Vấn đề nương rẫy, canh tác trên đất dốc của đồng bào các dân tộc vùng cao đã hình thành, tồn tại hàng nghìn năm nay, là một loại hình canh tác truyền thống nằm trong hệ sinh thái nông nghiệp của vùng núi đồi. Nương rẫy và canh tác trên đất dốc luôn gắn với công tác bảo vệ rừng. Trong một chừng mực có thể kiểm soát được thì nương rẫy không làm tăng thêm nguy cơ phá rừng tự nhiên, mà nó góp phần ổn định tình hình dân cư sinh sống, tạo nguồn lương thực tại chỗ nhằm thực hiện các chính sách dân tộc của Đảng.
Tuy nhiên, thật đáng tiếc là cho đến những năm gần đây, công tác nương rẫy của đồng bào các dân tộc vùng núi cơ bản vẫn nằm ngoài sự quản lý của các cơ quan chức năng. Nhiều diện tích rừng tự nhiên vẫn bị phá hàng năm để sản xuất lương thực và các loại cây công nghiệp khác. Rừng tiếp tục bị suy giảm nghiêm trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng đất canh tác và đe dọa môi trường sinh thái. Từ đó, đáng lẽ nương rẫy phải được coi là một hiện tượng khách quan, nằm trong hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, thì bị tách ra, bị coi là thủ phạm đứng đầu về phá rừng, và luôn bị các nhà quản lý về lâm nghiệp, nông nghiệp né tránh khi hoạch định các chính sách về chiến lược đất đai.
Nghị định 64/CP về giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân không coi đất làm rẫy du canh là đất nông nghiệp nhưng thực tế sản lượng lương thực và nông sản vẫn được thống kê. Nghị đinh 02/CP về giao đất lâm nghiệp thì không đề cập đến làm nương rẫy. Chúng ta đã cho rằng làm nương rẫy là phá rừng và trái với mục đích lâm nghiệp, nên trong chính sách về giao đất lâm nghiệp chúng ta đã đặt vấn đề nương rẫy ra ngoài.
Nhưng thực tế tám mươi vạn đồng bào miền núi Thanh Hóa đang còn sống dựa vào rẫy và sẽ còn dựa vào rẫy nhiều năm nữa, trong khi hai ngành nông nghiệp, lâm nghiệp chưa tính đến nương rẫy của họ, chưa chấp nhận một nhu cầu sử dụng đất chính đáng và thiết yếu của người dân vùng cao thì liệu chúng ta đã công bằng trong đối xử với đất đai và với đồng bào dân tộc thiểu số hay chưa.
Từ vấn đề như vậy, khi thực hiện đề án Hỗ trợ người dân vùng cao canh tác nông lâm nghiệp bền vững trên đất nương rẫy theo Quyết định 2945 ngày 5/10/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chúng tôi đề nghị phải có một cách nhìn mới, khoa học và toàn diện đến công tác nương rẫy và canh tác trên đất dốc, phải có một cách tiếp cận thực tế và chấp nhận sự tồn tại khách quan của công tác nương rẫy và tiến tới quy hoạch, quy vùng quản lý hiệu quả hơn. Vừa có lương thực cho đồng bào dân tộc, vừa không phá hoại rừng và môi trường đất đai, nguồn nước và khí hậu.
Việc quy hoạch quy vùng đất sản xuất nương rẫy phải thống nhất các quan điểm chỉ đạo. Trước hết phải xác định đó là đất lâm nghiệp nhưng chưa có rừng, thực bì nhóm Ib, Ic là chủ yếu để có khả năng phục hồi thành rừng trong quá trình luân canh, đưa tiến bộ kỹ thuật vào canh tác rẫy và các giống chịu hạn có năng suất cao để tiết kiệm đất đai, đa dạng hóa các loài cây trồng gắn với cây truyền thống để chống xói mòn và mục đích cuối cùng là hết chu kỳ kinh doanh nương rẫy, đất không những không bị thoái hóa mà đã thành rừng kinh tế và gia dụng.
Theo số liệu thẩm định kết quả rà soát 3 loại rừng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tháng 1/2007, Thanh Hóa có 130.000ha đất lâm nghiệp không có rừng thuộc rừng sản xuất, trong đó chủ yếu là thực bì nhóm Ic và Ib. Diện tích này đang được quy hoạch cho phát triển một số cây công nghiệp chiếm khoảng 50.000ha số còn lại cơ bản đang thả nổi cho dân quảng canh, sản xuất lương thực tự cấp với năng suất thấp, không ổn định cho công tác bảo vệ rừng vì sự đe dọa thường trực mở rộng đất sản xuất nương rẫy vào rừng tự nhiên ở vùng phụ cận.
