Trong những năm gần đây, tỷ trọng giữa giá trị kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ so với kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ có xu hướng giảm dần do rừng trồng trong nước đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của công nghệp chế biến. Hiện nay, ngành gỗ đặt ra mục tiêu tới năm 2020 nguồn gỗ trong nước đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu nguyên liệu chế biến, với sản lượng khoảng 22 triệu mét  khối gỗ/năm.
Xuất khẩu đồ gỗ hiện đứng vị trí thứ 6 trong 10 ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trên bình diện thế giới, Việt Nam là nước xuất khẩu đồ gỗ đứng thứ 5, vị trí thứ hai trong châu Á và thứ nhất Đông Nam Á.
Doanh số xuất khẩu năm 2009 của 70 nước được Trung tâm Nghiên cứu các ngành công nghiệp CSIL của Ý cho biết là 96,7 tỷ USD, trong đó thị phần của Việt Nam đạt khoảng 2,7%. Hiện nay sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng. Tính chung giai đoạn 2001 - 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ bình quân đạt 27,1%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch chung cả nước. Hiện nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới đang ngày một tăng, sản phẩm gỗ được coi là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới.
Theo Nghị quyết của Hội nghị TƯ VII, Khóa XI và Quyết định của Chính phủ thì từ năm 2014 - 2020 sẽ tạm dừng khai thác chính gỗ từ rừng tự nhiên trong nước, trừ những công ty lâm nghiệp đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, một số làng nghề gỗ mỹ nghệ, cơ sở sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ dùng nguyên liệu gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước sẽ bị ảnh hưởng do nguồn cung nguyên liệu gỗ từ rừng tự nhiên trong nước không còn và sẽ phải tìm nguồn khác thay thế như gỗ nhập khẩu, gỗ từ rừng trồng trong nước.
Cùng với đó gỗ nhập khẩu sẽ phải tuân thủ các quy định của Chính sách thương mại quốc tế. Bởi các nước như Mỹ, EU khi nhập khẩu sản phẩm gỗ yêu cầu các nước xuất khẩu phải bảo đảm sản phẩm gỗ được sản xuất từ nguồn gỗ nguyên hợp pháp hoặc gỗ có chứng chỉ, ví dụ như Luật LACEY của Mỹ hay Quy định FLEGT của Liên minh châu Âu. Việc thực thi các chính sách thương mại quốc tế này sẽ đẩy giá gỗ nguyên liệu, đặc biệt là gỗ có chứng chỉ FSC, PEFC tăng lên, trong khi giá bán sản phẩm không tăng theo tương ứng.
Bên cạnh đó, gỗ rừng trồng trong nước tuy diện tích rừng trồng đã tăng lên đáng kể nhưng chất lượng rừng chưa cao do năng suất rừng trồng còn thấp, chất lượng gỗ chưa tốt: đường kính cây gỗ quá nhỏ, phân cành sớm, nhiều mắt chết… Do chất lượng cây gỗ chưa tốt nên khối lượng gỗ rừng trồng trong nước sử dụng để sản xuất đồ gỗ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất thấp chỉ dưới 30% so với tổng sản lượng gỗ khai thác hàng năm, do vậy phần lớn lượng gỗ khai thác rừng trồng được dùng để sản xuất dăm gỗ xuất khẩu, lợi nhuận rất thấp.
Lâm sản ngoài gỗ lâu nay ít được quan tâm đầu tư nên tài nguyên lâm sản ngoài gỗ đã cạn kiệt sẽ rất khó đạt được chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ đạt 800 triệu USD/năm vào năm 2020. Hiện nay, cả nước có trên 400 làng nghề gỗ, nhưng công nghệ chế biến lạc hậu, thủ công là chủ yếu nên việc sử dụng nguyên liệu còn lãng phí và gây ô nhiễm môi trường.
Cơ hội mà ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản cần tận dụng đầu tiên là cơ chế chính sách đầu tư phát triển rừng mà Nhà nước đã và sẽ ban hành. Cụ thể, chính sách giao đất, giao rừng cho dân đã thu hút hơn 1 triệu hộ gia đình và trồng được gần 2 triệu héc ta rừng. Đặc biệt là chương trình 327 và dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010 và hiện tại là Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 theo Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 09/11/2012 của Thủ tướng đã và đang góp phần rất lớn để bảo vệ và phát triển rừng nhằm tăng độ che phủ rừng đạt khoảng 45% vào năm 2020.
