Số 2

Một đời người, một rừng cây

Vốn xuất thân không phải là một chuyên gia lâm nghiệp, thế nhưng cuộc đời lại run rủi ông Lê Việt Hào đến với nghề lâm nghiệp. Cái nghiệp trồng cây gây rừng đã trở thành máu thịt trong ông. Hàng chục năm ông gắn với nghề trồng rừng cho đến tận lúc nghỉ hưu. Năm 1955, vừa 16 tuổi ông Hào đã được tập kết ra Bắc, là học sinh miền Nam, rồi học đại học Bách Khoa Hà Nội, khoa bản đồ - không ảnh. Vì có cái bằng đại học chuyên ngành bản đồ, ông Hào được tổ chức phân công làm việc tại Bộ Lâm nghiệp. Ông có duyên nợ với rừng từ đó. Sau ngày miền Nam giải phóng, ông Hào được điều về công tác tại Phân Viện 3 - Điều tra qui hoạch rừng Trung Trung bộ và Tây Nguyên, đóng tại Quy Nhơn. Từ đây ông càng nắm rõ tình hình tài nguyên rừng trong khu vực, nhất là thực trạng rừng Tây Nguyên.

Năm 1989, sau khi học xong đại học Kinh tế Công nghiệp tại Đại học Bách khoa Đà Nẵng (bằng đại học thứ 2); ông Hào được điều lên làm giám đốc lâm trường Bắc An Khê, trực thuộc Liên hiệp Lâm công nghiệp Kon Hà Nừng. Thế là phải bỏ lại tất cả ở Quy Nhơn để cõng ba lô lên rừng; nhưng với tư chất nghệ sỹ, ông không hề buồn nản mà lại thấy vui vui. Ông Lê Việt Hào quê gốc ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Những năm công tác ở Bộ Lâm nghiệp, vốn là một chàng trai hào hoa, trí thức lại có máu mê văn chương nghệ thuật, ông đã được một cô gái Hà Thành đem lòng yêu thương rồi nên vợ thành chồng. Đưa vợ rời thủ đô Hà Nội vào Nam chưa được bao nhiêu năm, ông đã lại phải xa vợ, bỏ phố phường để theo tiếng gọi của niềm đam mê núi rừng cao nguyên.

Cái Liên hiệp Lâm công nghiệp Kon Hà Nừng ngày ấy chủ yếu làm công nghiệp rừng như khai thác, chế biến gỗ. Riêng lâm trường Bắc An Khê là đơn vị đặc biệt, chỉ làm nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng, mà một phần lớn diện tích trong số đó là đồi núi trọc, hậu quả của chiến tranh để lại. Lâm trường Bắc An Khê có một vùng lâm phần trùm lên con Đèo Măng Yang cao vòi vọi. Theo tiếng địa phương, Măng Yang có nghĩa là "Cổng Trời".

Về nhận chức giám đốc, ông Hào phải đứng trước bao nhiêu khó khăn thử thách. Ngày ấy, lâm trường làm công tác chăm sóc bảo vệ rừng nhưng đơn vị của ông chỉ được xếp hạng lâm trường loại 4, nghĩa là giám đốc tối đa chỉ được hưởng hệ số lương 3,94. Mà lương ông khi ấy đã nằm ở mức 3,94 rồi. Đành phải chấp nhận tình trạng hàng chục năm công tác, cho đến tận ngày nghỉ hưu không được tăng lương. Mà công nhân lâm trường loại 4 này cũng thua thiệt đủ đường so với các lâm trường có rừng, có nhiệm vụ khai thác gỗ. Lương đã thấp lại phải đối mặt với bao nhiêu hiểm họa. Nhất là họa lửa. Núi ở đây vừa cao, lại dốc thăm thẳm, mọc toàn cỏ lông lợn, cỏ lông bông, cỏ tranh. Mùa khô khu vực đèo lại lộng gió. Rừng cháy triền miên. Vứt tàn thuốc lá, cháy rừng. Phát đốt rẫy, cháy rừng. Đốt bổi săn thú, cháy rừng... Bao nhiêu là việc có thể gây ra cháy rừng. Đang ăn cũng có thể cháy rừng, đang ngủ cũng có thể cháy rừng. Mỗi lần cháy rừng là cả thầy lẫn trò đều phải chạy, phải lăn cả vào rừng. Mà cứ mỗi đợt cháy rừng là mỗi người phải mất một bộ quần áo, một đôi giày.

