Số 1+2 năm 2008

Miền tây Nghệ An, khu dự trữ sinh quyển thế giới của loài voi Châu á

Miền tây Nghệ An được tổ chức UNESCO quốc tế công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào tháng 9/2007. Như vậy, đến nay Việt Nam có 6 khu dự trữ sinh quyển thế giới. Được thiết lập trên địa phận hành chính của 9 huyện miền núi gồm Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quế Phong và Quỳ Châu, với tổng diện tích hơn 1,3 triệu hécta, Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An đã bao gồm gần như toàn bộ diện tích rừng tự nhiên của tỉnh. Vùng lõi của khu dự trữ có diện tích 191.922ha là ba khu rừng đặc dụng: Vườn quốc gia Pù Mát, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Đây cũng là khu vực giàu tài nguyên đa dạng sinh học vào loại bậc nhất của cả nước, với nhiều loài sinh vật quý hiếm, phần lớn các loài sinh vật mới đều được phát hiện tại đây. Đặc biệt, Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An được xác định là một trong ba khu vực trong cả nước hiện đang tồn tại quần thể voi Châu á có số lượng tốt nhất theo quy mô đàn. Voi Châu á là loài thú có kích thước lớn thuộc Bộ có vòi (Proboscidea), thường sống ở rừng thứ sinh, rừng rụng lá, rừng tre nứa và rừng hỗn giao gỗ tre nứa. Voi sống theo đàn và có xu thế phát triển thành các nhóm nhỏ theo truyền thống gia đình gồm voi bố, voi mẹ và voi con các thế hệ, cũng có thể gặp voi sống đơn độc và những con voi này thường hung dữ. Trong bầy đàn tổ chức xã hội của voi rất chặt chẽ, tập tính bảo vệ đồng loại khá cao. Voi cũng được đánh giá là loài thú thông minh, có khả năng nhớ dai và trả thù khi bị săn lùng ráo riết, bị bẫy, bị bắn thương hoặc bị quấy rầy vùng sống của chúng. Vùng hoạt động của voi rất rộng và di chuyển nhiều để kiếm ăn. Voi di chuyển theo mùa, vào mùa khô hiếm nước và thức ăn, một ngày voi có thể di chuyển tới hơn 30km, trên diện tích khoảng 40.000ha. Ban ngày voi tránh nắng trong rừng gần nguồn nước, thường kiếm ăn vào ban đêm. Thức ăn của voi rất đa dạng, chủ yếu là lá thực vật, măng của các loài tre mét và muối cũng là thứ không thể thiếu được đối với nhu cầu sống của voi. Voi sinh sản rất chậm, thời gian mang thai từ 22- 24 tháng và mỗi lứa thường đẻ một con. Đây cũng là yếu tố dẫn đến sự suy giảm cá thể loài voi Châu á rất nhanh trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhiều nhà Khoa học trong và ngoài nước đều cho rằng với vị trí là nằm vùng bắc trung bộ - cầu nối địa lý sinh học của hai miền nam bắc, lại là nơi có thể đang chứa đựng một quần thể voi lớn, Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An có tầm quan trọng rất lớn đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và loài voi nói riêng ở Việt Nam.

Thực trạng bảo tồn.

Theo kế hoạch hành động bảo tồn voi đến 2010 ở Việt Nam thì quần thể voi Châu á hiện có khoảng 40.000 - 50.000 con và khoảng 15.000 con voi thuần dưỡng. Trong đó Việt Nam chỉ có khoảng 75 đến 130 con. Báo cáo cũng chỉ ra rằng thực trạng loài voi Châu á đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng nếu không có biện pháp bảo tồn tích cực thì sẽ bị tuyệt chủng. Đây thực sự là tín hiệu báo động về số phận, một hình ảnh về cái chết đang sống, về sự tuyệt chủng loài này ở Việt Nam. Nhằm bảo tồn và phát triển quần thể voi Châu á, ngày 16/5/2006 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 773/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch hành động khẩn trương đến năm 2010 để bảo tồn voi ở Việt Nam. Trong đó Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An được xác định là một trong 3 khu vực (cùng với Đắk Lắk, Đồng Nai) bảo tồn sinh cảnh sống lâu dài của loài voi, hiện đang có số lượng tốt nhất theo quy mô đàn, sinh cảnh, diện tích vùng sống.