Thứ hai, cần tận dụng nguồn vốn vay ODA để góp phần thực hiện có hiệu quả các dự án trồng, khôi phục rừng và nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý lâm nghiệp các cấp để thực hiện thành công Chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia giai đoạn  2006 - 2020.  Cụ thể, tổng vốn ODA hỗ trợ quốc tế huy động cho ngành lâm nghiệp giai đoạn 2005 - 2020 khoảng 560 triệu USD.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã giúp cho ngành công nghiệp gỗ Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển. Sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt trên 100 quốc gia trên thế giới và đang có xu hướng mở rộng thị trường. Các doanh nhân gỗ Việt Nam đã và sẽ có cơ hội để nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, luật pháp quốc tế và ngoài ngữ. Trong tương lai Việt Nam sẽ ký Hiệp định TPP và FTA với EU, các doanh nghiệp gỗ Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng lợi từ giảm thuế, thu hút được nhiều vốn FDI, tiếp cận được nhiều quốc gia phát triển theo đó sẽ tạo nên phong cách làm việc chuyên nghiệp và có trách nhiệm xã hội cao. (Đại Biểu Nhân Dân 3/7) đầu trang(
Sáng 4/7, Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội làm việc với UBND thành phố Hà Nội về tình hình thực hiện chính sách pháp luật đất đai tại các nông, lâm trường quốc doanh giai đoạn 2004-2014.
Theo báo cáo của thành phố, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp của Hà Nội là 28.851 ha, trong đó diện tích đất có rừng là 24.301 ha, rừng trồng mới là 227ha. Hạn chế lớn nhất trong quản lý đất lâm nghiệp thời gian qua là việc buông lỏng quản lý trong quá trình cổ phần hóa các nông, lâm trường.
Qua kiểm tra, các nông, lâm trường, trạm trại đã thực hiện cổ phần hóa chưa thực hiện thủ tục thuê đất, giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa nộp tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định, chưa rà soát diện tích đất đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng và cả diện tích không quản lý, sử dụng để bàn giao địa phương dẫn đến hàng nghìn héc-ta đất trong thời gian dài không ai quản lý. Nhiều diện tích đất bị lấn chiếm, tranh chấp, chuyển mục đích thành đất ở. Các hộ được giao khoán đất để sản xuất tự xây dựng nhà ở, chuyển nhượng trái phép.
Theo kết quả thanh tra, kiểm tra, hơn 89,6 triệu m2 đất được sử dụng đúng mục đích, 6,9 triệu m2 bị sử dụng sai mục đích. Tình trạng lấn chiếm, mua bán trái phép diễn ra tràn lan tại hầu khắp các nông, lâm trường… (Tiền Phong 5/7) đầu trang(
Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế Phan Ngọc Thọ vừa có buổi làm việc với các ban ngành chức năng và chủ đầu tư để đốc thúc triển khai dự án Rừng mưa nhiệt đới ở khu vực rừng cảnh quan tây nam TP.Huế.
Dự án này được UBND tỉnh phê duyệt ngày 30.10.2014 với chủ đầu tư là Sở KH-CN, sau đó UBND tỉnh thống nhất giao cho Công ty TNHH MTV lâm nghiệp Tiền Phong làm chủ đầu tư. Dự án sẽ triển khai trên diện tích gần 70 ha thuộc tiểu khu 91 (P.An Tây, TP.Huế) và tiểu khu 154 (xã Thủy Bằng, TX.Hương Thủy).
Mục tiêu của dự án là lưu giữ, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gien các loài thực vật rừng đặc trưng và tiêu biểu cho hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới của các tỉnh duyên hải miền Trung, phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, giáo dục - đào tạo và du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh.
Trước đó, dự án được phê duyệt với tổng kinh phí hơn 5 tỉ đồng từ nguồn vốn ngân sách địa phương và T.Ư hỗ trợ, nhưng tại buổi họp, Công ty TNHH MTV lâm nghiệp Tiền Phong đã đề nghị bổ sung nguồn vốn tăng lên 7,5 tỉ đồng, thời gian thực hiện từ 2015 - 2020. (Thanh Niên 5/7) đầu trang(
Thừa Thiên - Huế là một trong những tỉnh đi đầu cả nước về tiếp cận mô hình giao rừng tự nhiên cho cộng đồng, thực hiện thành công việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, nâng cao sản lượng rừng trồng, góp phần cải thiện môi trường sinh thái. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vướng mắc, bởi người dân chưa được hưởng nhiều lợi ích kinh tế từ việc quản lý, bảo vệ rừng.
Thừa Thiên - Huế là tỉnh có diện tích đất lâm nghiệp khá lớn, chiếm hơn 63% tổng diện tích tự nhiên. Nhiều năm qua, tỉnh đã quan tâm thực hiện nhiều chính sách giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức, cá nhân, nhóm hộ gia đình sử dụng lâu dài, từng bước cải thiện, ổn định cuộc sống của người dân miền núi và góp phần bảo vệ, phát triển rừng.
Từ năm 2003, với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, như Chương trình về lâm nghiệp (PROFOR Vietnam), Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV), Dự án hỗ trợ phổ cập và đào tạo phục vụ nông, lâm nghiệp vùng cao (ETSP), bốn trong số tám huyện, thị xã trong tỉnh gồm: Nam Đông, A Lưới, Phong Điền và Phú Lộc đã triển khai giao hơn 15 nghìn ha rừng tự nhiên cho các tổ chức thôn, cụm, nhóm hộ, hộ gia đình quản lý và hưởng lợi, trong đó cộng đồng là đối tượng chính.