Qua tính toán của chúng tôi dựa trên khảo sát về khối lượng lương thực thiếu bình quân hàng năm của các huyện miền núi, diện tích đất trống đồi núi trọc còn nhàn rỗi và truyền thống canh tác, mỗi hộ nông dân miền núi bình quân 5-6 khẩu cần có 1ha rẫy thâm canh. Nhưng không phải toàn bộ diện tích này được bố trí phát quang làm rẫy hàng năm. Cách thức sản xuất mà chúng tôi đưa ra là một ý tưởng mới, theo đó mỗi năm hộ gia đình chỉ canh tác 2500 mét vuông đất và canh tác 2 năm liên tục. Trên diện tích đó bắt buộc phải thâm canh để đưa năng suất cây lương thực lên khoảng 1,5 lần so với cách làm hiện nay. Phần diện tích 7500 mét vuông còn lại thì cho đất nghỉ để đảm bảo độ che phủ của thảm thực bì, chống xói mòn cục bộ. Năm thứ 3 và 4, hộ gia đình canh tác 2500 mét vuông đất tiếp theo. Diện tích 5000 mét vuông còn lại vẫn cho đất nghỉ, không tác động. ở diện tích 2.500 mét vuông đã canh tác năm thứ nhất và thứ 2 bắt đầu trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả... và có trồng xen cây nông nghiệp theo phương thức nông lâm kết hợp. Tuần tự như vậy đến năm thứ 9 không canh tác nương rẫy nữa, lúc này đã bắt đầu có sản phẩm thu hoạch từ cây lâm nghiệp, cây ăn quả và hộ gia đình chỉ làm lương thực tận thu dưới tán rừng. Khép kín chu kỳ rẫy 10 năm, toàn bộ diện tích rẫy canh tác đã thành rừng kinh tế hoặc gia dụng.
Về lý thuyết, quy vùng sản xuất nương rẫy theo mô hình nêu trên là lý tưởng. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện sẽ xuất hiện các nhân tố có lợi và không có lợi làm cho diện tích quy hoạch biến động ít nhiều.
Nhân tố có lợi: Nhà nước đẩy mạnh công tác khuyến lâm và phổ cập lâm nghiệp, lựa chọn các tập đoàn giống ưu việt, làm cho năng suất bình quân tăng lên. Đây là nhân tố quan trọng nhất có thể làm giảm đáng kể diện tích quy hoạch nương rẫy. Ngoài ra năng suất lúa nước ngày một tăng cũng làm cho nhu cầu lương thực của miền núi ngày càng được cải thiện. Nhà nước đầu tư mở mang cơ sở hạ tầng miền núi làm cho hàng hóa lưu thông, giá bán lâm sản và các sản vật khác của miền núi tăng lên, họ có thể dành ra một số tiền để mua thêm lương thực, làm giảm nhu cầu sản xuất lương thực xuống, và làm giảm theo nhu cầu diện tích đất canh tác rẫy hàng năm. Khi Nhà nước đã giao đất cho dân, hộ nông dân tham gia trồng cây lâm nghiệp theo các dự án, trong đó có 1 số loài cho thu hoạch từ năm thứ 4, thứ 5 như luồng, cây ăn quả... không chờ hết thời gian quy hoạch 10 năm, do đó sản phẩm chung của hộ gia đình tăng lên, làm giảm nhu cầu sản xuất lương thực. Các yếu tố về xã hội, về tâm lý cộng đồng... cũng có tác dụng tốt, như tính tiết kiệm, kể cả tiết kiệm đất đai và tiêu dùng. Các mô hình làm ăn khá, giàu có của nông dân miền núi không phải đi lên từ nương rẫy, mà từ cây lâm nghiệp trên đất được giao, đã làm thay đổi nếp nghĩ, tập quán canh tác truyền thống của đồng bào dân tộc miền núi Việt Nam.
Nhân tố không có lợi: Tỷ lệ tăng dân số của miền núi còn cao. Sau 10 năm, dân số tăng lên khoảng 1,3 lần làm cho nhu cầu lương thực tăng lên gấp đôi. Các tập tục về cưới xin, ma chay, hội hè... còn nặng về ăn uống, làm cho nhu cầu lương thực vốn đã thiếu lại càng căng thẳng thêm trong mùa giáp hạt. Lối quen canh tác truyền thống và thích phát vào rừng già, rừng sâu cho năng suất cao tự nhiên, do đó việc đưa dân vào làm rẫy tại vùng quy hoạch bước đầu sẽ gặp khó khăn về tâm lý. Nếu không kiên trì thì mục tiêu của quy hoạch sẽ không đạt được, dân sẽ quay lại phát rừng làm rẫy vào rừng tự nhiên. Thói quen dựa vào hoa lợi tự nhiên của rừng mang lại và sự lười nhác của một bộ phận nông dân nghèo miền núi, cũng như sự suy nghĩ giản đơn của họ làm khó khăn thêm cho công tác quy hoạch của chúng ta.
Do vậy trong cách làm này, phải hướng đến vị trí quan trọng của công tác tuyên truyền, phải nói bằng nhiều cách cho dân hiểu, cho dân được bàn bạc, được tham gia vào quy hoạch ngay từ đầu. Nhà nước phải rà soát lại đất rừng, xác định đúng đối tượng đất lâm nghiệp quy hoạch cho nương rẫy, nhân điển hình, chọn cây con phù hợp cho từng vùng, sao cho sau vài ba năm, đời sống của dân có sự cải thiện rõ nét thì khi ấy việc quy hoạch nương rẫy mới đạt được kết quả bền vững. Sản xuất nương rẫy của người miền núi đang là một vấn đề xã hội, dù các nhà quản lý không muốn, nó vẫn tồn tại khách quan. Do vậy cách tốt nhất là chủ động tiếp cận và quản lý có hiệu quả nhằm tiến tới chấm dứt tình trạng phá rừng tự nhiên làm rẫy, cải thiện tình trạng canh tác lạc hậu nặng nhọc và đời sống cho nông dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và đưa miền núi vào tiến trình chung của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
TRẦN TẤT TIẾN