Số 9

Vườn quốc gia Bi Doup Núi Bà: Đa dạng sinh học thực vật và giải pháp bảo tồn

Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà có diện tích 64.800ha với nhiệm vụ bảo tồn hệ sinh thái rừng trong vùng khí hậu á nhiệt đới, núi cao và các loài động thực vật rừng quý hiếm, đặc hữu. Bảo tồn các giá trị đặc trưng văn hóa bản địa, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, phát triển du lịch sinh thái góp phần cho việc bảo tồn đa dạng sinh học cho vùng Nam Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, đồng thời bảo vệ phòng hộ đầu nguồn nước cho hệ thống sông Đồng Nai. Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà nằm trên cao nguyên Lâm Viên có độ cao trung bình từ 1.500m - 1.800m, địa hình chia cắt mạnh được chắn bởi các dãy núi cao như đỉnh Hòn Giao (2.060m), Bidoup (2.287m), Langbiang (2.167m). Khí hậu nơi đây ôn hòa, nhiệt độ không khí trung bình năm 180C, lượng mưa trung bình năm 1800mm, tại các đai cao trên lượng mưa có thể đạt 2800-3000mm/năm. Thảm thực vật rừng ở đây được đặc trưng bởi các kiểu rừng sau: Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: Phân bố ở độ cao trên 1.700m, lượng mưa 2.300mm - 3.000mm/năm, độ ẩm từ 89% - 95%, được đặc trưng bởi các họ chè (Theaceae), họ thích (Aceraceae), họ re (Lauraceae), họ ngọc lan (Magnoliaceae), họ đỗ quyên (Ericaceae), họ hồi (Illiciaceae), họ hoa hồng (Rosaceae), họ thông (Pinaceae), họ kim giao (Podocarpaceae), họ hoàng đàn (Cupressaceae). Kiểu phụ rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới: Phân bố ở độ cao trên 1.700m, được đặc trưng bởi các họ dẻ (Fagaceae), họ re (Lauraceae), họ chè (Theaceae), họ ngọc lan (Magnoliaceae), họ thông (Pinaceae), họ kim giao (Podocarpaceae), họ hoàng đàn (Cupressaceae). Kiểu phụ rừng rêu (rừng lùn): Phân bố ở độ cao trên 2.000m, nơi đây thường xuyên bị che phủ, trên cây rừng có nhiều rêu và địa y mọc, đặc trưng bởi các họ: họ phong lan (Orchidaceae), họ ngũ gia bì (Araliaceae), họ dẻ (Fagaceae), họ đỗ quyên (Ericaceae). Rừng thưa cây lá kim á nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở độ cao dưới 1.700m, đặc trưng bởi thông ba lá (Pinus khasya) mọc thuần loài. Rừng tre nứa và rừng hỗn giao tre với cây lá rộng: Phân bố ở độ cao 800 - 1.200m, đặc trưng bởi các loài le Núi Dinh (Oxynanthera dinhensis), lồ ô (Bambusa balcoa), tre diệp (Phyllostachys bambusoides), tre lau (Gigantochloa pseudoarundinaceae), cùng với các loài cây gỗ như mạ sưa (Helicia cochinchinensis), chẹo (Engelhardtia wallicluana), côm (Eleocarpus floribundus), dung (Symplocos cochinchinensis)... Hệ thực vật ở đây được di cư xâm nhập theo 3 luồng: Hệ thực vật ấn Độ - Miến Điện có họ bàng (Combretaceae) với 5 loài; Hệ thực vật Himalaya - Vân Nam, Quý Châu, Trung Quốc có 5 họ đặc trưng là kim giao (Podocarpaceae) có 3 loài, họ dẻ (Fagaceae) có 41 loài, họ ngọc lan (Magnoliaceae) có 9 loài, họ re (Lauraceae) có 29 loài, họ đỗ quyên (Ericaceae) có 21 loài; Hệ thực vật bắc Việt Nam - nam Trung Quốc có 6 họ đặc trưng là họ đậu (Fabaceae) có 65 loài, họ ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) có 35 loài, họ thị (Ebenaceae) có 5 loài, họ cà phê (Rubiaceae) có 45 loài, họ cỏ (Poaceae) có 58 loài, họ điều (Anacardiaceae) có 70 loài. Theo kết quả điều tra cho thấy về thực vật đã thống kê được 1.468 loài thuộc 161 họ, 673 chi, trong đó có 91 loài đặc hữu, 62 loài quý hiếm thuộc 29 họ thực vật khác nhau được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, 15 loài được ghi trong Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.