Như vậy, qua hơn 10 năm thực hiện, đến nay Thừa Thiên - Huế đã giao hơn 28 nghìn ha rừng tự nhiên cho hàng trăm cộng đồng, nhóm hộ và hộ gia đình quản lý.
Mô hình giao rừng cho cộng đồng quản lý được thực hiện từ năm 2000, ở thôn Thủy Yên Thượng, xã Lộc Thủy (huyện Phú Lộc), với diện tích hơn 400 ha rừng. Từ những người "ăn của rừng", người dân Thủy Yên Thượng đã trở thành những chủ rừng thật sự, họ chuyên tâm chăm sóc, bảo vệ từng gốc cây, con thú. Đổi lại, bà con được hưởng lợi từ những nguồn lâm sản phụ, vì thế đời sống được cải thiện nhiều hơn.
Nhiều năm qua, rừng được giao khoán tại các tiểu khu 1156 và 1174 chưa từng xảy ra một vụ phá rừng nào, sinh khối rừng tăng trưởng tốt. Từ năm 2004, đây là địa phương đầu tiên được UBND tỉnh cho phép khai thác 50% sản lượng gỗ từ quy chế hưởng lợi trong quản lý và bảo vệ rừng, tương ứng gần 100 m3 gỗ tròn.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thừa Thiên - Huế, cộng đồng thật sự khẳng định vai trò của mình thông qua phương án quản lý, bảo vệ rừng và hương ước của thôn, cho nên mọi người chấp hành nghiêm. Quá trình thực hiện, mô hình này đã gắn kết vai trò, trách nhiệm, từng bước nâng cao ý thức của cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ rừng. Việc triển khai tuần tra bảo vệ rừng tiến hành thường xuyên theo định kỳ. Người dân sống gần rừng, được giao rừng, chính là những "tai, mắt" phát hiện, ngăn chặn kịp thời tình trạng phá rừng. Đến nay, người dân Thủy Yên Thượng đã khai thác hàng trăm m3 gỗ theo hình thức hưởng lợi từ rừng phục vụ mục đích phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tại huyện miền núi Nam Đông, đến nay, 10 trong số 11 xã, thị trấn trong huyện có rừng tự nhiên đều triển khai giao rừng, với tổng diện tích hơn 6.750 ha. Ở thôn 3, xã Hương Lộc được giao rừng tự nhiên sản xuất để quản lý bảo vệ với tổng diện tích hơn 173 ha. Trong tổng số 213 hộ dân của thôn, có 29 hộ đăng ký tham gia quản lý, bảo vệ phát triển rừng. Họ đã nhận được sự hỗ trợ, hướng dẫn tích cực từ chính quyền địa phương; các ban, ngành. Rừng của các nhóm hộ quản lý đã tốt hơn sau hơn ba năm được giao. Ngay từ giai đoạn đầu, cộng đồng đã trồng bảy ha rừng keo, 3.000 cây bản địa, 500 gốc tre lấy măng, 1.600 cây trầm hương, xây dựng một vườn ươm cộng đồng và chăm sóc 12 ha rừng tự nhiên. Từ khi nhận rừng đến nay, chưa có hiện tượng xâm lấn rừng và khai thác lâm sản trái phép.
Hơn 10 năm được nhận rừng từ sự hỗ trợ của dự án SNV, UBND huyện Nam Đông đã bàn giao 350 ha rừng tự nhiên cho 58 hộ dân ở xã Hương Lộc quản lý, bảo vệ. Nhưng đến nay, nhiều hộ dân đã bỏ cuộc, không tham gia bảo vệ rừng.
Ông La Lạc, một hộ dân ở thôn 3, được giao quản lý 9,6 ha rừng tự nhiên cho biết: "Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bà con không còn gắn bó rừng là người dân đã bỏ nhiều công sức, nhưng không được hưởng lợi gì. Trong gần 10 ha rừng Nhà nước giao cho gia đình tôi, phần lớn đều là rừng nghèo kiệt, chỉ toàn dây leo, bụi rậm. Tôi cùng 29 hộ dân khác trong thôn tự tổ chức tuần tra bảo vệ rừng, chăm sóc rừng suốt 10 năm qua, nhưng không hề nhận được bất cứ sự hỗ trợ, giúp đỡ nào từ các cấp chính quyền. Vì vậy, hai năm qua, gia đình tôi không muốn quay lại thăm rừng được giao để xem cây phát triển chừng nào!".
Phó Chủ tịch UBND xã Hương Lộc Mai Yên cho biết, ngoài việc người dân phải nhận chăm sóc, bảo vệ rừng nghèo, thì từ năm 2001, địa phương không thể triển khai Quyết định 178 của Chính phủ để hỗ trợ người bảo vệ rừng, bởi quá nhiều bất cập. Chính quyền xã muốn tạo điều kiện cho người dân chuyển đổi từ rừng nghèo sang trồng rừng sản xuất, rừng kinh tế nhưng lại thiếu chủ trương, văn bản hướng dẫn nên khó thực hiện.