Để giữ rừng, chống cháy rừng, trong những năm ấy, ông Hào đã đưa ra sáng kiến đốt rừng chủ động. Nghĩa là vào đầu mùa khô, chủ động phát cây cỏ, tạo các đường băng cản lửa và đốt trước, nhằm ngăn cách, cô lập các khu rừng với nhau. Sau này, lâm trường đã phải lập 11 đội bảo vệ rừng, 5 tổ trực 24/24 ngay tại rừng trong những ngày mùa khô.

Những năm sau việc giữ rừng đã tạm ổn, ông Hào vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm: Phải làm sao để phát triển vốn rừng hơn nữa. Những ngày ở trên đất Bắc, công tác ở Bộ Lâm nghiệp ông đã thấm thía lời dạy của Bác Hồ, khi Bác phát động toàn dân hưởng ứng tết trồng cây. Bác viết: "Mùa xuân là tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân". Có câu nói của Bác đã trở thành khẩu hiệu hành động của toàn ngành lâm nghiệp: "Rừng là vàng, nếu biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất quý". Bác dạy toàn dân ta: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". Đó cũng là truyền thống, đạo lý của người á Đông. Người á Đông luôn sống hài hòa với thiên nhiên. Triết học á Đông luôn khẳng định con người với thiên nhiên có mối quan hệ trong một thể đồng nhất thiên - địa - nhân, thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Khi Bác Hồ nói về việc trồng cây, bảo vệ rừng thì lúc ấy nguy cơ về tàn phá môi trường sinh thái chưa phải là vấn đề lớn, chưa phải là vấn nạn của quốc gia và nhân loại; ý thức giữ rừng của mỗi người dân còn rất mơ hồ. Như thế mới thấy hết tầm vóc lớn lao, cái nhìn xa trước thời đại của Bác.

Những năm ở Phân viện diều tra quy hoạch rừng Trung Trung bộ và Tây Nguyên, ông Hào đã nhiều lần lội nát khu vực đèo Măng Yang. Ông nhận thấy đây là khu vực trọng yếu trong chiến tranh, là cái yết hầu nối liền hai vùng Đông và Tây Trường Sơn; nối giữa khu vực Tây Nguyên rộng lớn với cả vùng đồng bằng Khu Năm. Trong chiến tranh, để ngăn chặn cán bộ, bộ đội của ta, khống chế toàn bộ tuyến đường 19, địch đã rải xuống khu vực đỉnh đèo rất nhiều chất độc màu da cam và một lượng lớn bon đạn. Có thể nói đỉnh đèo Măng Yang là cái rốn của chất đi ô xin và bom, đạn. Tuy vậy, qua nhiều lần khảo sát, ông Hào đã phát hiện trên các đỉnh núi cao thuộc vùng đèo Măng Yang vẫn có những vùng đất rất trong lành, nhiều vùng có suối nước, nhiều vùng còn có loại thông ba lá mọc tự nhiên rất tốt. Trên đó có núi Bà Tiên, suối Nước Lạnh, phong cảnh hữu tình như Đà Lạt, quanh năm gió mát, mây mù. Từ những sự hiểu biết sơ bộ như vậy, trong đầu ông Hào đã nảy ra ý tưởng trồng rừng trên những lưng đồi trơ trọi của đèo Măng Yang. Đó là một ý trưởng thật sự táo bạo, ít ai dám nghĩ. Tuy nhiên đó cũng là một ý tưởng làm lóe sáng rất nhiều lợi ích. Trồng rừng trên đỉnh đèo Măng Yang ngoài vấn đề củng cố và bảo vệ môi trường, nó còn có mục đích quân sự sâu xa, đặc biệt là làm đẹp cảnh quan khu vực con đèo rùng rợn nghiệt ngã, trấn an tinh thần những người lái xe. Được biết ngày trước đèo Măng Yang là một con đèo tử thần. Trong rất nhiều nguyên nhân gây ra những tai nạn khủng khiếp, các tài xế cho biết, trước con đèo đổ dốc quanh co, hai bên toàn thung lũng sâu hoắm trọc trơ đất đá, cứ gây nên cảm giác rùng rợn, làm giảm sự vững tâm cho người qua lại. Cái lợi của việc trồng rừng phủ xanh dốc đèo thì quá rõ rồi. Song phía trước là vô vàn khó khăn. Từ tiền vốn đầu tư, hiệu quả sinh trưởng của cây, rồi chất độc, rồi đạn bom trong lòng đất... Mê rừng, say sưa phương án trồng rừng, nhiều đêm ông Hào thức trắng suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu, củng cố quyết tâm. Lại nhiều ngày ông bỏ nhiệm sở để leo núi. Sau ông quyết định dời cơ quan từ thị trấn An Khê (nay là thị xã An Khê) lên chân đèo Măng Yang để thực hiện sự nghiệp trồng rừng.