Voi ở Nghệ An hiện phân bố tập trung ở ba khu rừng đặc dụng của Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An. Trong ba khu vực này thì Vườn quốc gia Pù Mát được ghi nhận là có số lượng quần thể voi lớn nhất và là quần thể voi có khả năng phát triển vì trong đàn có voi con. Công tác bảo tồn tài nguyên rừng, đặc biệt là công tác bảo tồn các loài động vật quý hiếm trong thời gian qua đã được các cấp chính quyền tỉnh Nghệ An, Chi cục Kiểm lâm Nghệ An, ban quản lý các khu rừng đặc dụng và các cơ quan ban ngành liên quan quan tâm bằng việc tăng cường lực lượng kiểm lâm hàng năm và đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học về lâm nghiệp, chỉ đạo mạnh mẽ các địa phương, các ban ngành tích cực và làm tốt công tác bảo vệ tài nguyên rừng tại địa phương mình và khu vực do mình quản lý. Do vậy, số vụ vi phạm năm sau đều giảm so với năm trước. Đặc biệt là việc thành lập Vườn quốc gia Pù Mát và hai Khu bảo tồn thiên nhiên (Pù Huống và Pù Hoạt) với mục đích bảo tồn nguồn tài nguyên rừng trọng yếu của Nghệ An tập trung tại đây nên đã phần nào gìn giữ được tài nguyên rừng. Tuy nhiên, đây cũng là vùng có mức sống nghèo so với toàn tỉnh, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số Thái, H' Mông, Poọng, Ơ Đu, Khơ Mú và Đan Lai. Trong những năm qua, nhờ sự đầu tư của Nhà nước thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội cho vùng đồng bào, dân tộc miền núi, đặc biệt Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt đề án "phát triển kinh tế xã hội miền tây tỉnh Nghệ An đến năm 2010" với mục tiêu "đưa miền tây Nghệ An thoát khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống vật chất đồng bào được nâng cao, nhất là đồng bào vùng sâu, biên giới, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, bảo vệ tốt quốc phòng an ninh biên giới và môi trường sinh thái bền vững". Sự đầu tư của quốc tế thông qua các dự án như dự án SFNC đầu tư để phát triển kinh tế cho các hộ gia đình thuộc vùng đệm Vườn quốc gia, dự án bảo vệ rừng lưu vực sông Cả, dự án Dadida của Đan Mạch, dự án phát triển miền núi phía tây Nghệ An của Luxambua nhằm bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn. Thông qua việc thực hiện các dự án, kinh tế của các hộ gia đình được nâng lên, các làng bản phần lớn được trang bị ti vi, chảo thu vệ tinh, truyền hình quốc gia. Nhận thức của người dân về rừng đã thay đổi, đã giảm được sự phụ thuộc các sản phẩm thu nhập từ rừng và giảm được sự tác động của người dân vào rừng. Tuy nhiên, ở các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Do đó, sự tác động của người dân vào rừng vẫn thường xuyên diễn ra. Đặc biệt, sự tác động vào các khu rừng đặc dụng. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng sinh thái, thu hẹp sinh cảnh sống của các loài động vật, nhất là các loài quý hiếm có phạm vi hoạt động rộng đang đứng trước nguy cơ diệt chủng ở khu vực này và đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng xung đột giữa voi và người đã xảy ra trong thời gian qua tại địa bàn dân cư vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát như Bản Thịn, xã Yên Khê; xã Lục Dạ; xã Môn Sơn, huyện Con Cuông; bản Mét, xã Phúc Sơn; xã Hội Sơn, huyện Anh Sơn, Lâm trường Anh Sơn gây thiệt hại về hoa màu, lương thực, người cho nhân dân ở khu vực này. Mức độ xung đột voi - người xảy ra ngày một quyết liệt hơn và thiệt hại do voi gây ra đối với đời sống của nhân dân ở đây cũng ngày một lớn hơn. Điển hình tháng 12/2006 xung đột voi - người xảy ra ở Bãi Lim, xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn đã gây ra thiệt hại về người, voi dùng vòi quật làm một người dân bị thương nặng. Năm 2007, một đàn voi với số lượng 5 con liên tục xuất hiện tại xã Phúc Sơn, xã Hội Sơn, huyện Anh Sơn phá hoại hoa màu, nhà cửa của nhân dân ở đây gây thiệt hại về kinh tế. Tuy sự xung đột voi và người xảy ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng nhưng việc giải quyết chỉ được thực hiện khi voi đã phá hoa màu, tài sản và đe dọa tính mạng người dân, mà chưa có biện pháp đề phòng, ngăn chặn từ ban đầu. Sự phối hợp giữa chính quyền và các ban ngành liên quan để giải quyết xung đột voi và người còn hạn chế. Đặc biệt, Nhà nước chưa có sự hỗ trợ thiệt hại về kinh tế và con người do voi gây ra. Công tác bảo tồn loài voi chưa được quan tâm đúng mức, voi cũng chỉ được coi như các loài động vật quý hiếm khác nên công tác quản lý bảo vệ, điều tra giám sát, nghiên cứu khoa học hay tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân… được thực hiện mang tính bảo tồn chung cho các loài động vật hoang dã, mà chưa có chương trình, dự án hay hoạt động cụ thể nào. Xuất phát từ thực tế nêu trên, loài voi Châu á cũng đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt tại Nghệ An.