Từ năm 2010, thực hiện đề án giao rừng tự nhiên cho hộ gia đình và nhóm hộ quản lý của UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế, các huyện đã giao mới hoặc hoàn thiện thủ tục để giao 44.418 ha rừng tự nhiên cho các hộ, nhóm hộ, cộng đồng dân cư. Đến nay, huyện A Lưới đã hoàn tất mọi thủ tục và tiến hành giao 15.690 ha rừng tự nhiên, trong đó có 9.625 ha rừng sản xuất; huyện Nam Đông giao khoảng 6.756 ha, chủ yếu là rừng tự nhiên nghèo kiệt thuộc quy hoạch sản xuất cho hộ và nhóm hộ gia đình hoặc cộng đồng dân cư.
Nhưng, nghịch lý là, khi các hộ được bàn giao rừng lại không được giao đất. Riêng tại xã Sơn Thủy (A Lưới) đã bàn giao cho năm hộ gia đình và 11 nhóm hộ dân quản lý, bảo vệ 524,4 ha rừng tự nhiên, trong đó có 409 ha rừng phòng hộ và 114 ha rừng sản xuất. Sau hơn ba năm nhận rừng, các hộ dân này chưa được cấp giấy chứngnhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp, mặc dù đã hoàn tất các thủ tục theo yêu cầu.
Nguyên nhân chính dẫn đến công tác quản lý, bảo vệ rừng chưa hiệu quả, do các cơ quan chức năng gặp vướng mắc trong thực hiện các quy định của Nhà nước. Đặc biệt là Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004, đến nay không còn phù hợp như tình trạng giao rừng không gắn với giao đất; chưa có chính sách hưởng lợi phù hợp cho người bảo vệ rừng; bất cập trong chính sách đền bù, đổi đất lâm nghiệp do quy hoạch dự án thủy điện... Thậm chí, nhiều hộ dân phải tự bỏ tiền để phục vụ công tác tuần tra, giữ rừng. Đây là những hạn chế, vướng mắc, rất cần các cơ quan chức năng xem xét, tháo gỡ, rà soát, bổ sung các chính sách về lâm nghiệp, giúp người dân yên tâm với việc bảo vệ, quản lý rừng được giao.
Ngoài các chính sách từ trung ương, theo các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, cần những chính sách đột phá từ phía tỉnh, như sớm ban hành quy chế chi trả dịch vụ môi trường rừng, làm cơ sở chi trả chế độ cho người quản lý, bảo vệ rừng theo Nghị định 99/2010 của Thủ tướng Chính phủ; đẩy nhanh công tác lập quy hoạch sử dụng đất cấp xã và xây dựng kế hoạch quản lý, bảo vệ, phát triển rừng của xã. Hai việc này cần thực hiện đồng bộ, gắn liền nhau, nhằm bảo đảm các hoạt động bảo vệ phải gắn với phát triển rừng; giao đất lâm nghiệp gắn với phát triển kinh kế của địa phương, góp phần giải quyết bài toán "lấy ngắn nuôi dài" trong quản lý bảo vệ rừng, phù hợp tiến trình xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, cần rà soát, kiểm tra tình hình thực hiện việc quản lý, bảo vệ rừng của từng chủ rừng để hoàn chỉnh hồ sơ giao rừng, đối với rừng tự nhiên đã giao trước năm 2010; kiến nghị thu hồi diện tích rừng được giao đối với những chủ rừng không tổ chức quản lý, bảo vệ có hiệu quả, hoặc giao không đúng thẩm quyền; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm; xây dựng cơ chế hưởng lợi cho người dân nhận rừng phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương... có chính sách hỗ trợ cây giống cho đồng bào miền núi để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp đi đôi với việc tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nhận thức, năng lực quản lý rừng cộng đồng cho người dân, nhất là những đối tượng được giao rừng. Đào tạo đội ngũ truyền thông viên địa phương, người có kỹ năng về truyền thông cũng cần phải am hiểu văn hóa địa phương, đặc biệt cần nói, nghe được tiếng của đồng bào các dân tộc thiểu số để có thể truyền đạt, hướng dẫn, giải thích các chính sách cho đồng bào hiệu quả. (Nhân Dân 6/7) đầu trang(
Giao rừng tự nhiên là chủ trương nhận được sự đồng thuận, hưởng ứng tích cực từ người dân miền núi tỉnh Quảng Trị. Nhưng, việc dựa vào dân để bảo vệ rừng hiện vẫn gặp không ít rào cản…
Năm 2005, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị xây dựng đề án giao rừng tự nhiên nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội, ổn định cuộc sống người dân sống trong và ven rừng, huy động sức mạnh của cộng đồng tham gia bảo vệ, phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng. Được sự hướng dẫn của lực lượng Kiểm lâm, người dân huyện Hướng Hóa đã thành lập 19 tổ bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, tại nhiều thôn bản, bà con tự nguyện xây dựng quy ước bảo vệ, phát triển rừng.