Đặc biệt chú ý họ lan (Orchidaceae) có 18 loài quý hiếm, ngành hạt trần có 14 loài, trong đó có 10 loài quý hiếm như thông tre nam (Podocarpus annamensis), thông tre (Podocarpus neriifolius), thông đỏ (Taxus wallichiana), du sam (Keteleria evelyniana), pơ mu (Fokienia hodginsii), bách xanh (Calocedrus macrolepsis), thông hai lá dẹt (Pinus krempfii), thông năm lá Đà Lạt (Pinus dalatensis), đỉnh tùng (Cephalotaxus mannii Hook. f.), hoàng đàn giả (Dacrydium elatum (Roxb) Wall.ex Hook), những loài đặc hữu tiêu biểu là: côm Bidoup (Elaeocarpus bidupensis), chè gò đồng Bidoup (Gordonia bidupensis), lan hoàng thảo Đà Lạt (Dendrobium dalatensis), trà hoa Lang Biang (Impatient langbiangensis), hoa tím Đà Lạt (Viola dalatensis), cung nữ Lang bi an (Procris langbiangensis), ẩn mạc Lang Biang (Cryptophragmium langbiangensis), sồi Lang bi an (Quercus langbiangensis), vân đa Bi Đúp (Vanda bidupensis Aver. & christeson), cáp mộc Bi Đúp (Craibiodendron heryi W.W. Smith var bidoupensis Smitin & Phamh), nỉ lan Bi Đúp (Eria bidupensis(Gagnep) Seidenf. Ex Aver)... có thể nói hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú có nhiều loài mang tên địa phương, đồng thời nơi đây còn là cái nôi của ngành hạt trần (đứng sau Hoàng Liên Sơn), nhiều loài cho giá trị kinh tế cao và khoa học như pơ mu (Fokienia hodginsii), bách xanh (Calocedrus macrolepsis), thông đỏ (Taxus wallichiana Zucc), đỗ quyên hoa hồng (Rhododendron irroratum Franch.var. kontumensis (sleum.) Champ), thông năm lá Đà Lạt (Pinus dalatensis), lan gấm (Ludisia discolor (Ker-Gawl) A. Rich... Hiện nay người dân tác động vào Vườn quốc gia chưa nhiều nhưng việc kiểm soát cũng rất khó khăn bởi tuyến đường DT723 đi qua Vườn nối liền Đà Lạt - Nha Trang, tuyến đường DT722 Đông Trường Sơn. Một số loài quý hiếm, có giá trị kinh tế ở trên đang là tâm điểm của khai thác trộm, một vài doanh nghiệp đã đầu tư phát triển kinh tế trên tuyến đường 723 nằm trên địa phận của Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà. Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học phải được đặt nên hàng đầu do đó cần phải có những giải pháp hữu hiệu. Cụ thể là tăng cường giáo dục cho cộng đồng dân cư sống cạnh rừng hiểu lợi ích mang lại từ rừng, khai thác và sử dụng các sản phẩm từ rừng mang tính bền vững, tuyên truyền các chủ chương chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ và phát triển rừng thông qua các buổi họp thôn, hoạt động tập thể, phối hợp với nhà trường lồng ghép một số tiết về bảo vệ và phát triển rừng. Hàng năm phải xây dựng quy chế phối hợp giữa các đơn vị, chủ rừng giáp ranh với nhau, khi có tình huống xảy ra phối hợp với nhau, quy chế phối hợp với chính quyền địa phương, hàng tháng họp giao ban với nhau, tiến tới xây dựng các quy ước quản lý bảo vệ rừng cho từng thôn, buôn. Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát trên tuyến đường DT723 và tuyến đường DT722, tại các trạm kiểm lâm trên tuyến này như Trạm Kiểm lâm Klong Lanh, Giang Ly, Hòn Giao phải bố trí trực 24/24, bố trí lực lượng quản lý bảo vệ rừng tại những điểm nóng, phối hợp thường xuyên với Chính quyền địa phương tổ chức truy quyét các vụ vi phạm về Luật bảo vệ và phát triển rừng. Xây dựng chiến lược bảo tồn, phát triển rừng và sử dụng bền vững tài nguyên rừng, nhất là một số loài nguy cấp, quý hiếm bằng cách kêu gọi các chương trình hợp tác quốc tế như dự án WWF: Đồng quản lý rừng và động vật hoang dã Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà, dự án TFF: Thí điểm phương pháp quản lý rừng đa mục đích, kết hợp với nhiều trường đại học như đại học Columbia, Tasmania (úc), Trung tâm nghiên cứu Việt Nga, Tổ chức bảo tồn quốc tế, Viện bảo tàng thực vật pháp... để nghiên cứu và quản lý bảo tồn đa dạng sinh học. Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ về công tác bảo tồn. Bảo tồn nguyên vị (insitu) là giải pháp bảo tồn tốt nhất cho các loài nguy cấp, quý hiếm ở Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà mà trước tiên phải bảo vệ hệ sinh thái rừng. Khó khăn cơ bản vẫn là vốn đầu tư cho công tác bảo vệ, đầu tư cho dân trồng rừng ở trong Vườn và vùng đệm, đầu tư quy hoạch và đưa dân vào cuộc sống ổn định, bảo đảm thu nhập thì có thể tránh được việc đốt phá rừng làm nương rẫy. Vấn đề tái sinh tự nhiên trong rừng già nguyên sinh trở nên rất khó khăn, nên bảo tồn exsitu cũng đóng một vai trò không nhỏ. Thu thập hạt giống và cây con tái sinh về gây trồng thử là những cố gắng cần thiết, song cần bảo đảm nguyên tắc là thu hái hạt từ nhiều cây mẹ, từ nhiều điểm trong vùng phân bố và từ nhiều vùng, để bảo tồn nguồn gen có được nền tảng di truyền đủ lớn. Bảo tồn chuyển vị (exsitu) chỉ là giải pháp mang tính định hướng khi không thể thực hiện được bảo tồn nguyên vị. Tuy nhiên để thực hiện tốt công tác bảo tồn đa dạng sinh học thực vật nói chung và thực vật nguy cấp, quý, hiếm nói riêng ở Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà rất cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo nhân lực về lĩnh vực bảo tồn, đồng thời có sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức trong và ngoài nước.

HOÀNG ĐÌNH QUANG