Giải pháp bảo tồn.

Để thực hiện các tốt kế hoạch hành động bảo tồn voi ở Việt Nam đến năm 2010 của Chính phủ, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành văn bản giao cho Vườn quốc gia Pù Mát xây dựng dự án bảo tồn voi trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Dự án được xây dựng với các nội dung cụ thể, cần thiết phải thực hiện trong thời gian tới để bảo tồn và phát triển quần thể loài voi Châu á như sau: Tiến hành điều tra hiện trạng các khu vực có voi phân bố: Xác định số đàn, ước tính số voi của mỗi khu vực, cấu trúc đàn, vùng có voi phân bố để làm cơ sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn loài voi tại Nghệ An, cụ thể là Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền tây Nghệ An và thực hiện chương trình giám sát voi. Thiết lập chương trình giám sát voi để thu thập những thông tin cơ bản về sinh thái, tình trạng và xu thế biến đổi của quần thể voi tại Vườn quốc gia Pù Mát. Kết quả chương trình giám sát sẽ làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược bảo tồn ngắn hạn, bảo tồn lâu dài loài voi tại từng khu vực phân bố trên toàn tỉnh Nghệ An. áp dụng công nghệ thông tin vào công tác bảo tồn voi. Xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu để cập nhật số liệu điều tra nghiên cứu, xử lý và báo cáo. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương các huyện, xã vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát để có sự phối hợp chặt chẽ, nghiêm khắc, thường xuyên hơn nhằm ngăn chặn tình trạng săn bắt, vận chuyển, tiêu thụ động vật hoang dã trên địa bàn, các hoạt động khai thác gỗ, đốt nương làm rẫy và các hoạt động bất hợp pháp khác tác động đến các vùng sinh cảnh sống của quần thể voi. Phục hồi và phát triển các vùng sinh cảnh sống đã bị suy thoái để voi sinh sống. Tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về tầm quan trọng đối với việc bảo tồn voi bằng việc biên soạn sách tuyên truyền về giá trị bảo tồn và các biện pháp bảo vệ voi, phân phát cho người dân địa phương xung quanh các khu vực có voi sinh sống. In áp phích, tờ rơi với các thông tin về bảo tồn voi phát cho học sinh trường học, người dân và tổ chức tuyên truyền đến người dân địa phương về giá trị của việc bảo tồn voi, cũng như việc chấp hành các quy định Nhà nước về bảo tồn voi và động vật hoang dã. Tăng cường nguồn nhân lực thực hiện công tác quản lý bảo tồn và nghiên cứu khoa học bằng việc cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, tổ chức các lớp tập huấn trong lĩnh vực bảo tồn voi, tổ chức cho cán bộ các khu rừng đặc dụng