Thậm chí, còn tổ chức “lễ ăn thề giữ rừng”, cam kết với nhau đồng lòng, đồng sức bảo vệ diện tích rừng nhận khoán. Nhận được sự hưởng ứng tích cực từ người dân, Hạt Kiểm lâm huyện Hướng Hóa phối hợp với UBND xã Húc và A Dơi tiến hành giao rừng thí điểm cho cộng đồng và nhóm hộ gia đình.
Có 140ha rừng tự nhiên, trong đó 86ha giao cho cộng đồng thôn Tà Rùng (xã Húc) và 54ha giao cho 8 nhóm hộ gia đình trú tại thôn Prin C (xã A Dơi). Nhờ sự bắt tay chặt chẽ của lực lượng Kiểm lâm và người dân mà rừng giao khoán được bảo vệ rất tốt; không còn tình trạng khai thác gỗ, săn bắn trái phép; nạn phát rừng làm nương rẫy được hạn chế đáng kể…
Từ tín hiệu đáng mừng trên, Hạt Kiểm lâm huyện Hướng Hóa tiếp tục giao rừng cho người dân ở 13 bản gồm: Măng Sông (Ba Tầng), Chênh Vênh (Hướng Phùng), Ra Ty (Hướng Lộc), Cuôi (Hướng Lập), Trăng (Hướng Việt)… Hiện tại, gần 750 hộ dân ở các thôn bản này đang chung sức bảo vệ hơn 5.650ha rừng. Ngoài ra, gần 400ha rừng cũng đã được 30 hộ gia đình ở xã A Dơi và Hướng Sơn nhận khoán…
Tuy nhiên, công tác giao rừng tự nhiên vẫn còn gặp những rào cản không nhỏ. Cụ thể, ở một số xã, chính quyền và người dân địa phương vẫn chưa lập được kế hoạch quản lý, bảo vệ rừng nên không phát huy được sức mạnh tập thể, cũng như thu hút mọi người dân tham gia. Đặc biệt, do nhận thức còn hạn chế, một bộ phận người dân đã bị các đối tượng xấu lợi dụng, kích động làm ảnh hưởng đến tài nguyên rừng.
Trong khi đó, diện tích rừng do UBND xã quản lý chiếm khoảng 36%, thường nằm cách xa khu dân cư nên gây ra nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ. Một số khu rừng của cộng đồng là “rừng ma”, “rừng thiêng”, theo phong tục của người dân, không ai được tác động các biện pháp kỹ thuật vào những khu rừng này, vì thế việc chăm sóc và phát triển rừng chưa phát huy hết hiệu quả…
Đáng quan tâm, theo Quyết định số 112/2008/QĐ-BNN của Bộ NN&PTNT, định mức kinh tế - kỹ thuật để xác định lao động, vật tư, nhiên liệu và các phụ cấp cần thiết phục vụ công tác giao rừng, cho thuê rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ quản lý rừng là quá thấp so với thị trường. Được biết, định mức chi phí lao động đối với cộng đồng hiện là 345 ngàn đồng/ha rừng và đối với gia đình là 634 ngàn đồng/ha (Tính cả chi phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và công lào động của cán bộ kỹ thuật cũng như người dân). Vì vậy, người dân nhận khoán bảo vệ rừng còn chịu nhiều thiệt thòi…
Ông Lê Văn Thành, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Hướng Hóa khẳng định, chủ trương giao rừng chỉ có thể phát huy được hiệu quả khi giúp người dân sống được bằng rừng. Để khuyến khích người dân, cộng đồng, nhóm hộ gia đình nhận bảo vệ rừng cần xây dựng quy chế ứng trước sản phẩm và hưởng lợi nhằm phục vụ nhu cầu của bà con.
Đối với diện tích rừng sản xuất và phòng hộ do UBND xã quản lý, đang nằm rải rác, cần tập trung khoanh vùng và tiếp tục giao cho cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân bảo vệ, hưởng lợi và phát triển. Đặc biệt, cần sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế kỹ thuật theo Quyết định 112/2008/QĐ-BNN, đồng thời bố trí kinh phí hỗ trợ cho cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân tham gia bảo vệ rừng, thành lập quỹ bảo vệ phát triển cấp xã, xây dựng kế hoạch quản lý rừng cộng đồng.
Ngoài ra, cấp trên cũng cần bố trí kinh phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các khu rừng được giao cho người dân. (Công An Nhân Dân 3/7) đầu trang(
Hội Chữ thập đỏ Ninh Bình vừa tổ chức kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu diện tích rừng ngập mặn được trồng mới trong năm 2015 ngoài đê Bình Minh 3, huyện Kim Sơn.
Năm 2015, Hội chữ thập đỏ tỉnh đã tổ chức trồng mới được 20ha rừng ngập mặn ngoài đê Bình Minh 3, giống cây được trồng là cây Trang hay còn gọi là cây Vẹt.