Khi đã nắm chắc tình hình địa bàn, có những nghiên cứu cụ thể, ông Hào tiến hành vận động sự ủng hộ của các ban ngành và lãnh đạo tỉnh. Ông Hào đã tổ chức nhiều cuộc mời các đồng chí lãnh đạo tỉnh tâm huyết với rừng đi dã ngoại kiểm tra thực địa và thuyết trình các dự định ý tưởng. Những năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, Nhà nước có chủ trương trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, gọi là chương trình trồng rừng 327. Mơ ước của ông Hào lúc ấy cứ như trời hạn gặp mưa. Được lãnh đạo tỉnh ủng hộ, được tham gia chương trình 327, việc trồng rừng phủ xanh đèo Măng Yang đang được hiện thực dần. Đùng một cái cũng đúng cái năm 1990 ấy, người vợ thân yêu của ông, cô gái Hà Thành đột ngột qua đời để lại cho ông một nách ba con nhỏ. Khó khăn chồng chất khó khăn. Thương xót người vợ thân yêu xấu số, lại tự thấy mình như người có lỗi. Đó thực sự là một mất mát, một sự hụt hẫng lớn trong đời ông. Dẫu vậy, đã quyết tâm trồng rừng đèo, đã có sự giúp đỡ ủng hộ của cấp trên, ông Hào không thể dừng lại được.

Thế nhưng khi đã bắt tay vào công việc, có lúc ông Hào như bị ngớp. Mảnh đất ấy còn dày đặc bom đạn, nhiều công nhân cuốc đất trúng mìn trọng thương. Đơn vị phải thuê bộ đội Trung doàn 7 rà phá bom mìn hết toàn bộ khu vực rừng đèo. Việc dò gỡ bom đạn cũng là một bước gian nan. Vì đơn vị thiếu tiền, định mức cho phép đầu tư rà phá bom mìn chỉ 1,2 triệu đồng trên một héc ta. Với giá ấy thực tế chỉ đủ tiền nước nôi (vì cùng lúc việc rà phá bom mìn trên công trường thủy điện Ialy vào khoảng 20 triệu đồng một héc ta). Để được việc, ông Hào đã phải lặn lội, trình bày hết khát vọng, ý tưởng của mình với thủ trưởng Trung đoàn 7. Hiểu được tấm lòng của anh Hào, lại thương công nhân lâm trường có thể đổ máu vì màu xanh, lại yêu quí rừng, cuối cùng Trung đoàn trưởng đã quyết định đảm nhận phần việc khó khăn ấy với một tấm lòng thơm thảo. Hàng ngày bộ đội phải rà từng tấc đất, bất kể núi cao, suối sâu. Khi phát hiện được từng đầu đạn, từng quả mìn, các chiến sĩ bộ đội đều phải bưng nhẹ nhàng trên hai bàn tay, cẩn trọng tập kết đến một nền cát, rồi gom lại một cái hố để đốt bằng xung lượng. Một bước vấp váp, một sơ suất trong công việc có thể gây nên hậu quả không lường. Công viêc ấy cứ thầm lặng qua tháng ngày trả lại cho những đỉnh đồi sự an lành vốn có.