tham quan trao đổi kinh nghiệm với các khu bảo tồn khác ở trong nước và nước ngoài. Điều tra về xung đột voi và người tại khu vực voi phân bố và thực hiện các giải pháp hạn chế xung đột voi và người như: Hỗ trợ người dân bị thiệt hại về tài sản, hoa màu hoặc người dân khi bị thương trong các vụ xung đột. Tiến hành xây dựng các chòi canh cảnh báo tại các vùng trọng điểm, nơi thường xuyên xảy ra sự xung đột voi và người. Xây dựng các trạm truyền thanh làng bản thông tin về voi tại các khu dân cư để nhân dân có biện pháp phòng tránh và hạn chế xung đột. Nghiên cứu và xây dựng mô hình phát triển kinh tế cho nhân dân tại các vùng thường hay xảy ra xung đột voi - người bằng việc trồng các loại cây trồng mang lại thu nhập kinh tế cao, ổn định, nhưng không phải là thức ăn của voi để tránh việc voi đến tìm thức ăn và gây xung đột. Đồng thời đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Đào tạo phát triển và tìm đầu ra cho sản phẩm các ngành nghề như dệt thổ cẩm, các sản phẩm đan lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ tre, nứa, luồng tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Thiết lập chương trình hợp tác bảo tồn quần thể voi liên biên giới giữa tỉnh Nghệ An (Việt Nam) với hai tỉnh Xiang Khoang và Borikhan (Lào). Gồm tổ chức hội thảo, tọa đàm giữa UBND tỉnh, các ban ngành liên quan của Nghệ An, Ban quản lý các khu rừng đặc dụng tại Nghệ An với chính quyền, các ban ngành liên quan của hai tỉnh Xiang Khoang và Borikhan (Lào) xây dựng quy chế phối kết hợp trong công tác bảo tồn voi liên biên giới giữa Nghệ An (Việt Nam) và hai tỉnh Xiang Khoang và Borikhan (Lào) nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật ở các tỉnh liên biên giới, ngăn chặn có hiệu quả hành động săn bắn, buôn bán voi và các sản phẩm của voi qua đường biên giới. Tổ chức chương trình tập huấn liên quốc gia về công tác quản lý, bảo tồn và phát triển loài voi cho cán bộ của tỉnh Nghệ An (Việt Nam) và cán bộ của hai tỉnh Xiang Khoang và Borikhan (Lào). Hàng năm tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị quốc tế để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về công tác bảo tồn voi giữa các nước trên thế giới.

Nguyễn Thanh Nhàn, Võ Công Anh Tuấn


Số lượt đọc:  1238  -  Cập nhật lần cuối:  04/01/2008 01:57:53 PM
Thông báo

THÔNG BÁO: Đề nghị các địa phương cập nhật, báo cáo diễn biến rừng năm 2024 theo quy định tại Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 và Thông tư số 16/2023/TT-BNNPTNT. Chi tiết...

Liên kết
PHIM PHÓNG SỰ
Giữ vững màu xanh tổ quốc - Tập 2  
THƯ VIỆN ẢNH