Đến nay, sau hơn 2 tháng trồng, do điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi và đảm bảo đúng quy trình, kỹ thuật khi trồng nên diện tích rừng ngập mặn đang phát triển tốt; tỷ lệ cây sống đạt hơn 90%, chiều cao của cây đã đạt từ 40 – 50cm.
Dự án “Trồng rừng ngập mặn - giảm thiểu rủi ro thảm họa” tại vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn do Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản và Hiệp hội Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế tại Việt Nam tài trợ và được triển khai tại Ninh Bình từ năm 1997. Qua gần 20 năm triển khai, đến nay Hội trữ thập đỏ tỉnh đã trồng và quản lý gần 240 ha rừng ngập mặn, góp phần quan trọng vào việc làm thay đổi thói quen, hành vi của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với thiên tai. (Đài PTTH Ninh Bình 3/7) đầu trang(
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Thị Thu Hà đã ký quyết định xử phạt hành chính 90 triệu đồng đối với ông Nguyễn Văn Tạo (SN 1984, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Thạnh) vì đã vi phạm quy định về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Ngoài ra, ông Tạo còn bị tịch thu tang vật và phương tiện sung công quỹ.
Trước đó, ngày 7.5.2015, Đội kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng đã phát hiện và lập biên bản vi phạm đối với ông Tạo vì đã điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 75C-01500 vận chuyển trái phép 11 lóng gỗ tròn với khối lượng 0,732m3 và 13 hộp gỗ xẻ với khối lượng 0,659m3; chủng loại Giáng Hương, nhóm IIA. (Báo Bình Định 2/7) đầu trang(
Tuy mới triển khai dự án trồng cây, nhưng hầu hết cây vừa trồng đã chết hàng loạt, gây lãng phí tiền của Nhà nước.
Dự án trồng rừng cảnh quan Cửa khẩu Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, do Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị làm chủ đầu tư bắt đầu triển khai trồng cây xanh từ năm 2014, nhằm tạo cảnh quan khu vực thị trấn Lao Bảo, xã Tân Thành và xã Tân Long.
Dự án trồng rừng cảnh quan Cửa khẩu Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị có kinh phí gần 5 tỷ đồng, thực hiện từ 2014 - 2016, trồng mới 15.630 cây xanh  dọc 2 bên Quốc lộ 9 đoạn thị trấn Lao Bảo, xã Tân Thành và xã Tân Long, chủ yếu là lộc vừng, lát hoa.
Sau khi được giao làm chủ đầu tư, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị đã chọn Công ty TNHH Thương mại Thủy Tiên, trụ sở tại tỉnh Nghệ An thực hiện dự án.
Theo quy định, cây con khi đưa vào trồng phải có đường kính gốc tối thiểu là 4cm, chiều cao tối thiểu là 2m nhưng đơn vị thi công chọn cây không đúng các chỉ tiêu này, lại trồng trong mùa khô, trồng xong không bảo vệ, chăm sóc để trâu bò phá hoại nên số cây bị chết chiếm tỷ lệ cao.
Ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch UBND thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa cho biết: “Năm 2014, thị trấn Lao Bảo nằm trong vùng dự án trồng rừng cảnh quan khu vực Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, do Biên phòng tỉnh Quảng Trị làm chủ đầu tư. Qua quá trình triển khai do thời tiết khô, đến nay tỷ lệ cây sống so với mục tiêu dự án không đạt”.
Trước tình trạng cây vừa trồng xong đã chết hàng loạt, UBND thị trấn Lao Bảo, xã Tân Thành và xã Tân Long đã có văn bản phản ánh với chủ đầu tư cũng như đơn vị thi công. Các bên đã cùng nhau kiểm tra thực tế, thừa nhận những sai sót và hứa sẽ khắc phục.
Thượng úy Phan Xuân Dưỡng, cán bộ Ban quản lý dự án cho biết: “Thứ nhất là tổ chức chăm tưới cây đạt chuẩn; thứ hai tổ chức trồng, tra dặm lại, những cây nào chết thì chúng tôi đề nghị bên B trồng lại”.
Dự án trồng rừng cảnh quan Cửa khẩu Lao Bảo kéo dài đến năm 2016, số lượng cây phải trồng khá lớn, các địa phương đề nghị ban quản lý dự án cần nghiêm túc nhận sai sót, tập trung chỉ đạo bên B chọn lựa cây đúng tiêu chuẩn kỹ thuật để trồng mới đồng thời tích cực chăm sóc số cây đã trồng. (VOV 5/7) đầu trang(
Tại hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, nhân rộng mô hình điển hình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tại Hà Nội ngày 3/7, ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết, từ nay đến cuối năm, ngành gỗ sẽ phải đạt kim ngạch xuất khẩu gỗ gần 4 tỷ USD mới hoàn thành mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD trong năm 2015.