Giải phóng được mặt bằng, đến công đoạn trồng cây cũng không kém phần nan giải. Đầu tiên là dư lượng chất độc đi ô xin. ở những vùng trũng, đất cuốc lên còn nồng nặc mùi chất độc màu da cam hăng nồng. Nhiều công nhân tiếp xúc với chất độc bị đau đầu, nôn mửa, bỏ ăn, thậm chí là đổ bệnh. Có người thấy vậy phát nản. Ông Hào lại phải gần gũi, an ủi, động viên. Mọi người hiểu tấm lòng ông nên ai cũng ráng sức, ráng lòng. Cũng may là dù có ốm đau, rốt cuộc ai cũng qua, chẳng có người nào phải nằm lại với rừng. Ông Hào bảo: Mình có mạng cầm quân; chất độc, đạn nổ mà may mắn không bị cướp đi mạng sống nào!

Là con nhà quy hoạch, ông Hào nghiên cứu khá kỹ địa hình, thời tiết khí hậu thủy văn vùng đèo. Vì đất dốc, sỏi đá, nên cây trồng phù hợp là thông ba lá, loại cây cùng một lập địa với thông rừng tự nhiên ở một số vùng trên đỉnh núi. Mùa mưa ở vùng đèo Măng Yang vào tháng 6 là đủ lượng nước để trồng cây. Để chủ động trong công việc, đảm bảo thời vụ trồng cây sớm, ông Hào đã nghĩ ra một sáng kiến là đưa cây vào rừng sớm hơn một tháng, tức là vào tháng 5 hàng năm. Cây đưa sớm vào rừng trước một tháng, phải mất công chăm tưới giữa rừng. Hàng ngày, lâm trường cắt cử công nhân lập lán, múc nước suối để tưới. Tuy vậy việc đưa cây giống vào rừng trước mùa mưa đã tránh được sự lầy lội của đường rừng, chủ động được nguồn cây giống cho việc trồng sớm khi mưa xuống. Đặc biệt theo ông Nguyễn Việt Hào, việc chủ động giống cây tại chỗ đã nâng cao hiệu quả của công tác trồng dặm rõ rệt. Ông Hào cho biết, tỷ lệ cây thông ba lá trồng sống khoảng 95%. Số cây chết 5%, muốn có hiệu quả cần phải trồng dặm ngay trong vụ, đảm bảo cho cây lên đồng đều, không chèn át nhau.

Để chủ động đưa được cây giống vào rừng trước mùa mưa với quãng đường khoảng 10km, lâm trường đã phải bốc dỡ, vận chuyển qua bốn loại phương tiện khác nhau. Đầu tiên là dùng ô tô chở cây từ nhà các vườn ươm tập kết đến các vùng chân đèo, chân núi. Tiếp đến, phải dùng các loại xe độ chở cây vượt đường rừng đến cửa rừng. Sau đó phải dùng xe bò kéo, luồn rừng vượt dốc chở cây giống lên tập kết tại các lô. Cuối cùng là thuê đồng bào dân tộc thiểu số dùng gùi mang cây từ lô về các tiểu khu trên những mái rừng dốc 40 - 450. Người khỏe tối đa gùi mang được 80 bầu giống cây. Mỗi ngày một người mang được 2 - 3 chuyến vượt dốc trên quãng đường 4 - 5 km. Những năm đầu, lâm trường chỉ dám trồng 50 - 100ha. Về sau, khi đã có kinh nghiệm, lại được sự đầu tư của chương trình 661 (chương trình 5 triệu ha rừng), lâm trường đã mạnh dạn trồng trên dưới 200ha/ năm. Qua mười năm từ 1991 - 2001, lâm trường Bắc An Khê, dưới sự chỉ huy đầy nhiệt huyết của ông Lê Việt Hào đã trồng được xấp xỉ 1.000ha rừng phủ xanh hầu hết đỉnh đèo Măng Yang. Sau hàng thập kỷ, là khu rừng chết, đèo Măng Yang, con đèo cao ngất ngưỡng ví như "cổng trời" đã được trả lại màu xanh. Với một tâm hồn thi vị, ông Lê Việt Hào không những chỉ trồng rừng phủ xanh lưng đèo mà còn chỉ đạo công nhân lâm trường trồng cây bóng mát hai bên đường đèo bằng một loài hoa cũng đầy chất thơ. Đó là loài hoa sữa, loài hoa ngạt ngào của thủ đô Hà Nội đã đi vào bao áng thơ ca trữ tình. Bây giờ ở hai bên đường đèo Mang Yang, hoa sữa đã mọc thẳng hàng, cho hoa thơm nức như phố Nguyễn Du, Hà Nội. Có người bảo, ông Hào quá nhớ Hà Nội nên trồng đầy con đường đèo toàn là hoa sữa. Không biết có đúng không? Hỏi, ông chỉ cười rất vui. Mà có nhớ Hà Nội cũng là đúng thôi. Đời ông đã lớn lên ở thủ đô Hà Nội, làm việc ở thủ đô Hà Nội trong nhiều năm liền, lại lấy vợ người chính gốc Hà Nội, không nhớ sao được. Chỉ biết rằng, bây giờ mỗi lần chạy xe trên con đường đèo ấy, đã không còn khủng khiếp như xưa. Bây giờ con đèo Măng Yang đã luôn thoang thoảng thơm mùi hoa sữa, cái mùi gần gũi tâm tình, cái mùi nồng nàn ấm cúng, mà bay bổng lãng mạn.

Hiện tại ông Lê Việt Hào đã nghỉ hưu. Ba đứa con của ông (1 trai 2 gái) tất cả đã học hết đại học, đã đi công tác xa. Ông đã đi bước nữa với một người đàn bà ở tại thị xã An Khê. Nhưng nghiệp trồng rừng thì vẫn không rời ông được. Những năm mới nghỉ hưu ông tham gia dự án trồng rừng ADB pha một. Bây giờ thì ông Hào đang trồng 10ha rừng bạch đàn cao sản ở chính vùng đất giữa hai đỉnh đèo ấy. Và bây giờ rừng thông đã xanh ngắt lưng đèo Măng Yang. Vì thành quả ấy, năm 2001 cá nhân ông Lê Việt Hào đã được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng 3; tập thể lâm trường Bắc An Khê cũng được tặng huân chương đồng hạng (Cùng việc trồng thông phủ xanh đèo Măng Yang, mái tây đèo còn có ông Hải giám đốc lâm trường Hà Ra, có thể nói đây là một cặp đã tạo nên sự thành công trong việc phủ xanh con đèo Măng Yang hiểm trở. Năm ấy ông Hải và lâm trường Hà Ra cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3 vì thành tích phủ xanh lưng đèo).

Già rồi, nghỉ hưu rồi mà ông Hào vẫn đau đáu một điều: Chưa thực thi được phương án khai thác chế biến nhựa thông tại chỗ để vừa tạo việc làm nâng cao đời sống cho công nhân, cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vừa góp phần tăng cường công tác bảo vệ rừng. Theo ông Nguyễn Việt Hào, chính lợi ích của người lao động, đời sống của người dân là yếu tố quyết định trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.

Những lúc rỗi rãi ông Hào lại tham gia câu lạc bộ Văn học nghệ thuật của thị xã An Khê (hiện ông là phó chủ tịch câu lạc bộ), ông đam mê thơ, đam mê chụp ảnh, nhất là ảnh về rừng. Vẫn những nỗi đam mê thời trai trẻ đã từng đưa ông đến với rừng. Lưng đèo thông đã đi vào ảnh của ông như những tác phẩm của những nghệ sỹ thực thụ. Hình tượng cây thông thật cao cả, như chính cuộc đời những con người đã trồng nên những rừng thông xanh vi vút.

PHẠM ĐỨC LONG


Số lượt đọc:  251  -  Cập nhật lần cuối:  14/04/2010 03:57:23 PM
Thông báo

THÔNG BÁO: Đề nghị các địa phương cập nhật, báo cáo diễn biến rừng năm 2024 theo quy định tại Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 và Thông tư số 16/2023/TT-BNNPTNT. Chi tiết...

Liên kết
PHIM PHÓNG SỰ
Giữ vững màu xanh tổ quốc - Tập 2  
THƯ VIỆN ẢNH