Đây là mục tiêu khó và ngành gỗ phải rất nỗ lực mới có thể đạt được. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hiệp hội và các doanh nghiệp đang bàn biện pháp để tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt cho quý IV.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ 6 tháng đầu năm 2015 đạt 3,13 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2014. Tỷ trọng hàng chế biến tinh chiếm khoảng 85%. Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc là 3 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm 66% tổng giá trị xuất khẩu.
Tuy có kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng theo ông Nguyễn Tôn Quyền, so với cùng kỳ năm ngoái vẫn thấp hơn do xuất khẩu dăm sang thị trường Trung Quốc giảm; một số thị trường ở châu Âu nhập khẩu đồ gỗ ngoài trời cũng giảm, nhưng quan trọng hơn là do giá xuất khẩu giảm.
Các doanh nghiệp ký hợp đồng vào quý IV​ năm 2014 với giá cao, nhưng do đồng euro mất giá nên khi bán giá thấp.
Ông Nguyễn Tôn Quyền cũng cho biết, ngoài thị trường trọng điểm, thị trường mới cũng chưa được mở rộng nhiều. Thị trường Nga được Nhà nước khuyến khích nhưng doanh nghiệp vẫn chưa vào được, thị trường Hàn Quốc rất tốt nhưng vẫn còn thấp.
Trong khi đó, sản xuất trong nước vẫn gặp nhiều khó khăn bởi giá đầu vào sản xuất vẫn tăng, nhiều doanh nghiệp cũng không muốn phát triển sản xuất. Để đạt được mục tiêu 7 tỷ USD, các doanh nghiệp và nhà máy sẽ phải sản xuất hết công suất.
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đang cùng doanh nghiệp có những đoàn công tác tiếp cận, mở rộng thị trường như thị trường Ấn Độ, Trung Đông, Nam Mỹ. Có những đoàn công tác đi tiếp cận, mở rộng thị trường như Nga, Hàn Quốc, Ấn Độ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thực hiện kế hoạch nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến, bước đầu đã đạt được một số kết quả tại một số địa phương.  Cụ thể, trong năm tháng đầu năm, mặc dù sản lượng gỗ khai thác tăng khoảng 13% so với cùng kỳ năm 2014, nhưng lượng dăm gỗ xuất khẩu giảm khoảng 15%.
Một số tỉnh trọng điểm xuất khẩu dăm gỗ đã ban hành kế hoạch ngừng sản xuất dăm gỗ xuất khẩu từ năm 2015 như Bình Định nhằm tạo nguyên liệu gỗ lớn cho sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Một số doanh nghiệp đã đầu tư sản xuất sản phẩm xuất khẩu từ phế liệu, mùn cưa, dăm gỗ như viên nén năng lượng như Công ty cổ phần Thương mại Quảng Trị, Công ty Lâm nghiệp Cẩm Phả (Quảng Ninh).
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đồng ý xây dựng dây chuyền hai của Nhà máy ván MDF của Tập đoàn Cao su Việt Nam tại tỉnh Bình Phước nhằm sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng, gỗ cao su tại khu vực Đông Nam Bộ.
Theo ông Nguyễn Bá Ngãi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ chủ trì, phố hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan rà soát, đề xuất chính sách thuế trong lâm nghiệp; trong đó chú trọng đối với dăm gỗ xuất khẩu nhằm khuyến khích và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh lâm sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm sau chế biến.  Đồng thời, xây dựng kế hoạch tiếp cận thị trường cho xuất khẩu sản phẩm gỗ, trước mắt tập trung vào thị trường Nga và Hàn Quốc; trong đó đề xuất những nội dung, biện pháp cụ thể cần triển khai thực hiện.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng sẽ xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa lâm sản của Việt Nam làm cơ sở để thực hiện các biện pháp điều hành của Nhà nước, thực hiện các biện pháp thúc đẩy sản xuất, xuất nhập khẩu và chỉ đạo điều hành. (Pháp Luật TPHCM + Tin Tức 4/7; Thanh Niên + VTV + Vietnam+ 3/7) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Hãng tin Sputnik ngày 05-07 đưa tin, khoảng 7.900 cư dân ở Saskatchewan, một tỉnh bang ở miền Tây Canada vừa ồ ạt di tản sau khi một vụ cháy rừng kinh hoàng diễn ra tại đây.
CBC cho biết, hơn 5000 đã di chuyển hàng trăm cây số trước đó đến một nơi trú ẩn ở thành phố Cold Lake, nằm tại tỉnh bang giáp Saskatchewan.
Trong khi đó số cư dân còn lại vẫn chưa rời khỏi khu vực vì thế lực lượng chức tranh đã nanh chóng triển khai sơ tán số người này đến nơi an toàn.
Đám cháy rất dữ dội, làm cháy trên diện rộng khoảng 74 dặm về phía nam khu vực La Ronge, khắp khu rừng nồng nặc mùi khó lửa.
Hiện thủ tướng Canada Stephen Harper cam kết sẽ cung cấp hỗ trợ trong việc chống lại các đám cháy lớn để bảo đảm an toàn cho người dân. (Pháp Luật TPHCM 6/7) đầu trang(
Theo trang tin Sichuan News, cậu bé 2 tuổi cùng với 3 người lớn tham quan một công viên động vật hoang dã ở tỉnh Tứ Xuyên chiều 4.7. Trong quá trình tham quan, cậu bé đã thò tay phải vào một chuồng nuôi hổ qua ống thông gió. Ngay sau đó, một con hổ trắng đã lao tới và cắn đứt lìa cánh tay của nạn nhân.
Sau khi con hổ nhả phần cánh tay bị cắn đứt từ trong miệng, cậu bé đã được đưa tới bệnh viện ở thành phố Diên An để cấp cứu. Vào khoảng 5 giờ chiều ngày 4.7, nạn nhân đã được chuyển tới một bệnh viện khác để phẫu thuật.
Các bác sĩ đã phẫu thuật làm sạch vết thương cho cậu bé. Tuy nhiên, toàn bộ phần cánh tay từ khuỷu trở xuống không thể giữ được. Gia đình của cậu bé bị sốc sau sự việc và từ chối trả lời phỏng vấn.
Trong vụ tấn công tương tự năm ngoái ở Trung Quốc, một cậu bé 9 tuổi đã bị cắn đứt tay sau khi cố gắng cho gấu ăn trong vườn thú ở tỉnh Hà Nam. Gần đây, bố mẹ của cậu bé đã yêu cầu được bồi thường 1,6 triệu NDT (khoảng 600 triệu đồng), nhưng vườn thú cho rằng khoản tiền yêu cầu quá lớn. (Dân Việt 6/7) đầu trang(
Vườn thực vật Singapore trải dài trên khuôn viên 74 hecta, trong đó có Vườn ​lan ​quốc gia, nơi trưng bày hơn 1.000 giống lan gốc và 2.000 giống lan lai.
Tại phiên họp thứ 39 của Ủy ban Di sản Thế giới diễn ra tại thành phố Bonn của Đức hôm 4/7, Vườn ​thực vật Singapore (Singapore Botanic Gardens) vừa được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
Đây là lần đầu tiên Singapore có một vườn thực vật được UNESCO vinh danh là Di sản Thế giới, và là vườn thực vật thứ 3 trên thế giới được ghi nhận danh hiệu này, sau Vườn Kew ở Anh và Vườn Padua của Italia.
Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khẳng định sự kiện này là một món quà chúc mừng cho người dân Singapore bởi năm nay đánh dấu 50 năm đảo quốc Sư tử tuyên bố độc lập. Ông khẳng định Vườn ​thực vật Singapore được lập cách đây 156 năm, đã đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực đưa Singapore trở thành Thành phố - Vườn cây thực sự.
Nhiều người dân Singapore cũng bày tỏ niềm tự hào trước thông tin này. Ông Stan Lee, 58 tuổi cho biết: “Tôi rất tự hào về Singapore, một chấm nhỏ trên bản đồ thế giới đã có một di sản được UNESCO công nhận và mọi người dân Singapore có lẽ cũng chia sẻ niềm tự hào giống tôi. Đây là một trong những vườn thực vật đẹp nhất trên thế giới”.
Vườn thực vật Singapore trải dài trên khuôn viên 74 hecta, trong đó có Vườn ​lan ​quốc gia, nơi trưng bày hơn 1.000 giống lan gốc và 2.000 giống lan lai. Tọa lạc ở vị trí trung tâm của Singapore, Vườn ​thực vật Singapore là vườn kiểu Anh duy nhất ở vùng nhiệt đới và cũng là một trung tâm hoạt động xã hội của Singapore. Vào dịp cuối tuần, nhiều gia đình và người dân đã đến đây để đi dạo hay xem trình diễn ca nhạc tại Hồ Giao hưởng - một truyền thống có từ năm 1861 đến nay.
Một nhiếp ảnh gia chuyên chụp phong cảnh thiên nhiên và động vật hoang dã của Singapore, anh Zay Shah nhận định: “Không phải sự thay đổi trong cách gọi mà chính là những chú chim ở đây đã thu hút tôi. Tôi thường xuyên đến là vì những con cú và đại bàng ở đây. Tôi nghĩ danh hiệu di sản rất xứng đáng cho khu vườn này”.
Singapore đã nỗ lực vận động trong gần 5 năm qua, sau khi một nghiên cứu khả thi cho thấy Vườn ​thực vật là ứng viên tốt nhất của Singapore có thể đạt được danh hiệu Di sản Thế giới UNESCO.
Từ tháng 1/2014, Singapore đã chính thức nộp hồ sơ lên UNESCO. Đại diện k​ỹ thuật của UNESCO sau khi đánh giá thực địa đã khẳng định Vườn thực vật Singapore là một “ví dụ khác biệt của vườn thực vật thuộc địa nhiệt đới kiểu Anh ở Đông Nam Á”. (VOV Giao Thông 6/7)đầu trang( ./.
Biên tập: Hương Giang